Suy Niệm Chúa Nhật 3 Phục Sinh – Năm C

Hãy làm cho ơn phục sinh vươn mạnh, lớn lên và bung ra cả trong chiều sâu nội tâm của đức tin lẫn trong đời sống thường ngày của mình. Đó là cách tốt nhất để cùng với Chúa Kitô, ta làm cho đời sống của ta, xung quanh ta tràn ngập niềm vui phục sinh...

Suy Niệm Chúa Nhật 3 Phục Sinh – Năm C

Ga 21,1-19

 

1. Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi

(AM. Trần Bình An)

Tàu Titanic dài 269 m và rộng 28 m. Trọng tải 46.328 tấn, và chiều cao từ mặt nước tới boong tàu là 18 m.Titanic có thể chở tổng cộng 3.547 người, gồm cả thủy thủ đoàn. Vào đầu thế kỷ 20, Titanic được coi là một đỉnh cao của kiến trúc hàng hải, một tiến bộ công nghệ vượt bực, mà tạp chí The Shipbuilder tấm tắc ca ngợi là con tàu “không thể chìm”.

Tàu bắt đầu được đóng vào năm 1909 và được hạ thủy năm 1912. Là con tàu lớn, hiện đại, lộng lẫy và sang trọng nhất lúc đó, Titanic mang theo tham vọng thống trị tuyến đường biển xuyên Đại Tây Dương của công ty sở hữu nó, hãng vận tải biển The White Star Line. Tuy nhiên, trong chuyến vượt Đại Tây Dương đầu tiên và cũng là cuối cùng của nó vào tháng 4 năm 1912, Titanic đã đắm do đâm vào một tảng băng trôi, khiến hơn 1.500 người tử nạn. Vụ đắm tàu này đã đi vào lịch sử như là vụ tai nạn hàng hải nghiêm trọng nhất trong thời bình. (Wikipedia)

Tuy nhiên, con thuyền đánh cá mong manh của ngư phủ Phêrô và quý đồng nghiệp lại ra khơi ròng rã suốt 21 thế kỷ. Đến nay vẫn đang tiếp tục phiêu lưu cùng Chúa Giêsu. Thuyền vẫn hăng say lướt song, dù trải qua biết bao phong ba bão táp. Đó chính là con thuyền Hội Thánh đầy thánh thiện, tình yêu và phục vụ.

Con Thuyền Thánh Hóa

Nhọc nhằn, mệt mỏi thâu đêm, tất cả sáu môn đệ theo thuyền trưởng Phêrô lão luyện, đều phờ phạc trắng tay. Nhưng khi các ông tuân theo Thánh Ý Chúa, thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì không sao kéo nổi, vì lưới đầy những cá. (Ga 21, 6) Mặc dù trời đã sáng, không còn là thời điểm thích hợp đánh cá, theo như luật tự nhiên. Nhưng Thiên Chúa quyền năng và siêu việt, không hề bị những quy luật của tạo vật chi phối.

Sau khi ĐGH Biển ĐứcXVI từ nhiệm, giới truyền thông quốc tế đua nhau dự đoán người kế vị qua danh sách 10 vị Hồng Y nổi danh. Thậm chí, họ còn tung ra lời tiên báo của thánh Malachi với viễn tượng thật u tối, đau buồn cho Hội Thánh. Nhưng chẳng ai có thể ngờ được rằng, Đức Hồng Y Argentina, Jorge Mario Bergoglio nhận sứ vụ kế vị thánh Phêrô thứ 266, trở thành Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Một bất ngờ thật lớn cho mọi người và toàn thể Dân Chúa, vì đó chính là tác động trực tiếp của Đức Chúa Thánh Thần trên Cơ Mật Viện, trong một thế giói đang đắm chìm vào tà thuyết duy vật và khuynh hướng tục hóa.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã tâm sự cùng các môn đệ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em.. Thật vậy, nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với anh em” (Ga 16, 7). Như thế nhờ Đức Chúa Thánh Thần bảo trợ, Con Thuyền Hội Thánh mới có thể bền vững tồn tại, sau hơn hai ngàn năm ra khơi, dẫu luôn bị vùi dập bể dâu.

Con Thuyền Tình Yêu

Sau mẻ cá lạ lùng, Chúa Phục Sinh thân mật và ân cần chia sẻ bánh và cá với các môn đệ. Người không nhắc lại ba lần ông Phêrô phản bội chối Người, cũng như không hạch tội đã qua, mà chỉ hỏi ba lần ông Phêrô có yệu mến Người không. Ba lần ông Phêrô đều mạnh dạn khẳng định tình yêu dành cho Người. Ba lần Chúa Giêsu thương yêu trao sứ vụ mục tử, săn sóc đoàn chiên của Người. Một quyết định dứt khoát, minh bạch và công khai sự ủy quyền.

Như thế, vì yêu Chúa Giêsu thực tình, tông đồ Phêrô điều khiển, lèo lái con thuyền Hội Thánh với cả một Tình Yêu nồng nàn, chứ không phải với quyền lực thô bạo, hắc ám, phong kiến, hay độc tài theo thế gian. Di sản Tình Yêu của Chúa Giêsu được lưu truyền muôn đời và trở thành dấu ấn sáng chói của Con Thuyền Hội Thánh, vì Người đã phán: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế!” (Mt 28, 20). Sau này ông Phêrô đã chịu tử hình để minh chứng tình yêu cháy bỏng đó.

