Các Bài Suy niệm Chúa Nhật 5 Phục Sinh – Năm C

“Yêu như Chúa yêu” nghĩa là chấp nhận cúi xuống rửa chân cho anh em, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu. “Yêu như Chúa yêu” nghĩa là tự nguyện hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và trao ban như “bạn hữu thân tình”. “Yêu như Chúa yêu” nghĩa là sẵn sàng “yêu cho đến cùng”...

Các Bài Suy niệm Chúa Nhật 5 Phục Sinh – Năm C

Ga 13,31-33a.34-35

 

1. Tôi là môn đệ của ai?

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Kết thúc đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật V Phục Sinh hôm nay, Chúa Giêsu đã “bỏ nhỏ” với các môn đệ yêu dấu của mình một câu rất ngắn gọn: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau”.

“Môn đệ của Thầy” là gì? “Môn” tức là cửa (“cửa” ở đây được hiểu là cửa trường); “đệ” là em. Như thế, “môn đệ” nghĩa là người học trò được coi như em. Môn đệ của Thầy Giêsu nghĩa là người được học dưới mái trường Giêsu và được Chúa Giêsu coi như là em của Ngài. Được làm em của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là được làm con của Chúa Cha trên trời, được đồng thừa tự với Đức Kitô. Đây quả là một niềm vinh dự lớn lao. Vinh dự quá đi vì một thụ tạo thấp hèn lại được làm người học trò của Giêsu Vị Thầy Chí Thánh, và hơn thế còn được Ngài coi như người anh em của Ngài nữa!

Ở đời, nếu được thụ huấn với một giáo sư, tiến sĩ nào đó danh tiếng lẫy lừng, có lẽ ta sẽ tự hào lắm lắm, và nếu được làm anh em kết nghĩa với một nhân vật nào đó có quyền cao chức trọng nữa, ta lại càng tự hào và càng hãnh diện nhiều hơn. Vậy lẽ nào ta lại không hãnh diện, không tự hào khi được làm người môn đệ của Đức Giêsu Kitô, tức là được làm người học trò và làm người em của Ngài.

Đâu là “dấu” để người ta nhận ra mình là môn đệ của Đức Giêsu? Chắc chắn không phải là bộ đồng phục ta mặc trên người, không phải là chiếc khăn ta quàng trên cổ, cũng không phải là cái huy hiệu ta đeo trên ngực… mà đó chính là tình yêu thương ta có đối với anh em đồng loại: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau”. Có điều, yêu thương thì ai lại không biết; tất cả các nhà hiền triết đều mời gọi đệ tử mình sống yêu thương. Vậy yêu thương mà Chúa Giêsu mời gọi ở đây là yêu thương như thế nào?

Thưa là yêu thương “như” Chúa đã yêu thương. Đây là nét mới trong lời gọi mời yêu thương. “Mới” vì yêu thương ở đây không phải là yêu thương chung chung, nhưng là “yêu như Chúa đã yêu”! Cũng phải thôi, “làm môn đệ” của ai thì phải nỗ lực để trở nên giống người đó. Mà nét đặc trưng nơi Thầy Giêsu Chí Thánh không gì khác là tình yêu thương. Chính vì thế trở nên giống Thầy mình cũng có nghĩa là yêu thương như Thầy mình đã yêu.

Ở đây, Chúa Giêsu không còn lấy bất cứ thứ gì khác để làm điểm quy chiếu cho tình yêu, mà là lấy chính tình yêu của Ngài: “Yêu như Thầy”. Sách Đệ Nhị Luật dạy rằng hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Tin Mừng Thánh Mathêu đi xa hơn một chút, khi trích lại lời sách Lêvi: “Đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu mọi người như yêu chính mình” (Mt 22,39). “Như yêu chính mình” nghĩa là lấy bản thân mình làm điểm quy chiếu cho tình yêu đối với tha nhân. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy, một tình yêu ngoài Chúa, một tình yêu không lấy Chúa làm trọng tâm, thì dù có tốt, dù có lấy bản thân làm quy chiếu, vẫn không hoàn hảo được. Chỉ khi biết yêu như Chúa yêu thì tình yêu mới đạt tới mức trọn hảo. Vậy thì “yêu như Chúa yêu” nghĩa là gì?

“Yêu như Chúa yêu” nghĩa là chấp nhận cúi xuống rửa chân cho anh em, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu. “Yêu như Chúa yêu” nghĩa là tự nguyện hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và trao ban như “bạn hữu thân tình”. “Yêu như Chúa yêu” nghĩa là sẵn sàng “yêu cho đến cùng”, “yêu cho đến chết và chết trên Thập Giá”.

Yêu như thế quả là không dễ chút nào. Yêu người “như yêu chính mình” đã khó. “Yêu như Chúa yêu” còn khó gấp bội. Nó như một thách thức lớn đối với bản tính nhân loại bất toàn của ta. Yêu thương những kẻ yêu thương ta thì không nói làm gì, dễ quá! “Yêu như Chúa yêu” ở đây còn bao hàm cả việc yêu thương ngay những kẻ thù của ta. Tức là phải cầu nguyện, phải chúc phúc, phải làm ơn cho họ nữa.

Rõ ràng, đây không phải là điều dễ, nếu không muốn nói là rất khó. Nhưng khó không có nghĩa là không thể thực hiện được. Nhiều anh chị em của chúng ta đã thực hiện được điều khó ấy một cách anh dũng, thực hiện đến nơi đến chốn, nhờ được thấm nhuần lời Chúa dạy. Và họ đã và đang là những môn đệ chân chính, môn đệ đích thực của Chúa Kitô.

Tôi đang làm môn đệ của ai? Câu trả lời tuỳ thuộc vào việc ta đang sống yêu thương hay chối từ sống yêu thương.

Nếu tôi từ chối sống yêu thương cũng có nghĩa là tôi đang từ chối làm môn đệ của Đức Kitô. Và một khi không còn làm môn đệ của Đức Kitô nữa, rất có thể tôi sẽ tự nguyện đầu quân làm môn đệ cho những thứ “thần” khác.

Tôi có thể là môn đệ của “Al Kaeda”, khi tôi thường xuyên “khủng bố” anh chị em mình. Khủng bố không phải bằng việc đánh bom tự sát, hay bằng các thứ vũ khí này kia, nhưng có thể khủng bố bằng những ánh mắt “mang hình thù viên đạn”; khủng bố bằng những lời nói chua cay gắt gỏng, cộc cằn thô lỗ; hoặc khủng bố bằng những thái độ coi thường khinh khi người khác.

Tôi có thể là môn đệ của thần tài, thần Mamon khi tôi coi trọng của cải vật chất hơn anh em và sẵn sàng ăn thua đủ với anh em khi mình bị thiệt thòi mất mát đôi chút. Có người chỉ vì một mét đất mà đưa anh em ra toà, có người chỉ vì một con gà con vịt mà vác dao vác rựa tới nhà anh em láng giềng của mình để thanh toán. Có người chỉ vì một khoản nợ chưa kịp trả đã thuê giang hồ, thuê xã hội đen tới trấn áp và siết hết đồ đạc trong nhà người khác.

Tôi có thể là môn đệ của “thần lưu linh”, khi sáng xỉn chiều say; bày đủ cớ để uống, để nhậu; uống mọi nơi, nhậu mọi lúc. Mỗi khi uống vào là lời ra, uống vào là gây sự. Gây sự với bà con lối xóm, gây sự với vợ con, với anh chị em trong gia đình; thậm chí còn đập phá đồ đạc, rồi đánh vợ đánh con, khiến cho gia đình lúc nào cũng lục đục, căng thẳng và ngột ngạt như một hoả lò.

Tôi có thể là môn đệ của “thần đỏ đen”, khi sẵn sàng sát phạt anh chị em và vô tâm làm cho anh chị em mình đau khổ, gia đình xào xáo, thậm chí là ly tán. Hết số đề lại đến cá độ, hết cá độ lại sang bài cào hay tiến lên… Đồ đạc trong nhà cứ thế mà đội nón ra đi không một lời giã biệt; vợ con, cha mẹ người thân vì thế mà cũng tê dại cả nhà.

Tôi cũng có thể là môn đệ của của “thần sắc dục”, khi tôi bất trung phản bội với người bạn đời của mình – vợ con, chồng con lăng nhăng, để rồi tự huỷ hoại thanh danh của mình và gia đình mình,…

Tắt một lời, khi không còn là môn đệ của Đức Kitô nữa mà là môn đệ của các thứ “tà thần” trên thì hậu quả tất yếu sẽ là bất hạnh và đau khổ triền miên.

Chớ gì Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta luôn biết ý thức rằng được làm môn đệ của Chúa Kitô là một niềm vinh dự và niềm hạnh phúc lớn lao; nhưng đồng thời cũng là một bổn phận nặng nề, bổn phận phải sống yêu thương, yêu thương anh em nhiều hơn. Tất nhiên, khi yêu thương anh em nhiều hơn thì cuộc sống này sẽ phảng phất hương hoa thiên đàng nhiều hơn. Amen.

 

2. Như Thầy đã yêu

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Wiliam Oscar Wilde đã viết về một huyền thoại tình yêu: “Hoạ mi và bông hồng đỏ”.

Một sớm mùa hè, con hoạ mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ:”Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Hoạ mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu một bông hồng màu đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa mất thôi. Hoạ mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Hoạ mi phải ra tay giúp đỡ.Hoạ mi khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:

– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?

