Người ta còn giữ được 5 lá thư của thánh Clara. Cả năm đều là những thư trả lời, đáng tiếc là những lá thư ngài đã nhận được đều không còn nữa.
a/ Thư cho Á-thánh Agnès thành Prague:
Gồm có 4 lá. Bản văn cũ nhất còn giữ được về 4 thư nầy nằm vào khoảng năm 1280 đến 1330. Chính Achille Ratti về sau là Giáo Hoàng Piô XI đã tìm ra năm 1924 tại Milan.
Người nhận thư là Á thánh Agnès thành Prague, ái nữ vua Ottoca I (1197-1230) xứ Bohem và hoàng hậu Constance xứ Hungari. Agnès sinh năm 1205; khi được 3 tuổi, ngài được đính hôn với Bô-lét-lát xứ Si-lê-si, rồi với Henri, con của hoàng đế Phédéric II. Sau khi Henri thành hôn với con gái của công tước Léopaul xứ Áo, ngài từ chối lời cầu hôn của Henri III nước Anh và của chính Phédéric II nữa.
Năm 1232, Anh em Hèn Mọn đến lập tu viện ở Prague (Tiệp Khắc). Thánh Agnès xây cho họ một nhà nguyện, và một nhà thương cho người bệnh nghèo khổ. Năm 1233 ngài cho cất sát bên nhà thương một đan viện, và năm sau chính ngài xuất gia nhập tu tại đó.
Cũng như Clara, Agnès phải chiến đấu nhiều cho sự nghèo khó tuyệt đối. Ngài mất năm 1282. Có lẽ ngài đã liên lạc khá nhiều bằng thư từ với thánh Clara. Đáng tiếc là chúng ta chỉ còn bốn thư, là bốn câu trả lời phát xuất từ đan viện Thánh Đamianô, và cho thấy tâm hồn của thánh Clara. Đấy là những chứng từ quí báu cả về đời sống thiêng liêng lẫn tình bạn, về sự tế nhị lẫn nghị lực. Đọc các bức thư ấy, người ta khám phá ra một văn phong vững chãi và một nền văn hóa phong phú nơi một phụ nữ thời ấy, một sự hiểu biết Kinh Thánh sâu xa và một sự sáng suốt đáng phục trong các lời khuyên liên hệ đến đời sống tu trì. Đây quả là những tuyệt tác về việc hướng dẫn thiêng liêng.
Thư thứ nhất chắc được viết trước khi Agnès vào dòng (trước lễ Hiện Xuống 1234) vì Clara còn gọi ngài la ”Ái nữ vua xứ Bohem” và xưng “Bà” với ngài, và không nhắc gì tới chị em ở Prague. Trong thư, thánh Clara ca ngợi Agnès về quyết định rời bỏ thế gian, nhưng chỉ nói về sự nghèo khó hoàn toàn y như thể mới ở bước đầu.
Thư thứ hai được viết vào khoảng từ năm 1234 đến 1239 vì Thầy Êlia được nhắc tới như là Vị Tổng Phục Vụ của Dòng Anh Em Hèn Mọn, mà Thầy bị cách chức năm 1239.
Thư thứ ba nói đến vấn đề giữ chay. Vào khoảng đầu năm 1238, Agnès cũng xin Đức Giáo Hoàng Grégôriô IX một qui luật mới về vấn đề nầy. Đức Giáo hoàng đã ban qui luật ấy vào ngày 11 tháng 5 năm 1238. Vậy có thể nghĩ rằng thư thứ ba được viết vào đầu năm ấy.
Giữa thư thứ 3 và thư thứ 4 có một thời gian im lặng lâu dài vì “thiếu người đem thư và đường xá hiểm nguy”; và có lẽ cũng vì Clara đau ốm liên miên. Trong thư, ngài chuyển lời chính em ruột ngài chào Agnès. Mà người ta biết rằng đầu năm 1253, người em ruột ngài mới trở lại đan viện Thánh Đamianô. Vậy thư thứ tư được viết vào khoảng từ tháng giêng đến tháng tám năm 1253.
b/ Thư gởi Ermentrude ở Bruges:
Theo Luca Wadding, thánh Clara đã viết cho Ermentrude hai lá thư. Bà nầy gốc ở Cologne, sang lập nhiều đan viện ở Bruge để sống cũng một nếp sống nghèo khó và chiêm niệm như tại đan viện Thánh Đamianô.
Luca Wadding không có bản chính của 2 bức thư nầy mà chỉ tóm lược nội dung của chúng lại. Do đó, tuy ta vẫn bắt gặp giọng văn và tư tưởng của thánh Clara, nhưng lời văn có vẻ đơn giản và thiếu thân mật.