Chúa Giêsu đã tin tưởng hoàn toàn ông Phêrô, khi trao phó sứ vụ cao cả đó: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…” (Mt 16, 17-19)

Con Thuyền phục vụ

Trước khi chịu cuộc khổ nạn, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, kể cả người sắp mưu phản, nộp người cho quân dữ, để dạy các môn đệ biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, mà Người trao phó. Hôm nay, Chúa Phục Sinh còn đích thân làm bếp, nhóm than, nướng bánh và cá phục vụ các môn đệ, vừa đói khát đi đánh cá trở về. Người còn lên tiếng mời gọi: “Anh em đến mà ăn!” (Ga 21, 12)

Nhưng không chỉ là phục vụ trong nội bộ, mà Con Thuyền Hội Thánh ra khơi thả lưới khắp nơi, hầu quy tụ mọi dân tộc, sắc tộc, mọi người trong gia đình nhân loại vào một Giáo Hội duy nhất. Thời xa xưa, các nhà vạn vật học Hy Lạp đã thống kê tất cả có 153 loài cá trên thế giới. Như vậy, Thánh Ý Chúa muốn mời gọi mọi người trên dương gian về với Con Thuyền Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô.

“Phêrô, con là đá, Ta xây Hội Thánh Ta trên đá này, và cửa hỏa ngục mở tung không thắng nổi!” Hai mươi thế kỷ qua, bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu biến động, nội công ngoại kích, lắm giai đoạn đến mức tuyệt vọng, nhưng “Hội Thánh Chúa” không phải hội của loài người. (Đường Hy Vọng, 249)

Con tin Hội Thánh, vì Chúa Giêsu đã lập Hội Thánh, và chỉ lập Hội Thánh ấy thôi. Con đau khổ vì những bất toàn nơi bộ mặt nhân loại của Hội Thánh, nhưng con liên đới với những bất toàn ấy. Con nỗ lực để tẩy luyện và thực hiện ý Chúa Giêsu nơi Hội Thánh. (Đường Hy Vọng, 268)

Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và phục vụ mọi người, để cùng hợp tác với Hội Thánh rao truyền hồng ân cứu độ.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Sao Biển dẫn dắt chúng con đang lênh đênh, lao đao, vất vả giữa giông tố bão bùng cuộc đời, luôn tin yêu vào Giáo Hội và cùng ra khơi với Con Thuyền Hội Thánh. Amen.

 

2. Hãy phục sinh đức tin…

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

Sống Mùa Phục Sinh

Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh. Hãy làm cho ơn phục sinh vươn mạnh, lớn lên và bung ra cả trong chiều sâu nội tâm của đức tin, trong các sinh hoạt đạo đức cá nhân hay tập thể, lẫn trong đời sống thường ngày của mình. Đó là cách tốt nhất để diễn tả niềm tin phục sinh. Đó cũng là cách tốt nhất để cùng với Chúa Kitô, ta làm cho đời sống của ta, xung quanh ta tràn ngập niềm vui phục sinh. Tôi gọi đó là phục sinh đức tin.

1. NHỮNG LÝ DO CẦN ĐẾN ƠN PHỤC SINH ĐỨC TIN.

Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong nội tâm, để nội tâm lắng đọng một chiều sâu phục sinh đích thực: Biết bao nhiêu người, kể cả bạn và tôi đã mừng Chúa phục sinh, nhưng sự mừng ấy có khi chỉ là lễ hội, là sự háo hức về một đêm thánh mà trong đó phụng vụ có nhiều diễn tả lạ, khác mọi cử hành phụng vụ khác. Thiếu chiều sâu nội tâm của đức tin, vì thế, mừng ơn phục sinh vĩ đại, nhưng lòng ta, ơn phục sinh chẳng thấm, chẳng biến đổi gì. Ta chẳng phục sinh.

Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong các sinh hoạt đạo đức: Nhiều người sống nguội lạnh, bỏ cầu nguyện, bỏ các giờ kinh sớm chiều, bỏ luôn cả việc tham dự thánh lễ và lãnh nhận bí tích. Nhiều người chạy theo dục vọng, tiền tài đã sống bê tha trong tội lỗi, thậm chí nhiều năm không đến nhà thờ, bỏ luôn cả việc xưng tội, rước lễ. Nhiều anh chị em tích cực hơn, nhưng chỉ giữ đạo theo mùa: Cứ đến lễ trọng, mùa Vọng, mùa Chay, mùa Giáng Sinh, mùa Phục Sinh thì chạy đôn, chạy đáo tìm linh mục giả tội, nhưng rồi vẫn không mấy thay đổi. Nhiều người còn chịu khó giữ đạo, giữ các giờ kinh, tuy đấy đã là điều tốt, nhưng cần phải tốt hơn trong sự chăm chú cầu nguyện, suy tư và chiêm ngắm lời kinh mà mình đọc, chứ đừng chỉ giữ giờ kinh, giờ cầu nguyện, cả đến việc dự lễ mỗi ngày như một thói quen. Vì thế, họ cần phải phục sinh đức tin của chính mình.

Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong đời thường. Từ trước tới nay, ta chưa bao giờ, hoặc có nhưng rất ít, rất thiếu sót sự gắn bó với Thiên Chúa trong từng công việc, trong các bổn phận, và mọi lao nhọc… Vì thế, khi phải lao tác, vất vả, lắm lúc gặp nhiều trở ngại, nhiều thất bại và không biết bao nhiêu cay đắng khác…, ta chỉ thấy mệt mỏi, chỉ thấy đời ta đầy nặng nhọc, đầy oan khuất. Ta cần biết rằng, cuộc đời vẫn thế, bất cứ ai sống trong đời đều cũng giống như ta. Chỉ khác ở chỗ, họ đã tin tưởng vào Chúa Kitô. Họ kết hợp với thánh giá của Người trong từng ngày sống. Họ hiến dâng cho Người tất cả suy nghĩ, việc làm, niềm tin, hy vọng, sự sống, mọi hoàng cảnh, mọi tương quan… Nhờ đó, họ chấp nhận cuộc sống dễ dàng hơn. Họ đủ nghị lực mà gánh vác chính cuộc đời của họ. Ta cần phải phục sinh đức tin như họ để ta cũng được ơn bình an của Đấng Phục Sinh.