– Hoạ mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?

Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Hoạ mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng dậu.

– Chị hồng ơi, có phép mầu nào làm nở cho em một bông hồng đỏ chăng?

– Hoạ mi ơi, đời cần hoa chi cho thương đau?

– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình

– Được, những phép mầu cần phải có máu đỏ.

– Bằng mọi giá chị ạ.

– Bằng giá sinh mạng?

– Kể cả sinh mạng em.

– Hoạ mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu đỏ cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.

Hoạ mi đã hót say mê đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng bên cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm nở tươi.

Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong dạ hội. Điều lạ lùng nhất và cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo cô gái một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.

Hoạ mi yêu người, đã lấy máu và sinh mạng đổi lấy bông hồng. Người thiếu nữ nhận bông hồng giả để chối từ một tình yêu chân thật.

Câu chuyện là một huyền thoại, chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. Tình yêu chân thật phải được trả bằng một giá rất đắt. Chúa Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết trên thập giá.

Hoạ mi đã cất tiếng hót bi thương trước khi chết vì muốn hiến tặng đoá hồng tươi thắm nở. Chúa Giêsu trước khi chịu khổ nạn, chịu chết đã để lại cho các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chỉ thị này bao hàm mọi chỉ thị khác.

Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.

Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài ( x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này(x Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẽ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy” (số 20).

Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?

Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.

“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”. Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được; nhưng không vậy,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.

Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Ngài. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi và những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…

Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta. Vì thế,Thánh Gioan khuyên rằng: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời: “Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” ( R.Tagore).

Nhưng đâu là những dấu hiệu để nhận ra là chúng ta yêu thương nhau? Tình yêu không phải là cái gì trừu tượng, nên rất dễ nhận ra. Yêu thương nhau là luôn nghĩ tới nhau. Những người yêu thương nhau thường nghĩ tới nhau; yêu nhau nhiều thì nghĩ tới nhau nhiều, nghĩ tới mà trong lòng cảm thấy vui sướng.

Yêu nhau nên thích gặp nhau. Những người kitô hữu yêu nhau, thì rất thích tụ họp, thích gặp gỡ nhau. Và thường họ tụ họp nhau vào ngày Chúa Nhật, trước hết là để cùng nhau cử hành thánh lễ, sau là để gặp nhau trò chuyện, hàn huyên, giải trí với nhau, chia sẻ tâm tình với nhau. Yêu nhau nên ước muốn điều lành cho nhau. Mong cho nhau được sự may mắn, được thăng tiến, được làm ăn thành đạt, được sức khoẻ dồi dào, được có lòng đạo đức, được mãn nguyện theo ý muốn tốt lành. Và chính vì thế mà những người yêu nhau thường cầu nguyện cho nhau, xin Chúa yêu thương, an ủi, cứu giúp, phù hộ bạn mình.

Yêu nhau nên làm những điều lành cho nhau: có thể đó là sự giúp đỡ khi túng thiếu hay ốm đau, sự chăm sóc sức khoẻ, đời sống tâm linh của nhau, là sự chia sẻ của cải vật chất và tinh thần cho nhau. Giúp nhau củng cố và giáo dục đức tin, giúp hoà giải với nhau, giúp nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, giúp nhau thành đạt trong công ăn việc làm. Dấu hiệu rõ nhất của tình yêu là sự hy sinh cho nhau: hy sinh thì giờ, sức khoẻ, tiền bạc, và thậm chí cả sự sống vì nhau.

Điều cao quý nhất mà chúng ta nên làm cho nhau là mang Chúa đến cho nhau, vì mỗi người kitô hữu khi đã chịu phép rửa đều là đền thờ của Thiên Chúa, trong đó có Chúa Thánh Thần cư ngụ. Điều tốt nhất mà những có đạo có thể làm là mang đến cho nhau Chúa Thánh Thần là Niềm vui ở trong Thiên Chúa và là Nguồn vui của chúng ta. Thánh Thần làm cho chúng ta gắn bó mật thiết với Thiên Chúa và nên một với nhau.

Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương “như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy ” Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.

 

3. Vinh quang thập giá

 

Một lời hết sức tự nhiên trong lời từ giã là phải nói về sự ra đi của mình. Chúa Giêsu đã làm như thế đối với các môn đệ của mình. Tuy nhiên Chúa báo trước cuộc đi xa này bằng từ ngữ rất khó hiểu đối với các môn đệ: Ngài sẽ được “vinh hiển” và cũng làm vinh hiển Cha qua cái chết và sự sống lại. Ngài tỏ bày vinh quang theo bốn phương diện:

1) Vinh quang của Chúa Giêsu đã đến, vinh quang đó là thập giá.

Sự căng thẳng đã qua đi, mọi nghi ngờ còn lại đều được cất đi. Giuđa đã ra đi và thập giá chắc chắn phải đến. Vinh quang của Chúa Giêsu là thập giá. Ở đây chúng ta đang đối diện với thực tế của cuộc đời. Vinh quang rạng rỡ nhất trong đời sống là vinh quang đến từ sự hy sinh.

Có hai thanh niên rất yêu thích hội hoạ. Họ kết thân với nhau, vừa làm việc, vừa học vẽ. Một thời gian sau, không có đủ tiền cho cả hai cùng học. Họ quyết định một người lao động để nuôi người kia học cho tới khi thành tài, rồi đến lượt người này đi học. An-béc-sơ học trước, qua bao năm tháng miệt mài, khổ công, An-béc-sơ trở thành một hoạ sĩ nổi danh và anh đem bán những bức tranh lấy tiền nuôi bạn học vẽ, nhưng dầu đã cố gắng hết sức, anh bạn của An-béc-sơ không sao vẽ nổi. Đôi bàn tay anh lao động đã trở nên thô cứng, không thể điều khiển bút vẽ được nữa. Khi biết sự thật ấy, An-béc-sơ khóc, ôm bạn nói: “Đôi bàn tay chai sần của anh đã giúp phần vào những bức vẽ của tôi. Nếu không có đôi bàn tay anh, những bức tranh này không bao giờ thành hình cả”. Hãy cho phép tôi hoạ lại đôi bàn tay của anh”.

Bức tranh ấy, với một đôi bàn tay lao động, đã trở thành tác phẩm nổi tiếng của nền hội hoạ thế giới, hiện nay đang được trưng bày tại một viện bảo tàng ở Mỹ.

Trong y học, người ta không nhớ những thầy thuốc làm giàu do nghề nghiệp, nhưng nhớ những người đã hy sinh mạng sống để chữa lành nỗi đau đớn của con người. Tại một hội nghị chuyên đề về bệnh cùi được tổ chức tại Cairô, thủ đô Ai Cập, có một y sĩ trẻ người thành Alexandria được người ta để ý, anh chăm chú nghe các bài thuyết trình của các chuyên gia, nhưng có một điều lạ là anh luôn ngồi tách rời với đám đông, trong một góc nhỏ. Không ai biết anh dùng bữa ở đâu. Anh cũng không giao thiệp với bất cứ một thành viên nào của hội nghị. Vào phiên họp cuối cùng anh lên tiếng. Khi anh tóm kết bài tham luận, một sự im lặng như chết bao trùm cả phòng họp; nhiều người bật tiếng khóc. Anh nói gì? Anh tuyên bố rằng anh đã tự nguyện để nhiễm bệnh cùi, để có thể tự anh quan sát diễn biến của cái bệnh kinh khủng này. Anh cho thấy những vết trắng và nâu ở cánh tay anh, một triệu chứng không thể chối cãi của sự nhiễm trùng, và rồi anh mô tả tất cả những gì anh đã cảm thấy, cùng hiệu quả tất cả các thuốc anh đã dùng. Anh biết rằng anh không thể tránh được cái chết từ từ và đau đớn, nhưng anh sẵn sàng chịu đựng tất cả để giúp phần vào sự tiến bộ của khoa học, hầu đẩy lui những hiểm nguy cho các người mắc bệnh. Loài người chỉ biết cúi đầu khâm phục trước sự hy sinh của những người tự nguyện chấp nhận cái chết để cứu đồng loại.

Trong mọi cuộc chiến tranh, vinh quang tuyệt đỉnh không thuộc về những người sống sót mà thuộc về những người đã bỏ thây nơi chiến trường. Bài học đơn giản của lịch sử là những người chịu hy sinh lớn thì nhận được vinh quang cao cả. Nhân loại quên đi những người thành công nhưng chẳng bao giờ quên ơn những người dám hy sinh. Họ bước đi trong các vết chân của Chúa Kitô.

“Khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì người lương thiện, thế mà Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi”(Rm 5,6-8).

2) Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa được tôn vinh

Chính sự vâng phục của Chúa Giêsu đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Chỉ có một cách để chứng minh lòng kính yêu, ngưỡng mộ và tin cậy một lãnh tụ là vâng phục vị lãnh tụ ấy, vâng phục cho đến cuối cùng, dầu phải nếm mùi đắng cay. Cách thế duy nhất để một người con có thể đem lại vinh dự cho cha mẹ ấy là vâng phục cha mẹ. Chúa Giêsu đã đem vinh quang tối cao cho Thiên Chúa, vì Ngài tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa, dầu phải đi đến Núi Sọ.

3) Trong Chúa Giêsu, Chúa Cha tự tôn vinh chính Ngài.

Có một tư tưởng lạ lùng, ấy là vinh quang tối cao của Thiên Chúa lại do sự nhập thể và thập giá của Chúa Giêsu. Chẳng có vinh quang nào như vinh quang của việc được yêu thương. Nếu Thiên Chúa cứ giữ sự xa cách, uy nghiêm, bình thản, không xúc động trước bất cứ sự sầu khổ, đau đớn nào thì người ta có thể sợ hãi Ngài, có thể chiêm ngưỡng Ngài, nhưng họ sẽ chẳng bao giờ yêu mến Ngài. Định luật hy sinh không chỉ là một định luật của thời gian, nhưng là của cả trời và đất. Chính trong sự nhập thể và thập giá của Chúa Giêsu, vinh quang tối cao của Thiên Chúa được tỏ ra. Chúa Giêsu là vinh hiển của Thiên Chúa. Vinh hiển của Thiên Chúa không biểu lộ trong sự nghiền nát con người, xô đẩy họ xuống địa vị thấp hèn, nhưng còn biểu lộ trong sự phục vụ, thương yêu con người, và chết thay cho con người. Vinh hiển của Chúa không phải là vinh hiển của quyền lực đánh đổ, nhưng là vinh hiển của tình yêu chịu khổ.

4) Thiên Chúa sẽ tôn vinh Chúa Giêsu.

Đây là một mặt khác của vấn đề. Hiện giờ thập giá là vinh quang của Chúa Giêsu, nhưng kế đến còn nhiều hơn thế nữa, sự phục sinh, sự thăng thiên, sự toàn thắng vẻ vang cuối cùng của Chúa Cứu Thế là điều Tân Ước muốn nói tới khi đề cập đến việc trở lại trong vinh quang của Ngài. Tại thập giá, Chúa Giêsu được vinh quang riêng cho Ngài, nhưng sẽ đến ngày, một ngày chắc chắn, lúc vinh quang của Chúa Giêsu được tỏ bày cho thế giới và toàn thể vũ trụ. Sự tôn cao Chúa Giêsu phải tiếp theo sự sỉ nhục Ngài đã chịu, việc Ngài lên ngôi phải theo sau việc Ngài chịu đóng đinh. Chiếc mũ gai phải biến thành vương miện vinh hiển. Chiến dịch là chiến dịch của thập giá, nhưng nhà Vua sẽ bước vào chiến thắng khải hoàn mà cả thế gian đều trông thấy.

 

4. Dấu chỉ môn đệ Chúa Kitô

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Là Kitô hữu, bình thường ai cũng muốn kẻ khác nhận biết mình là con cái Chúa trong Hội Thánh. Dĩ nhiên vẫn có đó những Kitô hữu không muốn kẻ khác nhận biết mình là con cái Chúa. Với xã hội rộng lớn, bản thân không nắm rõ. Tuy nhiên ngay trong chính mãnh đất thân yêu Việt Nam này thì đã từng có nhiều người e ngại kẻ khác biết mình là Kitô hữu. Sợ bị thua thiệt về đường công danh, lợi lộc hay học vấn mà nhiều người đã ghi vào lý lịch ba chữ “không tôn giáo”. Ngay cả đến hôm nay, trong các lớp học cấp ba, cao đẳng, đại học, khi mà một số thầy cô còn dè bỉu Công giáo qua các bài học về thuyết tiến hóa, về sự hình thành tôn giáo… Các thầy cô thường lấy chuyện Kinh thánh Ađam – Evà ra mà diễu cợt. Tôi đã nghe nhiều em học sinh, sinh viên thú nhận rằng những lúc ấy các em dường như không muốn ai biết mình là Công giáo. Nhiều thầy cô có thể vì thiếu hiểu biết hay vì cố tình xuyên tạc nên đã có những lời giảng dạy mang tính phê bình chỉ trích tôn giáo, cách riêng Công giáo. Rất nhiều em học sinh, sinh viên viên vì chưa hiểu biết giáo lý, nhất là Thánh Kinh nên có thái độ tự ti là điều dễ hiểu.

Tuy nhiên bài viết này không trực tiếp đề cập đến cái thực tế đang tồn tại ấy. Xin được mạn bàn về cái dấu chỉ mà Chúa Giêsu nói đến trong đoạn văn Tin mừng Gioan 13,33-35. Dấu ấy là “các con yêu thương nhau”. Yêu thuơng nhau thì cũng có ba bảy đuờng yêu thương. Không phải hễ yêu thương nhau là ta đã là môn đệ Chúa Kitô. Để đích thực là môn đệ của Người thì ta phải “yêu thương nhau như Người yêu thương ta” (x.Ga 15,12). Đây mới chính là dấu chỉ chính danh, chính hiệu.

Vậy thế nào là yêu thương nhau như Chúa Kiô yêu thương ta? Chúng ta vốn quen tai với những dẫn giải rằng phải yêu thương cho đến cùng, phải hiến dâng mạng sống vì người mình yêu, phải cúi xuống rửa chân cho nhau tức là hầu hạ nhau… Rồi phải yêu thương không chỉ người dễ thương mà còn cả những người dễ ghét, những người bắt bớ hoặc đang làm hại chúng ta. Yêu thương nhau như Chúa yêu là giang tay đón nhận cả người phản bội mình làm bạn hữu…Những dẫn giải trên không sai nếu không muốn khẳng định là rất đúng. Tuy nhiên, bản thân vẫn thấy còn lấn cấn chút gì đó trong thực hành.

Thế nào là yêu đến cùng đây? Không lẽ ta phải dùng chính cái chết của mình để minh chứng. Quả thật đã và đang có nhiều người sống yêu thương đến cùng như vậy. Thế nhưng ngoài các Thánh Tử Đạo thì có mấy ai chấp nhận chết vì yêu thương, chưa kể chết cho người tội lỗi. Cúi xuống để hầu hạ nhau ư? Vẫn có đó nhiều người xưng mình là tôi tớ, là đầy tớ mà đâu có chịu cúi xuống. Dù vậy, có ai dám to gan nói họ chưa phải là môn đệ của Chúa. Giang tay ra đón nhận nhau cả những khi họ là người công chính lẫn khi họ là người bất nhân, tàn ác, quả là không mấy dễ dàng. Và tính chất vị tha của tình yêu trong những cách thế ấy hình như chưa mấy rõ nét.

Yêu thương ai là nỗ lực làm cho người mình yêu phát triển và nên tốt đẹp hơn cả mình.

Một trong những cách thế yêu nhau như Chúa yêu ta mà Tin Mừng gợi ý, đó là làm cho người mình yêu được phát triển và gặt hái thành quả hơn cả mình. “không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại…” (Ga 15,16). “Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa…” (Ga 14,12).

Quả thật sau khi Chúa Giêsu về trời và Thánh Thần được ban xuống thì các Tông đồ đã làm được nhiều sự lạ cả thể hơn cả Thầy chí thánh. Các Ngài cũng chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, phục sinh kẻ chết, rao giảng Tin Mừng mà kết quả xem ra khả quan hơn Thầy khi Thầy còn tại thế. Xưa những ai đụng đến gấu áo của Thầy thì được chữa lành mọi bệnh tật thì nay chỉ cần bóng Phêrô phủ trên ai thì họ đều được chữa lành. (x.Cv 5,15-16).

Chúng ta có thể đã cúi xuống hầu hạ một ai đó nhưng muốn họ hơn cả mình thì còn phải xét lại. Chúng ta có thể đã tận lực tận tâm lo cho một ai đó về thể chất hay tinh thần nhưng với ý hướng là muốn cho họ vượt qua mình thì cũng hơi khó. Một anh chị em dân tộc thiểu số thẳng thắn thú nhận rằng: con có thể giúp cho người xóm giềng làm ăn kinh tế nhưng muốn cho họ giàu hơn con thì con không muốn. Các em thiếu nhi cũng tự nhận rằng bày cho bạn làm toán thì được nhưng không muốn bạn ấy học giỏi hơn mình. Và chính bản thân tôi, một linh mục chính xứ đang có linh mục phó xứ và thầy phó tế phụ giúp, đã nhiều lần tôi hướng dẫn các ngài trong lãnh vực mục vụ và cách thế giảng dạy, tuy nhiên thử hỏi mình có thực tâm muốn thầy sáu hay cha phó có uy tín trước mặt bà con giáo dân hơn mình không. Một câu hỏi thật khó trả lời.

Không phải đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, không phải giữ luật tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, không phải siêng năng lãnh nhận các Bí tích, không phải chuyên chăm đọc kinh, lần hạt… là những dấu chỉ minh chứng ta là môn đệ Chúa Kitô. Những điều ấy tuy là cần nhưng không đủ. Bởi chưng vẫn đó nhiều người đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, tham dự Thánh lễ Chúa Nhật đều đặn, thường xuyên lãnh nhận các Bí tích hay siêng năng lần chuổi kính Đức Mẹ mà vẫn sống “không ra người có đạo”, nói theo kiểu cách bình dân. Tất thảy chỉ vì một lẽ này: người ta sẽ nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau, yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con.

Yêu ai mà muốn người mình yêu nên tốt đẹp và phát triển hơn cả mình, đúng là một trong những dấu chỉ minh chứng đó là một tình yêu vị tha, một tình yêu vô vị lợi. Và chắc chắn đó là một trong những cách thế yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.