Ngược với những người phải ngày đêm vất vả là những người sống xa hoa. Nhất là trong thời hiện tại, người ta có quá nhiều phương tiện hưởng thụ, đến nỗi lao thân vào lối sống duy vật và nô lệ cho lối sống ấy. Đây là đối tượng khẩn thiết nhất cần đến ơn phục sinh đức tin. Vì chỉ có thể sống lại trong đức tin, họ mới có thể thuộc về thế giới của sự sống tự do, sự sống mới, khơi nguồn từ nguồn Phục Sinh là chính Chúa Kitô. Bởi chỉ có ai bước đi trong ơn phục sinh của Đấng Thiên Chúa làm người, người ta mới thực sự sống tự do, không nô lệ.

Với tất cả những lý do cụ thể bên trên, ta thấy phục sinh đức tin là việc làm khẩn cấp. Vậy để phục sinh đức tin, ta cần phải làm gì? Tôi muốn đưa ra vài suy nghĩ của riêng cá nhân tôi, chỉ xin là những gợi ý khả dĩ giúp ta bước vào hành trình phục sinh chính đức tin của mình.

2. GẮN BÓ CÁ VỊ VỚI CHÚA KITÔ.

Chấp nhận tin không có nghĩa chỉ đơn thuần là chấp nhận một giáo lý, giáo điều, một mớ luật lệ, hay những nghi thức nào đó là đủ. Ngay cả khi ta chấp nhận Hội Thánh và đi theo đường lối của Hội Thánh, thì đó cũng chưa phải là điểm mấu chốt của đức tin. Tin trước hết là hiệp thông với Chúa Kitô, là gắn bó cá nhân cách mật thiết với Chúa Kitô. Bởi vậy, những gì chúng ta đã từng sống, đã từng hành động cho cái gọi là con người của tôn giáo Kitô giáo, nhưng chưa có chiều sâu bằng một cảm nghiệm nội tâm về tình yêu Chúa Kitô, mà chỉ là giữ và buộc mình phải chấp nhận luật lệ, chấp nhận giáo lý, thì giờ đây, ta hãy chỉnh đốn lại, hãy làm cho tất cả những gì ta phải giữ từ trước tới nay nằm trong tương quan tình yêu Chúa Kitô. Tôi tạm gọi việc chỉnh đốn lại cách sống, cách thực hành đức tin là phục sinh đức tin.

Như vậy phục sinh đức tin có nghĩa là hãy nhìn vào Chúa Kitô trước đã. Từ nay tôi giữ đạo, tôi chấp nhận lề luật, tôi thực hiệc các hành vi đạo đức, tôi sống tốt trong tương quan với mọi người… không chỉ vì luật của Chúa, của Hội Thánh dạy như thế, mà vì tình yêu của Chúa Kitô dành cho tôi, và của tôi đáp trả tình yêu ấy. Vì tình yêu của Chúa Kitô và vì yêu mến Người, tôi thực hiện nghĩa vụ tôn thờ Thiên Chúa, tôi sống lẽ sống mà đạo dạy tôi, tôi quan tâm đến nguời xung quanh… Vì Chúa Kitô, tôi chấp nhận lề luật của Thiên chúa, và chấp nhận đường lối Hội Thánh hằng chỉ dạy tôi.

Chỉ khi nào sống trong tương quan tình yêu với Chúa Kitô, việc giữ đạo của ta mới nhẹ nhàng. Cũng giống hai người đàn ông cùng cuốc một thửa đất, nhưng một người là tù binh bị ép buộc phải lao động, còn người kia là người cha trong gia đình. Người cha trong gia đình vì thương vợ, thương con, ông miệt mài làm việc, dù mệt nhọc nhưng ông cảm thấy vui, cảm thấy lòng thanh thản và an ủi vì nhờ bàn tay lao động của ông, gia đình ông có thể sinh sống. Ông luôn sống trong hy vọng về một kết quả tốt sẽ đến cho tương lai của gia đình ông. Càng hy vọng, ông càng vui.

Người đàn ông là tù binh chắc chắn sẽ không bao giờ có được cảm nghiệm về niềm vui mà người cha trong gia đình có được. Bởi việc ông làm không phải là tình yêu, không phát xuất từ động cơ của lòng yêu thương mà chỉ là ép buộc, chỉ là hình phạt, là đền tội, hoàn toàn không có tự do trong lao động của ông. Cách nào đó, giữ đạo cũng gần giống như chuyện hai người đàn ông cuốc đất. Nếu tôi yêu mến Chúa, việc thực hành đạo của tôi là niềm hạnh phúc, là nhu cầu cần đáp ứng của tình yêu, do tình yêu, phát xuất từ tình yêu đối với Thiên Chúa của tôi. Nếu không có lòng yêu mến Chúa, đức tin chỉ là một gánh nặng vô cùng.

Ta cần phục sinh đức tin của mình, để đức tin của ta có một tương quan cá vị với tình yêu của Chúa. Chỉ có đức tin trong tương quan tình yêu, việc giữ đạo của ta mới là việc làm tự do, mang lại hạnh phúc, thấm đẫm và ngày càng đi vào chiều sâu nội tâm.

Nếu ta phục sinh đức tin của mình trong tương quan tình yêu với Chúa Kitô, cuộc đời ta sẽ được nâng đỡ, được ủi an. Có đức tin trong tương quan cá vị với Chúa Kitô, ta sẽ cảm nhận một điều lớn lao: gánh nặng của sự sống mà ta phải mang gánh trong đời có Chúa cùng sớt chia với ta…

3. THOÁT LY NHỮNG NHU CẦU GIẢ TẠO.

Một trong những nguy cơ giết chết đức tin của người tín hữu chính là lòng ham mê ngẫu tượng của thời đại.

Họ trang bị cho mình mọi thứ vật chất, mọi tiện nghi, mọi phương thế thụ hưởng, và coi đó là những thứ cần thiết như đích điểm của đời người, đến nỗi cuốn mình chạy theo nó, quay quắt với nó như cơn bão xoáy không chừa lại một chỗ nào cho sự sống tinh thần có thể ngoi ngóp. Đúng hơn, đấy chính là trận bão của những nhu cầu giả tạo, nhu cầu trước mắt, cuốn phăng lòng người theo nó. Bởi vậy mà không ít người đau khổ khi mình thua anh kém chị dù chỉ một chiếc áo, một đôi dép. Họ tôn thờ vật chất đến độ như chỉ có nó mới là vẻ đẹp của đời mình vậy. Chính vì thế, ngày càng có nhiều người tôn thờ chủ nghĩa thời thượng, chủ nghĩa “mode”. Sự tôn thờ này đã biến họ thành nô lệ cho vật chất. Họ phải liên tục đổi di động, đổi xe gắn máy, đổi đồng hồ, đổi những thứ trang xức khác…, làm sao cho những gì họ có phải mới liên tục, phải “mode” liên tục. Họ tôn thờ vật chất một cách đam mê và cuồng tín. Tôi gọi đó chính là sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại.

Điều mỉa mai đau đớn là, dù ngụp lặn trong thế giới vật chất, vượt trên cả sự tìm tòi vật chất: con ngưới trầm mình với vật chất như thể nên một với nó, thì lại có một thực tế khác, dù âm thầm, vẫn không kém mạnh mẽ lên án thái độ nô lệ ngẫu tượng thời đại của con người. Thực tế đó chính là tiếng nói của lương tâm, là đời sống tinh thần, là thế giới thiêng liêng của tâm hồn. Cố tình vượt qua giới hạn của tiếng nói nội tâm mình như thế, con người trở nên chao đảo, bấp bênh, thiếu bình an, và đói khát chân lý. Tình trạng này làm cho con người sống hết sức ngột ngạt.

Bởi con người đâu chỉ là vật chất, nhưng trước hết là tinh thần. Đời sống tinh thần mới là sức mạnh làm nên giá trị của đời người. Vì thiếu niềm tin, vì lạc mất tinh thần, sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại cũng sẽ đẩy chủ nghĩa cá nhân lên ngôi. Bởi càng tiện nghi bao nhiêu, con người càng dễ sống một mình bấy nhiêu.

Nhưng các tiện nghi vật chất không bao giờ là đối tượng chia sẻ sự sống, suy nghĩ, tình cảm…, điều mà từ rất xa xưa, Ađam đã cảm nghiệm, vì ông không thể “tìm được một trợ tá tương xứng” (St 2, 20). Không thể chấp nhận một xã hội chỉ là cá nhân, Ađam thao thức tìm kiếm sự chia sớt tương xứng, và Chúa đã ban cho ông như lòng ông mong đợi. Nhưng oái oăm và nghịch lý quá đỗi! Trong khi Tổ Tông của mình cố thoát ra khỏi chủ nghĩa cá nhân, thì loài người hôm nay, dẫu quá kinh nghiệm về sự tai hại của chủ nghĩa này, lại cứ tìm về, cứ cố tình đuổi theo nó bằng mọi thứ tiện nghi, mọi thứ trang bị cho chính cá nhân, biến cá nhân thành trọng tâm cho sự quan tâm của chính mình. Thật vô phúc cho ai sống gần những cá nhân chỉ tôn thờ chính mình như thế!

Rồi từ chỗ chỉ biết sống cho riêng cá nhân mình, sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại, càng biến con người thành động vật sống ích kỷ không thể tả. Nhưng như một hệ luận tất yếu: càng sống ích kỷ, con người càng cô độc. Nếu tiếng nói của nội tâm bị coi thường, cuộc sống của con người vốn đã ngột ngạt, sự cô độc sẽ làm cho con người ngày càng chơi vơi hụt hẩng, ngày càng cay đắng với chính mình, với thế giới quanh mình gấp nhiều lần hơn.

Không còn chỗ bám cho đức tin, con người tự giết chết mình, giết chết cả những tương quan quanh mình cách thảm hại. Bởi dù họ sống, nhưng lối sống ích kỷ ấy chỉ là lối sống thiếu sức sống. Nói nặng hơn, cá nhân mình, một khi chỉ là đối tượng chăm sóc của bản thân, cá nhân ấy trở thành cá nhân què quặt, dị tật.

Như vậy, trong sự phục sinh đức tin của mình, cùng với việc sống cá vị và liên kết mật thiết với Chúa Kitô, người tín hữu hãy ra khỏi chính mình để sống đức tin với anh chị em. Họ cần để cho lòng mình thanh thoát, khỏi những vướng bận của trần gian, của những tiện nghi vật chất.