 

5. Yêu như Thầy yêu.

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)

Ngạn ngữ Pháp có câu: “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir c’est mourir un peu). Sự ra đi nào cũng để lại những vấn vương và lưu luyến cho người ở lại, nhiều khi còn mang vẻ bi thương và tang tóc nữa. Cuộc ra đi thụ nạn của Chúa Giêsu cũng thế. Chính vì vậy, trong giờ phút ly biệt đầy xốn xang và ngậm ngùi, Chúa Giêsu đã để lại những lời tâm huyết cuối cùng cho các học trò. Những lời dặn dò thân tình ấy được Giáo hội đọc lại cho chúng ta trong phụng vụ hôm nay, giống như một di chúc thiêng liêng. Các nhà chú giải vẫn gọi đó là ‘diễn từ biệt ly’. Trong những lời trăng trối sau cùng ấy, Chúa nói với các môn đệ: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Điều răn mới.

Ai cũng biết, yêu thương là đạo lý căn bản của cuộc sống làm người. Ngày xưa triết gia Aristotle đã nói cho các học trò của ông: “Tính ích kỷ và đầu óc hẹp hòi biến con người trở nên như thú vật, nhưng khi con người đối xử với nhau bằng lòng nhân ái, họ sẽ trở nên như thần thánh”. Nói chung, tôn giáo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành, và chẳng tôn giáo nào lại dạy con người làm những chuyện thất đức. Tinh thần ‘Tứ hải giai huynh đệ’ của triết lý Đông phương cũng tương tự như thế. Thế thì, giáo huấn của Chúa Giêsu có gì là mới lạ? và tại sao Chúa lại gọi đây là điều răn mới? Chúng ta phải đi sâu vào tư tưởng thần học của Thánh Gioan mới có thể khám phá ra tính cách mới mẻ và độc đáo của giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu gửi trao như một di chúc thánh thiêng.

Ngay từ thời cựu ước, Đức Chúa Giavê cũng đã ban truyền thập giới trên núi Sinai qua Moisê, và 10 giới răn đó cũng được tóm kết qua 2 điều luật căn bản, đó là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều đó khi trả lời cho vị luật sĩ (Lc 10,27) hay cho vị kinh sư (Mc 12,28) hoặc cho chàng thanh niên giàu có (Mt 19,18-20).

Tuy nhiên các luật sĩ và biệt phái thời xưa chỉ giữ luật một cách máy móc và vụ hình thức. Chúa tuyên bố rằng Ngài đến không để bãi bỏ lề luật, nhưng mặc cho nó một chiều kích mới, đó là chiều kích nội tâm. Giới răn mới mà Chúa nói hôm nay cũng chính là việc thực hành tình yêu, nhưng đi vào cốt lõi căn bản, nhắm đến chiều sâu nội tâm hóa của giới luật yêu thương. Để huấn luyện các học trò hiểu thấu giới răn ấy, Chúa Giêsu lấy chính Ngài làm chuẩn mẫu:“ Anh em hãy yêu thương nhau ‘như’ Thầy đã yêu thương anh em”. Tính cách mới mẻ mà Chúa khởi dẫn chính ở điểm căn bản này.

Kinh nghiệm của Thánh Gioan.

Khi nói về mình, Gioan giới thiệu rất đơn giản bằng thuật ngữ ‘người môn đệ được Chúa yêu mến’. Gioan là người học trò duy nhất được tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly để lắng nghe từng nhịp đập nơi con tim thổn thức của vị Thầy khả ái. Ngài cũng đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria để mục kích trái tim Chúa bị đâm thâu và mở toang ra, tuôn đổ những giọt nước và máu của tình yêu cho đến vô tận. Tất cả những chi tiết này đều là những hình ảnh mà Thánh Gioan ghi lại để biểu thị bài học về tình yêu nơi Chúa Giêsu mà Gioan đã cảm thấu một cách tường tận.

Trong Tin mừng thứ tư, thánh ký quảng diễn rất nhiều về tình yêu mà Chúa Giêsu đã diễn bày, nhất là qua hình ảnh người Mục tử nhân lành, biết các con chiên trong đàn, đi tìm kiếm con chiên lạc, và hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Gioan cũng dành ra suốt từ chương 13 đến hết chương 17 để viết lại diễn từ biệt ly, và điểm nhấn quan trọng nhất trong diễn từ chính là nói về tình yêu.

Trong diễn từ này, Chúa Giêsu lập đi lập lại điệp khúc tình yêu qua chính mẫu gương của Ngài. “Không có tình yêu nào cao quý bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu”. “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”. “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”… Vì thế trong 3 lá thư Thánh Gioan để lại, đặc biệt trong thư thứ nhất, Ngài đã định nghĩa Thiên Chúa bằng một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4,16). Những chân lý về tình yêu, về giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ được nói đến trong bài Tin mừng hôm nay, cũng được lặp lại rất nhiều lần trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan.

Yêu như Thầy đã yêu.

Nhiều người ngoại giáo thường hỏi chúng ta, đạo nào cũng hay, cũng đẹp, thế đạo Công giáo có cái gì đặc sắc mà các anh muốn quảng bá? Thánh Gioan hôm nay đã trả lời thay cho chúng ta.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống yêu thương giống như Ngài đã yêu thương. Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm lý thuyết, nói một đàng làm một nẻo. Cái chết của Chúa Giêsu lột tả trọn vẹn tình yêu mà Ngài muốn diễn bày. Ngài đã đi đến tận cùng của giai điệu yêu thương khi bị treo thân trên Thập giá như một tên tội phạm và quảng diễn rất cụ thể điều Ngài đã nói với các môn sinh: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu”. Trong bữa tiệc ly, Chúa còn cúi xuống rửa chân cho các học trò như một người tôi tớ. Bằng nhiều cách, Chúa đã cố gắng cắt nghĩa giới răn mới mà người muốn truyền thụ lại bằng chính cuộc sống gương mẫu của Ngài.

Kết luận

Thánh Phanxicô Salê, vị Tiến sĩ đức ái, đã viết trong khảo luận về Đức Ái của Ngài: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ, tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái chính là sự hoàn thiện của tình yêu”. Sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chính là con đường dẫn đến hoàn thiện và đó cũng là lộ trình nên thánh mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước. Nhưng chúng ta thực hành giới răn mới đó như thế nào? Một nhà xã hội học đã chua chát nhận xét: “Ngày nay, con người đã rất tiến bộ và thành công vượt bậc. Người ta đã lên được tới mặt trăng, đã nghiên cứu đến tận sao hỏa, đã chế tạo các phi cơ với vận tốc khủng khiếp… Nhưng có một điều rất đơn giản là học cách sống tử tế với vợ mình, mà nhiều người học mãi cũng chẳng xong”.

Nói về tình yêu trên lý thuyết rất dễ, nhưng sống và thực hành theo gương Chúa Giêsu không phải là một chuyện giản đơn. ‘Hãy yêu như Thầy đã yêu’ là bài học mà chúng ta phải nghiền gẫm và phải phấn đấu để thực hành cho đến suốt đời.

 

6. Trời mới đất mới

(Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm)

Thiên Chúa là Đấng luôn mới, Ngài luôn có những chương trình và sáng kiến tuyệt vời để can thiệp và cứu độ con người trong những tình huống khác nhau. Ngài vẫn tiếp tục làm mới tất cả và đặc biệt con người. “Này đây Ta làm mới tất cả”

“Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?

Núi bao nhiêu tuổi, vẫn là núi non!”

Một đồ vật, cũ theo thời gian. Một cái máy, không làm cái gì “mới” vì người ta biết cái gì sẽ xảy ra. Làm một cách “máy móc”, nghĩa là người ta có thể biết những hành động tiếp sau.

Con vật không có tự do, thế nên người ta có thể kiểm soát và chi phối chúng, bắt chúng làm theo ý người ta; chẳng hạn những con vật được dùng để làm xiếc. Khi một người nô lệ tiền bạc, người khác có thể dùng tiền bạc để chi phối hay điều khiển họ. Một người ham sắc, có thể bị điều khiển bởi người nữ. Chuyện Bao Tự- Kỷ vương là một thí dụ. Những người như vậy, tuy tự do mà chẳng tự do. Ai mà không thể cưỡng lại điều gì, e rằng người đó không còn tự do nữa.

Con người luôn luôn mới vì con người luôn tự do. Con người, có thể thay đổi. Đổi thành tuyệt hơn hoặc tệ hơn. Tốt hơn và tuyệt hơn, không phải là chuyện “đã qua”, nhưng luôn là chuyện “hiện tại”. Vấn đề không là “quá khứ tôi tốt”, nhưng chính yếu là “lúc này tôi có tốt không?” Vấn đề không là “hôm qua nó xấu”, nhưng chính yếu là “bây giờ người đó thế nào?” Con người, luôn luôn có thể mới. Không ai biết được! Những lần trước, họ như vậy, nhưng không có nghĩa họ như vậy lần này. 999 lần trước, họ như vậy, nhưng lần này, có thể họ khác. Con người có thể mới, con người luôn luôn có thể mới.

Con người có tự do, không ai bắt họ “đổi” được. Cha mẹ, anh em, những người thân, muốn điều tốt cho họ, thế nhưng tất cả đều bất lực. “May ra Thiên Chúa có thể làm gì được chăng!” Thiên Chúa có thể làm được, nhưng Ngài lại cho con người “tự do”, nên dường như Ngài cũng “bất lực”!

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể biến đổi con người mà con người vẫn tự do. Thiên Chúa có thể làm điều đó, vì Ngài yêu con người vô cùng. Ngài có cách làm con người biến đổi. Dường như chỉ Thiên Chúa mới có thể làm con người biến đổi, vì “dường như” chỉ Thiên Chúa mới yêu thương “ai đó” vô cùng! Tình yêu có sức biến đổi con người mà con người vẫn tự do.

Thiên Chúa vẫn đang làm mới tất cả, qua Đức Yêsu chết và phục sinh.

Yêu nhau như Thầy yêu anh em

“Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau. Cứ dấu này mà người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau”.

Luật Cựu Ước dạy: “yêu thương tha nhân như chính mình” (Lv.19, 18). Chúa Yêsu dạy: “yêu thương tha nhân như chính Chúa yêu thương chúng ta”. Chúa đã yêu thương chúng ta đến độ Ngài sẵn sàng chết để chúng ta được sống, và Ngài mời gọi mỗi người hãy yêu thương người khác như Ngài yêu họ.

Yêu thương người khác như chính mình, đã là một điều khó; phương chi bây giờ Ngài mời gọi yêu thương đến hiến mạng sống cho tha nhân. Ai dám nói yêu thương là điều dễ? Yêu, phải hy sinh quên mình, và làm tất cả những gì là tốt lành cho người mình yêu.

Dấu chỉ để nhận ra một người là môn đệ Chúa, không là “được rửa tội”, không là “có đi lễ Chúa Nhật”, cũng không là “mặc áo dòng”, mà là “yêu thương nhau”! Không yêu thương nhau mà nhận mình là người theo Chúa, là phản chứng. Không yêu thương mà nói mình biết Thiên Chúa, là nói dối; vì “ai yêu thương thì biết Thiên Chúa; ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga.4, 7-8). Cái biết ở đây, không là biết nói “như con vẹt”, nhưng là biết bằng hành động, bằng con tim, bằng cảm nhận.

Thiên Chúa đang làm mới tất cả qua những trung gian

Thánh Thần Thiên Chúa đã dùng các Kitô hữu sai gởi Phao-lô và Barnaba đi rao giảng Tin Mừng. Thiên Chúa đã dùng Phao-lô và Barnaba để rao giảng và củng cố đức tin của các tín hữu.

Thiên Chúa vẫn đang dùng những con người hôm nay, những Ki-tô hữu, để làm con người đương thời tin vào Tin Mừng, tin vào Thiên Chúa, tin vào con người. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa con người và Thiên Chúa qua các chứng nhân rao giảng Tin Mừng, qua thừa tác viên bí tích hoà giải. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa người với người qua việc làm con người tin vào nhau, khi Thiên Chúa làm cho con người biến đổi, khi Thiên Chúa làm cho con người tin vào Thiên Chúa để có thể tin vào nhau.

Thiên Chúa vẫn đang làm mới con người, trái đất này, vũ trụ này qua những trung gian và phương tiện khác nhau. Khi tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô, chúng ta trở thành con người mới, tạo vật mới.

Tạ ơn Chúa, và cám ơn tất cả mọi người- những trung gian của Chúa cho tôi.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Bạn có thấy ai chán nản và tuyệt vọng không? Đâu là nguyên do làm con người tuyệt vọng?

2. Con người luôn có thể không trung tín, vậy tại sao con người có thể tin vào nhau? (chẳng hạn vợ chồng, bạn bè)

3. Bạn có kinh nghiệm được Thiên Chúa dùng như trung gian để làm mới ai đó không? Nếu được xin bạn chia sẻ.

 

7. Yêu như Chúa đã yêu

(Suy niệm của AM. Trần Bình An)

Có con là điều tuyệt vời nhất đối với nhiều phụ nữ. Tuy nhiên, để đứa con chào đời khỏe mạnh, người mẹ đã phải chịu đựng và vượt quá rất nhiều khó khăn thử thách, thậm chí hy sinh cả mạng sống của mình. Tất cả những điều đó đã xảy ra với một bà mẹ Mỹ, người gần như bị chết ngay trên bàn đẻ, nhưng được chính đứa con sơ sinh của mình cứu sống kỳ diệu một tuần sau đó.

Cặp vợ chồng Shelly và Jeremy Cawley đã vô cùng hạnh phúc chờ đón đứa con gái đầu lòng của họ – Rylan – chào đời. Giống như bất kỳ gia đình trẻ nào khác, trước đó, họ đã đi mua sắm rất nhiều quần áo và đồ dùng trẻ em, cũng như trang trí nhà cửa để chuẩn bị đón chào thành viên mới.

“Tôi nhớ rất rõ mình nằm trên một cái cáng và được đưa đến phòng mổ. Tôi đã khóc và nói với các bác sĩ rằng, tôi rất sợ mình sẽ không tỉnh dậy sau ca mổ đẻ. Điều kỳ dị là, những lo lắng của tôi đã trở thành hiện thực”, bà mẹ trẻ Shelly kể lại những gì mình đã trải qua. Trong ca mổ đẻ cấp cứu sau đó, bé Rylan đã chào đời an toàn và khỏe mạnh. Song, mẹ của em bị một cục máu đông lớn làm tắc nghẹn các động mạch chính, khiến cô rơi vào trạng thái hôn mê ngay trên bàn mổ. Các bác sĩ phát hiện, hai buồng phổi Shelly ứ đọng rất nhiều dịch, gây khó khăn trong việc cung cấp oxy cho não và làm giảm huyết áp của cô. Sản phụ trẻ được cho dùng máy hô hấp nhân tạo để duy trì sự sống, trong khi các bác sĩ tìm mọi cách cứu sống cô.

Sau một tuần hôn mê, chẳng còn mấy hy vọng sống dành cho Shelly. Trong một nỗ lực cuối cùng, trước khi chính thức tuyên bố bà mẹ trẻ đã chết, các bác sĩ đã thực hiện một hành động được cho là mang tính trực giác nhiều hơn khoa học. Họ đặt bé Rylan lên trên ngực Shelly, để hai mẹ con chạm vào da của nhau lần đầu tiên và kích thích để đứa con khóc bên bầu vú mẹ.

Và điều kỳ diệu thực sự đã xảy ra. Shelly bắt đầu bộc lộ các dấu hiệu sự sống. Trước sự kinh ngạc và vui sướng của mọi người, bà mẹ trẻ dần hồi sinh từ cõi chết và hiện đã hồi phục hoàn toàn.

“Tôi nghĩ đây là điều rất đáng kinh ngạc. Một đứa trẻ vô cùng non nớt (mới 1 tuần tuổi) lại có thể mang đến ảnh hưởng lớn đến như vậy. Trong lúc vô vọng, các bác sĩ gần như đã không thể làm được gì, nhưng con bé (Rylan) lại có thể… Tiếng khóc của con có thể đã tiếp cho tôi sinh lực để chiến đấu giành giật sự sống”, Shelly bộc bạch. Cô và chồng đã viết một cuốn sách về câu chuyện kỳ lạ của mình với hy vọng sẽ tạo nên cảm hướng cho những người khác vững niềm hy vọng trong cuộc sống. (Tuấn Anh, Bé một tuần tuổi cứu mẹ thoát chết kỳ diệu, theo Diply, USA Today)

Chính cháu bé Rylan bất ngờ đánh thức tình mẫu tử kỳ diệu, đã cải tử hoàn sinh cho mẹ Shelly. Một dấu chỉ của tình yêu tuyệt vời. Tình yêu nhân trần tuy còn bất toàn, hạn hẹp, mong manh vẫn là thần dược cứu sống. Tuy nhiên,“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49, 15) Tình Chúa cao siêu, tuyệt diệu, vô biên, vượt trội hơn cả mối tình mẫu tử, còn thương ban cho con người được ân hưởng phúc trường sinh.

Yêu như chính mình

Trong chương 19 sách Lêvi, nêu ra chỉ thị về luân lý, những điều cấm đoán, nhưng nổi bật một điều khẳng định:”Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại (tha nhân) như chính mình.”(Lv 19, 18) Tuy nhiên tình yêu quy chiếu bản thân làm tiêu chuẩn, thường mỏng dòn, thiếu hoàn hảo, khó trường tồn, vì con người vốn yếu đuối, mong manh, dễ thay đổi, mau lung lạc theo thời gian và không gian.

Tình yêu con người bất cập, vì thường lệ thuộc vào tâm trạng bất an, hay bất thường do hoàn cảnh, môi trường tác động, nên dễ dàng biến chuyển, phai màu, thay đổi, sáng nắng chiều mưa.“Yêu nhau chưa ráo mồ hôi, chưa tan buổi chợ, đã rời nhau ra!” (Ca dao)

Tình yêu con người bất hạnh, vì thói bái vật, thực dụng, tôn thờ tiền tài, danh vọng, chức tước, quyền lực. Những ảo ảnh phù phiếm không bao giờ đủ, không bao giờ thoả mãn bản năng thú tính và dục vọng bất tận.“Hồi nào nhắn xuống nhắn lên. Bây giờ em đứng một bên anh không nhìn.” (Ca dao)

Tình yêu con người bất hảo, vì lòng vụ lợi ngăn cản, vây hãm, áp đảo, chế ngự. Muốn được phản hồi, mong được đáp lại, ước được đền ơn đáp nghĩa, thích được trân trọng, quý mến, ái mộ. “Trách người quân tử bạc tình. Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao!” (Ca dao)

Tình yêu con người còn bất toàn, vì bị hạn chế bởi vị kỷ. Muốn chiếm hữu, hưởng thụ, lạm dụng, tham lam, vơ vét, tích luỹ vào cái tôi bần tiện, bon chen, hẹp hòi, ganh tương, dối trá, tị hiềm. “Có chả em tình phụ xôi. Có cam phụ quýt, có người phụ ta.” (Ca dao)

Yêu như Chúa đã yêu

“Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”(Ga 13, 34) Chúa Giêsu trao cho nhân loại Điều Răn Mới: Anh em hãy yêu thương nhau không như Lề Luật cũ đã ấn định: như chính mình, mà như Thầy đã yêu thương anh em. Đó chính là tình yêu phục vụ, khoan dung, hiến tế.