Người tín hữu cần học biết điều này: Đức tin là đức tin cá nhân của bản thân gắn bó với Thiên Chúa. Càng chìm sâu bao nhiêu trong sự gắn bó với Chúa, sẽ càng đầy tràn lòng yêu mến, và chắc chắn đức tin càng sáng chói bấy nhiêu. Nó đòi hỏi ý thức và sự dấn thân thực sự của cá nhân trong tương quan với Chúa Kitô, với Thiên Chúa. Nhưng đức tin chỉ có thể được nuôi dưỡng trong đời sống cộng đoàn. Bởi Thiên Chúa, nền tảng của đức tin chúng ta là một Thiên Chúa “không phải trong một ngôi đơn độc, nhưng trong Ba Ngôi cùng một bản thể” (kinh Tiền Tụng lễ Chúa Ba Ngôi). Người không cứu chuộc từng người đơn độc, nhưng trao ban tình thương cho tất cả mọi người.

Cũng vậy, Chúa Kitô không phải là “Đấng ở cùng một người”. Nhưng Người là Đấng “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chúa Kitô không nhập thể và chết cho bất cứ cá nhân nào, nhưng cho cả thế giới qua lớp lớp thế hệ. Chính vì thế, hôm nay Chúa Kitô đã phục sinh, chúng ta cũng hãy làm phục sinh đức tin của mình trong tương quan với cộng đoàn Hội Thánh, với mọi người xung quanh. Chính trong cộng đoàn mà ta liên kết, gương tốt của người này sẽ ảnh hưởng trên người kia; gương xấu của người này sẽ là bài học lớn cho kinh nghiệm sống của người kia, để có thể lách mình khỏi những sai sót mà anh em vấp phải.

Ngoài ra, đức tin còn phải được gìn giữ, phát triển nhờ sự đào tạo liên tục trong suốt đời người bằng mọi nỗ lực cá nhân như: Tìm về một lối sống đơn sơ, giản dị chứ không tìm một lối sống dễ dãi; không nhắm tiện nghi và hưởng thụ, nhất là không nhắm vào nó đến nỗi quay quắt với vật chất như chỉ có nó là sự bảo đảm cho đời mình; hãy biết hy sinh, hãy chấp nhận giới hạn trong tất cả những đòi hỏi vật chất. Hãy là người biết khôn ngoan nói không với những nhu cầu giả tạo. Hãy bền chí theo đuổi cái đẹp của tinh thần, của tình yêu, của sự thầm lặng, của ơn gọi sống nghèo khó, chứ không khoác lên mình những hào quang chỉ được xây dựng từ trần thế cho riêng cá nhân mình.

4. CUỘC PHỤC SINH CỦA CHÚA KITÔ ĐỐI VỚI CHÚNG TA.

Cùng Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta bước vào hành trình phục sinh đức tin của chính mình. Trong hành trình này, Chúa Kitô chính là điểm dừng quang trọng nhất mà đức tin của ta phải tiến đến. Và sự phục sinh của Người là lời mời gọi mạnh mẽ nhất cho hành trình phục sinh đức tin của chính ta.

Phục sinh nào cũng đòi hỏi hy sinh lớn lao, rát buốt. Chính Chúa đã rơi vào những tình huống như thế. Để tiến vào sự phục sinh vĩnh cửu của Người, Người đã từng đối mặt với những đau đớn cả tâm hồn lẫn thể xác. Người đã phải rơi vào nỗi cô đơn, bế tắc, vùi giập. Cái chết của Chúa tưởng đã là tiếng nói sau cùng, là thất bại thảm khốc. Nhưng Chúa đã vượt qua. Người đã đứng lên. Người sống lại. Người chiến thắng.

Sự phục sinh của Chúa vừa là mẫu gương cho sự phục sinh đức tin của ta, vừa là nguồn mạch ban ơn phục sinh cho ta.

Vì thế, như Chúa Kitô, ta vượt qua chính con người nhiều đam mê của bản thân, vượt qua mọi rào cản khách quan lẫn chủ quan để được phục sinh đức tin từng ngày trong nội tâm, trong mọi sinh hoạt đạo đức, lẫn trong đời thường của ta.

Cùng với những nỗ lực nhìn về Chúa Kitô để phục sinh đức tin, ta vững một niềm xác tín rằng, Chúa Kitô ban ơn phục sinh từng ngày cho ta. Bởi giữa mọi lý do gây ra tình trạng chết của đức tin do thiếu chiều sâu nội tâm, do thiếu ý thức trong việc sống đạo, thiếu ý thức về ý nghĩa đạo đức của đời thường, thậm chí do cám dỗ chạy theo lối sống xa hoa, hưởng thụ và thực nghiệm…, ta vẫn trung thành mong đợi ơn phục sinh, và tin tưởng vào sự phục sinh bừng lên nơi cuộc đời mỗi người, thì chính lòng mong đợi và sự tin tưởng ấy, đã cho thấy nguồn ơn phục sinh của Chúa đang thấm vào đời ta.

Mặt khác, dù cho còn đó bao nhiêu lý do cám dỗ ta đi xa đức tin, thậm chí tiêu diệt đức tin, và dù cho lòng ta nhiều khi còn hời hợt, còn thiếu chiều sâu nội tâm, thiếu ý thức, ta vẫn mong ước được phục sinh đức tin của mình. Niềm mong ước này không thể có được, nếu không có ơn phục sinh của Chúa khơi nguồn và ban ơn.

Từ nay, bước theo Chúa Kitô, ta ngước nhìn Người để nếu Người đã phục sinh, ta cùng phục sinh đức tin của mình trong từng hoạt động, từng ngày sống của ta. Ta cũng sẽ gắn bó đời mình với Chúa, can đảm thoát ly mọi nhu cầu giả tạo, để được chìm đắm trong nguồn ơn phục sinh của Chúa. Có như thế, trong cuộc phục sinh của Chúa Kitô, có những cuộc phục sinh trong đức tin của mỗi người. Và cuộc phục sinh của mỗi người trong tương quan với ơn phục sinh của Chúa Kitô, có sự phục sinh của nhiều người, của cả Hội Thánh..….