Xả kỷ, bỏ mình, khiêm tốn, cúi mình, quỳ xuống, hầu hạ rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu muốn công khai biểu lộ và nêu gương sáng ngời tình yêu phục vụ.“Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.”(Ga 13, 14-15) Không phải chỉ là một gợi ý, mong ước đơn thuần, nhưng chính là một mệnh lệnh rất cấp bách, minh bạch, rõ ràng và thực tế dành cho những ai muốn đi theo Người.

Với môn đệ Giuđa phản bội, Đức Giêsu hết lòng khoan dung, tha thứ, từ ái, nhẹ nhàng, thân thương nhắc nhủ hồi tâm, cảnh tỉnh trước mặt các đồng môn.”Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy.”(Ga 13, 21) Nhưng ông Giuđa chẳng hề tỏ ra động lòng, nghĩ lại, trở về. Xót xa, đau buồn, nhẫn nhục, Người đành công khai, thẳng thắn cho mọi người biết đó là ai.”Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy… Giuđa, kẻ nộp Người cũng hỏi: “Rápbi, chẳng lẽ con sao?” Người trả lời: “Chính anh nói đó!” Nhưng lòng chai dạ đá, Giuđa cứ cố chấp, tiếp tục lún sâu vào tội ác. Người đành tế nhị, ý tứ nhắc riêng:”Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga 13, 27) Dẫu vậy, Người vẫn tỏ ra tiếc thương, không cứu vãn nổi người môn đệ bạc nghĩa, phụ tình.” Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26, 23-25)

Với ông Phêrô sẽ xúc phạm thô bạo, Người cũng bình thản tỏ lòng rộng lượng, ưu ái, ân tình, chua xót cảnh báo:”Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.”(Ga 13, 38)

Khi kẻ thủ ác vừa rời bàn tiệc, Đức Giêsu liền công bố cuộc khổ nạn bắt đầu khởi sự. Người sắp trở nên Con Chiên hiến tế, chuộc tội cho toàn thể nhân loại. Trung thành vâng lời Đức Chúa Cha, Người chịu khổ nhục, chịu đóng đinh, chịu chết trên thập giá. Đó chính là thời điểm Người được tôn vinh trọn vẹn qua Tình Yêu hiến tế “Khi Giuđa đi rồi, Ðức Giêsu nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người, Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người,thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.” (Ga 13, 31-32)

Yêu là dấu chỉ Kitô hữu

Lời trăn trối cuối vô cùng thấm thía và cảm động của Đức Giêsu đến nay vẫn còn mãi vang vọng trên thế gian:“Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga 13, 35) Yêu thương tha nhân như Người để làm chứng nhân sống động cho Đức Kitô. Nhưng yêu như Thầy Giêsu đã yêu chẳng phải dễ dàng thực hành, vì chẳng phải yêu trong chốc lát, tuỳ hứng, tuỳ tiện, mà phải yêu suốt đời, cho đến hơi thở cuối cùng, thật là một thách đố ngặt nghèo cho tất cả Kitô hữu. Hoàn toàn bất khả thi, nếu không có Đức Chúa Thánh Thần yêu thương, ban thêm sức mạnh tình yêu, lửa mến, niềm tin, đức cậy.

“Đừng để tháng ngày làm cho quả tim già nua. Hãy yêu thương với một tình yêu ngày càng mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: tình yêu Chúa đổ vào quả tim con.” (Đường Hy Vọng, số 178)

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin giúp chúng con biết bỏ mình, từ bỏ bản thân, khiêm nhu, hiền lành, khoan dung, thứ tha yêu thương phục vụ tha nhân, nhiệt thành sống cho tha nhân. Sẵn sàng chịu hao mòn, chịu tan biến, để bừng lên ngọn lửa mến sưởi ấm tha nhân, đang cơ cực vì thế gian băng giá, lạnh lùng, vô tình.

Kính xin Mẹ Maria luôn cầu bầu, nhắc nhở, răn dạy chúng con biết thiệt sự yêu thương, bác ái, chia sẻ, giúp đỡ mọi người, nhất là những người khốn khổ, đang bị bỏ rơi, khinh miệt, bên lề xã hội, để thế gian nhận ra chúng con chính là môn đệ của Chúa. Amen.

 

8. Tôn vinh

(Lm. Vũ Đình Tường)

Hy sinh lớn, tôn vinh lớn; hy sinh nhỏ, tôn vinh nhỏ. Tôn vinh lớn nhất, cao trọng nhất, trọn vẹn nhất là thí mạng sống cho người mình yêu như Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha xuống thế để thực hiện trọn vẹn ý Chúa Cha.

Ta đến không phải để làm theo ý Ta mà làm theo ý Đấng đã sai ta (Gn 6,38)

Đức Kitô thể hiện ý đó bằng con đường khổ nạn, con đường thập giá, con đường bị chính môn đệ mình bán rẻ, chối bỏ, phân tán và lẩn trốn sau cửa then cài vì sợ.

Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình chết cho người mình yêu (Gn 15,13)

Đức Kitô yêu mến Chúa Cha đến nỗi – thể hiện ý Cha – chết trên thập tự, ban ơn cứu độ cho nhân loại. Ngài chấp nhận hy sinh với í chí sắt son, quyết tâm vượt qua tất cả mọi chướng ngại, rào cản, vực sâu. Không gì ngăn cản, lay chuyển, tình yêu Ngài dành cho Cha. Ý Ngài đã quyết và Ngài quyết tâm thực hiện tốt đẹp, trọn vẹn điều mình đã quyết. Ngài chấp nhận mọi đau khổ rùng rợn, hành hạ thân xác.

Họ thay nhau nguyền rủa, xỉ nhục, vu vạ, cáo gian; Ngài đứng lặng câm, ngán ngẫm lời thề gian, làm chứng dối của người không tôn trọng sự thật. Nghe những lời đó tinh thần ngài đau khổ đến chết được nhưng Ngài không hề đối chất.

Linh hồn Thầy đau buồn đến nỗi chết (Mt 26,38)

Nhìn những cánh tay dâng lên nắm chặt hung hăng thét ‘giết nó đi’, giết nó đi’ khiến Ngài liên tưởng đến tính bồng bọt, háo thắng của con người. Kẻ chống đống Ngài nghĩ giết chết thì còn chi để nói, để sợ. Họ đã lầm và lầm lớn. Chính lúc Ngài chết đi lại là lúc thức tỉnh lương tâm người lính gác dưới chân thập tự khi anh ta tuyên xưng,

Người này quả thật là con Thiên Chúa (Mt 27,54)

Kẻ mưu toan đóng đinh giết Đức Kitô, ngày họ mất an; đêm mất ngủ, lo lắng vì tin Ngài sống lại từ cõi chết. Tổ chức họp kín liên miên. Tìm cách dậy lính phao tin dối trá. Họ chạy cửa trước, luồn cửa sau, lo đủ tiền đút lót. Ban hành lệnh lạc, ra sức đối phó, bịt miệng dân chúng đồn thổi tin Đức Kitô Phục Sinh. Họ đóng đinh diệt khẩu không ngờ có hàng triệu triệu môi miệng ngày đêm cao rao, ca tụng Đấng bị diệt khẩu. Đấng một thời rao giảng giờ đây trở thành Đấng được mọi thế hệ rao giảng.

Vui mừng

Đức Kitô vui mừng khi thấy giờ hiến tế đến gần. Giờ Ngài từ lâu mong đợi. Không phải Ngài ham chết, sợ sống hay coi thường sự sống. Vì yêu quí sự sống nên Ngài tự hiến để ban sự sống trường sinh cho toàn dân. Qua đó Ngài tôn vinh Chúa Cha.

Con Người được tôn vinh. Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. (Gn13,31)

Hoa trái của tôn vinh

Cái chết và sự Phục Sinh của Ngài mang lại hoa trái đầu tiên để tôn vinh Chúa Cha. Lịch sử nhân loại từ trước tới nay và từ nay về sau, sẽ không còn tôn vinh nào cao quí, tuyệt vời hơn tôn vinh Đức Kitô dành cho Chúa Cha. Tôn vinh cao cả vô song Ngài thể hiện trên thập tự. Tự hiến giọt máu cuối cùng trong tim diễn tả tình yêu tuyệt vời dành cho Cha.

Thứ đến là hoa quả ơn cứu độ Đức Kitô ban cho con người. Những ai tin vào Ngài nhận sự sống trường sinh.

Hoa quả cho vũ trụ là toàn thể vũ trụ được đổi mới nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Thánh Gioan (Kh 21,1) nhìn thấy trời mới, đất mới mở ra cho toàn dân. Đức Kitô Phục Sinh Vinh Hiển luôn ở với dân Ngài. Một dân được tuyển chọn bằng máu của con Chiên hiến tế là chính Đức Kitô chịu đóng đinh, ban ơn cứu độ cho những ai tin, sống tinh thần Tin Mừng. Lời loan báo xưa của thiên sứ thể hiện,

Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta trong thành vua Đavít. (Luca 2,10)

Các phụ nữ ra thăm mộ từ sáng sớm nghe thiên sứ loan báo, Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói (Mat 28,6).