 

3. Tình yêu – Phương thức điều quản Giáo Hội

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)

Mầu nhiệm Phục Sinh là điểm quy chiếu căn bản của đời sống đức tin nơi các Kitô hữu. Giáo hội được khai sinh từ biến cố quan trọng này. Vì thế, trong những Chúa Nhật mùa Phục sinh, Giáo hội chọn những bài học trong phụng vụ để mời gọi chúng ta nhìn lại Giáo hội thuở sơ khai, nhất là học hỏi cảm thức đức tin nơi các Tông đồ sau khi các Ngài đã tiếp cận với Đấng Phục sinh. Đức tin của các Tông đồ có một nền tảng chắc chắn, dựa vào kinh nghiệm được gặp gỡ Chúa, Đấng đã từ cõi chết chỗi dậy, và đức tin đó được thông truyền cho chúng ta ngày hôm nay.

Mẻ cá lạ lùng, hình ảnh Giáo hội phổ quát

“Tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Đó là những tín điều căn bản về Hội Thánh mà chúng ta vẫn tuyên tín. Hình ảnh mẻ cá lạ thường mà thánh Gioan thuật lại hôm nay giúp chúng ta tái khẳng định những xác tín quan trọng ấy.

Phêrô đã gặp Chúa sau khi Chúa sống lại. Các Tông đồ khác cũng vậy. Chúa Giêsu vẫn đang sống, vẫn đang hiện diện giữa họ, nhưng không phải với cách thức như trước đây khi Ngài chưa đi thụ nạn. Vì vậy, Phêrô và các bạn khác vẫn chưa thực sự cắm sâu vào mầu nhiệm Phục sinh một cách tròn đầy. Họ đã trở về cuộc sống đời thường với nghề đánh cá: “Tôi đi đánh cá đây” (Ga 21,3), và “Chúng tôi cùng đi với anh”. Nhưng suốt đêm các ông không bắt được con cá nào. Sau đó, Chúa hiện ra và chỉ dẫn các ông: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền”. Phêrô đã vâng theo và phép lạ đã xảy ra qua một mẻ cá đầy ắp.

Thánh ký Gioan là một thần học gia uyên thâm. Ngài không mô tả sự kiện như một biến cố bình thường. Những chi tiết thánh ký thuật lại đều mang chở một ý nghĩa thần học sâu sắc. Các tác giả Tin mừng nhất lãm, như Lc 5, 1-11, cũng thuật lại sự kiện trên, nhưng đặt trong một bối cảnh khác và với một hướng đích khác. Còn thánh Gioan đã lồng câu chuyện vào trong kinh nghiệm của các Tông đồ khi gặp gỡ Đấng Sống lại.

Mẻ cá 153 con là hình ảnh biểu trưng tính phổ quát của ơn cứu độ. Con số đó cũng gợi lên tính viên mãn của ân sủng mà Chúa Giêsu đã hiển thị qua sự Phục sinh của Ngài. Thời bấy giờ, theo cái nhìn hải dương học, tất cả chỉ có 153 loại cá. Thánh Gioan đã vay mượn ý niệm đó để quảng diễn mầu nhiệm Giáo hội. Giáo hội mà Đức Kitô Phục sinh khai mở sẽ đem lại ơn cứu độ phổ quát cho tất cả mọi người không phân biệt ai, và đây cũng chính là đặc nét ‘công giáo’ của Hội thánh Chúa Kitô.

Sức mạnh của Lời

Lời khuyến mời của Chúa Giêsu “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền”, quả là một thách đố đối với Phêrô. Ngài đã từng là dân thuyền chài chuyên nghiệp, đã cực nhọc thâu đêm mà không kết quả gì. Ông thực sự nản lòng và toan tính gác lưới. Nhưng Phêrô đã gặp Chúa và đã nghe Lời của Ngài. Theo bản năng tự nhiên, chẳng ai dại gì mà làm điều xuẩn ngốc đến như vậy, vì có cá đâu mà bắt, và đó là dựa vào kinh nghiệm của đời thường.

Tuy nhiên, Phêrô đã không hành xử theo khuynh hướng tự nhiên. Ông hoàn toàn quy thuận lời của Chúa. Đây chính là hình ảnh biểu thị thái độ đức tin khi đứng trước những nghịch lý của Lời. Chúa Giêsu đã huấn luyện Phêrô để biến đổi ông trở nên người rao giảng Tin mừng, nhất là chuẩn bị để Phêrô trở thành người chăn dắt ‘chiên con lẫn chiên mẹ của Thầy’. Chúa Giêsu đã giúp Phêrô nhận ra rằng, chỉ khi nào chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa và vâng theo lời chỉ hướng của Ngài, chúng ta mới có thể thành công. Chính kinh nghiệm này đã biến đổi con người Phêrô cách tận căn. Trong Tin mừng Luca, kết quả cuối cùng là Phêrô đã hối hận và bước theo Chúa Giêsu. Còn trong Tin mừng Gioan, Phêrô đã dần dần đi sâu vào cảm thức đức tin để trở thành người lãnh đạo, chăn dắt đoàn chiên của Chúa, Đấng Phục sinh.