Đổi mới

Trong Cựu Ước Yavê Thiên Chúa đổi mới qua trận lụt Đại Hồng Thuỷ. Chỉ ít người ngay lành sống sót.

Đức Kitô hiến tế để đổi mới, không phải huỷ diệt mà là đổi mới. Vẫn trời cũ, đất cũ, vũ trụ cũ, con người cũ. Đổi mới đến cho những ai chấp nhận ơn Cứu Độ Đức Kitô ban. Ơn cứu độ thay đổi con người từ nội tâm đến lối sống. Trong tinh thần đổi mới đó người ta sống với nhau bằng yêu thương. Cư xử với nhau bằng bác ái. Thông cảm cho nhau bằng thứ tha và giao hoà. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là Anh em có lòng yêu thương nhau c.35

 

9. Anh em hãy yêu thương nhau

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)

Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: lời giải thích của Đức Giêsu về cuộc Vượt Qua của Người (Ga 13,31-32) và lệnh truyền mới của Đức Giêsu cho Hội Thánh (Ga 13,33a.34-35).

1. Lời giải thích của Đức Giêsu về cuộc Vượt Qua của Người (Ga 13,31-32)

Giuđa bắt đầu thực hiện âm mưu nộp Đức Giêsu. Khi Giuđa đã đi rồi, Đức Giêsu giải thích bản chất của những thực tại đang diễn ra. Nhìn bề ngoài, Người đang đi vào một cuộc thất bại kinh khủng, nhưng thực chất, cái chết của Người chính là một cuộc bày tỏ vinh quang và tình yêu ở mức tròn đầy: “Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31). Thực hiện chương trình của Thiên Chúa, Con Người diễn tả tình yêu và vinh quang của Người ở mức độ cao nhất và trọn vẹn nhất. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Với tất cả tự do, Đức Giêsu phó nộp mình trong tay kẻ dữ và đón nhận cái chết thảm khốc, vì yêu mến và để cứu độ thế gian. Cái chết của Người, quả thực, chính là bằng chứng lớn lao và vĩ đại nhất của tình yêu mà Thiên Chúa dành cho loài người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Chính theo nghĩa đó, “Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31).

“Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Ga 13,32). Cần đọc lời này của Đức Giêsu trong liên hệ với Ga 12,28: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.” Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”.

Tình yêu mà Đức Giêsu bộc lộ trong cuộc thương khó và cái chết của Người, tình yêu đã được thi thố đến mức tận cùng qua hình ảnh máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người, tình yêu ấy sẽ đổ tràn vinh quang của Thiên Chúa nơi chúng ta. Và “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16). Đó chính là cách Thiên Chúa tôn vinh Con Một của Người nơi chính mình. Nói cách khác, chính khi Đức Giêsu sống thân phận hạt lúa bị thối rữa trong lòng đất, lại là lúc xảy đến cuộc Thiên Chúa tôn vinh Người bằng cách đổ tràn trên nhân loại tất cả ơn nghĩa và sự thật: “Đức Giêsu nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,23-24).

Như thế, ở tận cùng của sự ô nhục của thập giá lại là cuộc tôn vinh tuyệt vời của Con Thiên Chúa, cuộc tôn vinh vì tình yêu và ơn cứu độ dành cho thế gian. Nơi tận cùng của cái chết bi thảm lại là điểm khởi đầu của sự sống mới mẻ và viên mãn, bởi vì, nơi sự chết mà Đức Giêsu đang đi vào, “Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Ga 13,31-32).

2. Căn tính của cộng đoàn Hội Thánh – cộng đoàn Mêsia (Ga 13,33a.34-35)

Chính trong tư thế của Đấng được Thiên Chúa tôn vinh đó, Đức Giêsu nói những lời từ biệt các đồ đệ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,33a.34-35).

Đức Giêsu sắp rời khỏi thế gian, nhưng các đồ đệ của Người vẫn còn ở trong thế gian (Ga 13,1; 17,11). Đức Giêsu thiết lập họ thành cộng đoàn và ban cho họ căn tính riêng biệt của những con người thuộc về cộng đoàn đó. Trước đây, các đồ đệ đã biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia (1,41.45.49); và bây giờ, các ông sẽ biết đâu là đặc tính quan trọng bậc nhất của cộng đoàn Mêsia: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34a).

Khi nói “điều răn mới”, Đức Giêsu có ý đặt điều răn này đối lập với luật cũ. Luật Môsê được thay thế bằng lệnh truyền tràn đầy ân sủng và sự thật của Đức Giêsu. Sự khác biệt giữa hai giao ước được xác định. “Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 1,17). “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người. Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn” (Ga 3,31.34). Vinh quang của Thiên Chúa là sự dẫy tràn ân sủng và sự thật (Ga 1,14), nên đòi hỏi dành cho những người được đưa vào vinh quang ấy cũng phải là tình yêu và chân lý, bởi vì “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16).

Điều đáng chú ý: trong điều răn mới, Đức Giêsu không hề đòi hỏi các đồ đệ phải làm gì cho chính Người hoặc cho Thiên Chúa, mà chỉ đòi hỏi các đồ đệ yêu thương nhau. Thiên Chúa không tập trung chú ý của Người về chính bản thân mình. Tình yêu của Người là tình yêu năng động hướng đến toàn thể vũ trụ và nhân loại. Tình yêu của Người là tình yêu hiến tặng cho nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Khuôn mẫu và tiêu chuẩn của tình yêu mà các đồ đệ phải thi thố là chính Đức Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34b).

Đức Giêsu đã từng mời gọi các đồ đệ đồng hóa với Người trong sự sống và trong cái chết của Người: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình” (Ga 6,53). Bây giờ, Người xác định rằng các hành động của Người chính là khuôn mẫu cho cách sống của các độ đệ: điều răn mới chính yếu hệ tại ở chỗ các đồ đệ yêu thương nhau như Người đã yêu thương họ vậy. Đức Giêsu là tiêu chuẩn, là thước đo, là khuôn mẫu, là lý tưởng và là cùng đích tối hậu của tình yêu thương.

Có thể lấy hai hành động mà Đức Giêsu vừa thực hiện làm điểm quy chiếu giúp giải thích thế nào là yêu thương nhau “như Thầy yêu anh em”: sự kiện Đức Giêsu rửa chân cho các đồ đệ (Ga 13, 1-20) và thái độ của Người đối với Giuđa, kẻ nộp Người (Ga 13,21-32). Bằng việc rửa chân cho các đồ đệ, Đức Giêsu cho thấy điểm quan trọng trong tình yêu là đón nhận người khác và đặt mình trong tư thế phục vụ người khác bằng cách đem lại cho họ phẩm giá và sự tự do nhờ tình yêu mến. Cách hành xử của Đức Giêsu đối với Giuđa cho thấy tình yêu đó không được giới hạn vào một loại đối tượng nào và không được loại trừ bất cứ ai, nhưng luôn luôn hết mực tôn trọng tự do của người khác một cách đúng đắn.

Lệnh truyền mới của Đức Giêsu được ban cho những người thuộc về Người, tức là những kẻ được Thiên Chúa sinh ra nhờ Thánh Thần (Ga 1,13: “Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”; 3,5-6: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí; cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí”). Do Thiên Chúa sinh ra, những người đó đã đón nhận quyền trở nên con cái Thiên Chúa (Ga 1,12), và họ sẽ thực sự trở nên con cái Thiên Chúa khi họ yêu thương như chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã yêu thương: chính Người là con đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6).

Tình yêu thương giữa các đồ đệ với nhau phải là một thực tại có thể thấy được và có thể được mọi người nhận biết. Vì thế, tình yêu ấy cần phải được diễn tả bằng những hành động thực tế, như Đức Giêsu đã thực hiện. Và đây sẽ là một dấu hiệu đánh dấu dung mạo và phản ánh căn tính của cộng đoàn. Sự kiện các đồ đệ thuộc về Tôn Sư chí thánh (“anh em là môn đệ của Thầy”) không phải là một điều lý thuyết, mà là một thực tại cụ thể được diễn tả trong thực tế của cuộc sống tràn đầy yêu thương. Cộng đoàn các đồ đệ của Chúa Giêsu sẽ không “đánh dấu” mình bằng những lý thuyết khôn ngoan độc đáo, cũng không phải bằng những bài diễn thuyết hùng hồn, cũng chẳng phải bằng những lời giảng khuyên tốt lành, cũng không phải bằng những tư tưởng cao xa về Thiên Chúa. Cộng đoàn Hội Thánh thể hiện mình trong khả năng yêu thương đến tận cùng và trong việc xây dựng một xã hội mới của tình yêu thương đến tận cùng ấy. Và đó chính là điều làm cho Chúa Cha được nhận biết giữa thế gian.

Thay cho hòm bia của giao ước cũ, Đức Giêsu muốn thiết lập một không gian và nơi chốn yêu thương trong giao ước mới. Thế gian sẽ nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính tình yêu thương mà các độ đệ của Đức Giêsu thi thố giữa thế gian. Không phải những cơ cấu hoàn chỉnh, không phải những cuộc lễ tưng bừng hay những thứ khác tương tự, sẽ là dấu hiệu để thế gian nhận biết các độ đệ của Đức Giêsu, mà là tình yêu thương như chính Đức Giêsu đã yêu thương. Đó là tiêu chuẩn duy nhất mà Đức Giêsu đã thiết lập để “đánh dấu” dung mạo của cộng đoàn Mêsia.