Tình yêu, phương thức điều quản Giáo hội

Sau khi kéo cá lên bờ, Thầy trò cùng ngồi với nhau ăn cá nướng. Đây là thời điểm để các Tông đồ, đặc biệt Thánh Phêrô trải nghiệm giây phút quan trọng nhất liên quan đến Giáo hội của Chúa Giêsu. Chúa đã chính thức cắt đặt Phêrô làm thủ lĩnh và làm người cai quản. Chúa huấn luyện đức tin của Phêrô qua mẻ cá lạ thường, và bây giờ Chúa lại đặt ra một điều kiện tối quan trọng cuối cùng để trao quyền bính cho ông: Đó chính là tình yêu. Tình yêu là điều kiện ‘sine qua non’, không có không được. Chúa hỏi Phêrô 3 lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ba lần Chúa Giêsu hỏi và 3 lần Phêrô trả lời, tương thích với 3 lần Phêrô đã chối Chúa vì yếu đuối. Điều đó cho thấy rằng, tội lỗi hay sự yếu đuối của con người sẽ không là gì cả so với sức mạnh của tình yêu và ân sủng.

Nếu chúng ta nghiên cứu bản văn theo nguyên ngữ Hy Lạp, chúng ta sẽ thấy Thánh Gioan có một dụng ý sâu xa. Hai lần đầu, Chúa Giêsu hỏi Phêrô về tình yêu với hạn từ ‘agapao’ và Phêrô trả lời với xác quyết: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” với hạn từ ‘phileo’. ‘Agapao’ là yêu mến theo lẽ tự nhiên khi chúng ta biểu tỏ tình cảm đối với người khác. Còn ‘Phileo’ nói về sự tương giao thân tình và thắm thiết giữa 2 người như những người bạn tri kỷ, suốt đời cùng nhau gắn bó.

Trong lần hỏi thứ 3, Chúa thay đổi và dùng từ ngữ ‘phileo’ và Phêrô đã trả lời cũng với hạn từ ấy. Thánh Gioan cho ta thấy, Chúa đã từ từ huấn luyện Phêrô, biến đổi ông, để ông không phải chỉ là người lãnh đạo theo phong thái xã hội bình thường, nhưng biến đổi để ông trở nên một người bạn nghĩa thiết, giúp Phêrô đi dần vào sự kết hiệp thâm sâu với Ngài.

Đó là điều kiện Chúa đặt ra cho Phêrô, cũng như cho các mục tử, những người lãnh đạo đàn chiên mà Chúa trao phó ngày hôm nay.

Trong câu kết của bài Tin mừng, Chúa nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”. Như vậy, để trở nên những con người theo sát gót chân Đức Kitô, trở nên những học trò và môn đệ của Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết tuân theo lời Ngài. Đồng thời Chúa cũng đặt ra điều kiện rất căn bản là phải thực hành tình yêu cách triệt để. Quả thật, tình yêu chính là phương thức để điều quản Giáo hội, không phải chỉ là ngày xưa, nhưng đó là nguyên tắc cho chính chúng ta ngày hôm nay. Nguyên tắc căn bản đó còn phải được áp dụng mãi mãi.

Kết luận

“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”. Phêrô đã khẳng khái trả lời trước mặt vị thượng tế. Bài đọc trong sách Công vụ Tông đồ hôm nay đã thuật lại giai thoại ấy. Phêrô đã vâng lời Đức Giêsu, đã thả lưới xuống bên phải mạn thuyền và phép lạ đã xảy ra. Cũng vậy, trong cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn được mời gọi lắng nghe tiếng Chúa và vâng nghe lời của Chúa. Đây là chìa khóa để giúp chúng ta tăng trưởng trong đời sống đức tin, đức tin đặt để nơi Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, đồng thời đức tin đó dẫn đưa chúng ta đến chân trời rộng mở của tình yêu. Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy mau mắn trả lời Chúa Giêsu như Thánh Phêrô năm xưa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

 

4. Sứ mạng truyền giáo

(Lm Jos.Vinc. Ngọc Biển)

Trước khi về trời Chúa Giêsu, đã truyền lệnh các Tông đồ hãy đi loan báo Tin Mừng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Lệnh truyền này mang tính cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, Truyền giáo chính là bản chất của Giáo Hội. Hay nói cách khác, Giáo Hội của Đức Giêsu phải truyền giáo. Bao lâu Giáo Hội không còn truyền giáo, thì bấy lâu Giáo Hội đánh mất căn tính của mình. Hình ảnh mẻ cá lạ với 153 con mà lưới không bị rách mà Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay thuật lại chính là một lời mời gọi ra đi để quy tụ muôn dân và hướng tới một Giáo Hội phổ quát.

Tuy nhiên, Giáo Hội mà Chúa Giêsu thiết lập và trao phó cho các Tông đồ chăm sóc, loan truyền phải là một Giáo Hội đi trên, sống với và hướng về tình yêu. Chính vì thế, trước khi trao cho Phêrô quyền lãnh đạo Giáo Hội, cũng như mặc khải cho ông về sứ mạng truyền giáo qua mẻ cá lạ, Chúa Giêsu đã trắc nghiệm Phêrô về lòng yêu mến của ông.

1. Con có yêu mến Thầy không?

Sau khi Phục sinh, Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho các Tông đồ trên biển hồ Tibêria và truyền lệnh cho các ông thả lưới bên phải mạn thuyền sau một đêm vất vả mà không được gì (x. Ga 21, 6). Họ đã nghe theo vị khách lạ xem ra có vẻ dày dạn về kinh nghiệm đánh bắt cá truyền bảo. Kết quả thật mỹ mãn. Đó là một mẻ lưới đầy cá. Khi thấy những sự kiện lạ như vậy, Gioan đã hô lên: “Chúa đó!”. Phải chăng vì lòng mến Chúa cách đặc biệt mà ông đã nhận ra Chúa trước anh em?. Quả thật, cũng vì lòng mến Chúa Giêsu tha thiết, nên Gioan cũng là người tin vào Chúa Phục sinh trước Phêrô khi cả hai cùng chạy ra một vào ngày thứ nhất trong tuần (x. Ga 20, 1-9).