Khi thiết lập tiêu chí duy nhất để cộng đoàn Hội Thánh được nhận biết giữa thế gian như thế, Đức Giêsu đã loại trừ tất cả những tiêu chí khác. Căn tính của Hội Thánh không được đặt nền trên luật lệ hay phụng tự. Tình yêu thương tha nhân là bằng chứng duy nhất của sự hiện diện đích thực của tình yêu của Thiên Chúa nơi con người. Hội Thánh là mầu nhiệm tình yêu ấy giữa thế gian. Các thành phần của Hội Thánh hiệp thông với nhau trong tình yêu ấy, và cùng nhau làm chứng cho Chúa Kitô bằng cách thực thi tình yêu ấy.

 

10. Suy Niệm của JKN

 

Câu hỏi gợi ý:

1. Tại sao sắp tới lúc chịu tử nạn, Đức Giêsu lại nói rằng sắp tới giờ Ngài được tôn vinh? Tử nạn và tôn vinh có phải là một sự kiện duy nhất không?

2. Tại sao khi Đức Giêsu được tôn vinh, thì Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người? Có gì tương tự như thế giữa Thiên Chúa và chúng ta như nơi Đức Giêsu không?

Tại sao sự yêu thương nhau lại là dấu chứng của các môn đệ Chúa? Thế còn việc làm dấu thánh giá có phải là dấu chứng không?

Suy tư gợi ý:

Thiên Chúa được tôn vinh nơi Đức Giêsu và qua Đức Giêsu

a) Hai mặt đối nghịch nhau của mầu nhiệm vượt qua

“Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người”. Đức Giêsu nói điều này ngay trước khi chịu tử nạn. Tới giờ phải chịu tử nạn, mà Ngài lại nói đó là lúc Ngài được tôn vinh. Điều này cho thấy “tử nạn” và “được tôn vinh” là hai mặt khác nhau của cùng một sự việc. Nói cách khác, tử nạn và phục sinh, hay đau khổ và vinh quang tuy khác nhau và ngược lại nhau, nhưng lại luôn luôn gắn liền với nhau, không thể tách rời nhau, giống như hai mặt của một tờ giấy duy nhất.

Đó là chính là nội dung và ý nghĩa của mầu nhiệm vượt qua: vì đau khổ và vinh quang, tử nạn và phục sinh không thể tách rời nhau, nên muốn đạt được cái này thì phải trải qua cái kia. Không thể phục sinh nếu không chịu tử nạn, không thể hạnh phúc hay vinh quang, nếu không trải qua đau khổ. Đời sống thực tế chứng tỏ rõ ràng điều ấy: Tôi không chịu cực khổ làm ăn, gia đình tôi không thể ấm no hạnh phúc được. Một học sinh không chịu khó nhọc học hành không thể đỗ đạt hay làm nên danh phận gì.

Ý thức được thực tế của mầu nhiệm vượt qua, người kitô-hữu không nên mơ tưởng có được hạnh phúc mà không phải qua đau khổ, hay có được vinh quang mà không phải chịu nhục nhã, hay sẽ phục sinh mà không cần tử nạn. Qui luật thực tế của đời sống không cho phép như thế. Muốn hạnh phúc mà không qua đau khổ, muốn vinh quang mà không chịu nhục nhã, muốn phục sinh mà không cần tử nạn, đều là những cám dỗ cho tất cả mọi người, vì những ước muốn đó thường dẫn đến tội lỗi. Thật vật, tất cả mọi tội lỗi xảy ra trên đời đều xuất phát từ ước muốn không thực tế đó. Kẻ trộm cướp, hối lộ, kẻ giết người, gian dâm, v.v… đều là những kẻ muốn hạnh phúc mà không phải khó nhọc, vất vả. Tới đây, ta nên nhớ lại lời của Đức Giêsu: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều người đi lại qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14).

b) Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa và con người là một

“Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người”. Đức Giêsu và Thiên Chúa đều được tôn vinh trong cùng một con người (là chính Đức Giêsu), và trong cùng một sự việc (là cuộc tử nạn). Điều này cho thấy Đức Giêsu và Thiên Chúa liên quan với nhau mật thiết đến mức có thể nói Đức Giêsu và Thiên Chúa là hai mặt khác nhau của một thực tại duy nhất: con người Đức Giêsu. Có thể nói Đức Giêsu, một mặt là một con người yếu đuối, bị hạn chế đủ mọi mặt, mặt khác lại chính là một Thiên Chúa mạnh mẽ, vô hạn đủ mọi mặt. Hai mặt ấy tuy ngược hẳn nhau nhưng lại kết hợp và gắn liền với nhau thành một con người duy nhất.

Đức Giêsu chính là mô hình gương mẫu của chúng ta, của mọi người kitô-hữu. Cũng tương tự như Đức Giêsu, một mặt ta mang tính con người, vốn hữu hạn, yếu đuối, dễ trở nên tội lỗi, một mặt ta chính là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hạn, mạnh mẽ, thánh thiện, “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Tính chất thần linh trong bản thân của đa số chúng ta có thể còn ở dạng mầm, chưa phát triển. Bổn phận và sứ mạng của người kitô-hữu là phải làm sao để cái mầm thần linh ấy ngày càng phát triển lớn mạnh lên. Ta càng ý thức được tính chất thần linh của mình, và cố gắng sống phù hợp với tính chất ấy, thì tính chất ấy càng có điều kiện phát triển mạnh.

Khi mầm thần linh ấy phát triển trong ta, khiến ta sống, hành động và xử sự như Đức Giêsu, thì ta có thể nói được như Ngài: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người”. Thiên Chúa chỉ được tôn vinh trong bản thân ta, khi chúng ta làm cho mầm thần linh trong ta phát triển lớn mạnh. Mầm thần linh ấy chính là Nước Trời ở trong ta. Đức Giêsu đã từng nói: “Nước Thiên Chúa ở trong anh em” (Lc 17,21). Và trong bản thân chúng ta, Nước ấy, hay cái mầm thần linh ấy, giống như một hạt cải, “là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên lại là thứ lớn nhất. Nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được” (Mt 13,32). Nhưng mầm thần linh ấy chỉ phát triển khi “cái tôi đáng ghét” của ta thật sự nhỏ đi: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi” (Ga2. Yêu thương là điều kiện phát triển tính thần linh trong ta

Mầm thần linh ấy không thể phát triển được trong một con người coi cái tôi của mình là quá lớn. Sự phát triển hình ảnh của Thiên Chúa trong ta và sự trương phình bản ngã của ta là hai sự việc luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau. Càng coi cái tôi của mình là quan trọng, càng đặt nặng cái tôi của mình, thì cái tôi ấy càng lấn át tính chất thần linh, và làm cho nó ngày càng yếu ớt, nhỏ bé đi, và đó chính là nguyên nhân của mọi thứ tội lỗi. Trong tiếng Việt, chữ «tội» được hình thành bởi chữ “tôi” và dấu “nặng”: “tôi nặng tội”. Điều ấy không phải là không có ý nghĩa. Tội lỗi được hình thành từ việc coi cái tôi của mình quá nặng. Và sự thánh thiện thì ngược lại, được hình thành từ việc coi nhẹ hay tự huỷ cái tôi của mình đi. Đức Giêsu đã từng nói: “Hạt lúa được gieo vào lòng đất nếu không chết đi, nó vẫn chỉ là hạt lúa, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Cái tôi có chết đi, thì sự sống thần linh hay Nước Thiên Chúa trong ta mới phát triển và sinh hoa kết trái.

Yêu thương chính là quên mình, hay ra khỏi cái tôi của mình để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Và đó chính là bản chất của sự thánh thiện, cũng là bản chất của Thiên Chúa, như thánh Gioan đã định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Nếu ta là hình ảnh của Thiên Chúa, thì cách hành xử của ta phải phản ánh tình yêu. “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,7-8). Tình yêu chân thật chính là dấu chứng của sự thánh thiện, chứng tỏ có sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nào càng yêu thương và càng hy sinh cho người khác thì càng là người thánh thiện, và càng chứng tỏ có Thiên Chúa ở với mình. 3,30). Mầm thần linh ấy không thể được phát triển nơi một người lúc nào cũng coi cái tôi của mình quá lớn.

Chính vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để chịu tử nạn và về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu cho các môn đệ biết cái dấu hiệu quan trọng nhất để có thể căn cứ vào đó mà biết được ai là môn đệ đích thực của Ngài, đó là tình yêu thương đối với mọi người, và nhất là đối với nhau. “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau”. Làm dấu thánh giá, đọc kinh, dâng lễ… chỉ là những dấu hiệu bên ngoài của người kitô-hữu, mà người không phải là kitô-hữu vẫn có thể giả mạo. Còn sự yêu thương – được thể hiện cụ thể bằng hành động – mới là dấu chứng thật sự của người kitô-hữu. Người yêu thương thực sự biết quên mình để hy sinh cho tha nhân vô điều kiện, cho dù chưa rửa tội, thì đã là kitô-hữu đích thực từ bên trong rồi. Còn người mang danh kitô-hữu mà sống ích kỷ, không tình thương, thì chỉ là kitô-hữu hữu danh vô thực mà thôi (xem Rm 2,12-24).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin biến cải lòng con thành “trời mới đất mới”, thành Nước Trời, trong đó luôn luôn tràn ngập tình yêu thương, để mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa – là tình yêu – ở trong con.