Khi nghe Gioan nói: “Chúa đó!” các ông vào bờ và Đức Giêsu trực tiếp phục vụ các ông. Một bữa ăn đầy tình Thầy trò và huynh đệ giữa anh em.

Sau bữa ăn, chính là phần trao ban sứ vụ lãnh đạo cho Phêrô. Nhưng trước khi trao, Đức Giêsu cất tiếng hỏi vị Tông đồ trưởng tới ba lần: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21:15a). Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21:15b). Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21:15c). Chúa hỏi Phêrô tới ba lần như vậy là vì muốn phục hồi địa vị môn đệ của ông sau khi ông đã sa ngã qua ba lần vì trối Thầy.

Hơn nữa, Đức Giêsu muốn cho chính Phêrô hiểu rằng: đây là vai trò đặc biệt mà Chúa trao cho ông và cũng cho ông thấy rằng lòng mến là nền tảng căn bản, quan trọng phải có của người môn đệ. Quả thật: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7). Hay: “Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất” (1 Cr 13,13). Có lòng mến sẽ vượt qua mọi thử thách và ngay cả cái chết. Vì thế, Đức Giêsu nói tiếp với Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” (Ga 21,18).

Cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu loan báo cho Phêrô có nghĩa là: ông không còn làm chủ đời mình nữa, mà là một đời môn đệ đích thực. Ông phải trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu chịu đóng đinh. Bị kẻ khác thắt lưng còn có nghĩa là bị bắt, chịu trói và bị giết chết. Thật vậy, phải tin yêu hết lòng thì mới không xấu hổ và sẵn sàng loan báo về một Đức Giêsu trần trụi trên Thập giá. Điều này đã được chính Phêrô diễn tả khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41).

Phêrô đã xác tín mạnh mẽ và tin theo Đức Giêsu cách tuyệt đối. Chúa biết lòng ông, nên sau khi hỏi Phêrô đến ba lần “con có mến Thầy không?”, sau những lần trả lời đầy khiên tốn và yêu mến, Chúa đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội cho ông. Như thế: Mầu nhiệm phục sinh chấm dứt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu, thì đồng thời khai mở mầu nhiệm Giáo Hội.

2. Sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội

Hình ảnh mẻ cá lạ và có tới một 153 con mà lưới không bị rách, diễn tả mầu nhiệm Giáo Hội phổ quát.

Theo các nhà động vật học của Hylạp thời bấy giờ, trên thế giới có tất cả là 153 loại cá. Mẻ cá lạ này, Chúa mặc khải cho các ông thấy rằng: Công cuộc loan báo Tin Mừng dưới quyền lãnh đạo của Phêrô phải được các ông loan đi tới tận cùng trái đất, cho hết mọi người, để mọi người được ơn cứu độ.

Nếu hình ảnh 153 con cá tượng trưng cho sứ mạng của người môn đệ, thì hình ảnh chiếc lưới lành lặn không bị rách mặc dù cá nhiều đến như vậy là tượng trưng cho một Giáo Hội của Chúa luôn đứng vững trước mọi cạm bẫy của “ba thù”. Mặt khác, dù nhiều chủng loại, ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, thì vẫn là cộng đồng duy nhất trong một chiếc lưới của Chúa dưới vị lãnh đạo của Phêrô. Vẫn là một Chủ Chăn và một đoàn chiên duy nhất.

Khi truyền lệnh cho Phêrô thả lưới bên phải thuyền, ông đã vâng lời và kết quả đã thành công. Sự kiện này cho thấy, viễn tượng truyền giáo của Giáo Hội có thành công hay không nhờ vào việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa và trung thành với lời hứa của Ngài. Chính thánh nhân cũng đã quả quyết cách khẳng khái khi bị quan tòa tra hỏi: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Khi vâng lời trong lòng mến, các ngài đã “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41).

Đây cũng chính là nền tảng sứ mạng Tông đồ của chúng ta sau khi được Chúa gọi vào làm “vườn nho của Ngài”.

3. Sứ điệp cho chúng ta ngày hôm nay

Chúa đã trao phó cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài vì ông đã vâng lời, khiêm tốn, tin tưởng và yêu hết lòng. Chúa trao cho ông vì chính Ngài cũng tin tưởng và yêu mến ông tha thiết.

Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Gẫm lại lịch sử đời chúng ta: chúng ta cũng thấy có biết bao lần chúng ta sa ngã phạm tội, nhưng có khi không hề nói lên lời sám hối, hoặc sám hối hời hợt cho qua. Phải chăng lòng mến của chúng ta chưa đủ mạnh như Phêrô để một lần cho cả đời? Xin cho mỗi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho chúng ta sau những lần ngã quỵ vì yếu đuối. Để mỗi lần như vậy, chúng ta lại càng yêu mến Chúa nhiều hơn như Phêrô.

Hôm nay, Chúa cũng trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Hãy loan tin ấy tới tận cùng trái đất. Đây là trách nhiệm của mỗi chúng ta khi đã lãnh nhận và cảm nghiệm được tình yêu ấy trong cuộc đời. Cuộc đời làm chứng của người môn đệ là luôn gắn liền với Thập Giá và những hy sinh, vất vả, cô đơn, hiểu lầm,và ngay cả cái chết như Phêrô để làm chứng cho Thiên Chúa là Tình Yêu.

Hình ảnh 153 loài cá là hình ảnh một thế giới yêu thương, hiệp nhất và phổ quát. Như vậy, sứ mạng truyền giáo cũng đòi hỏi mỗi người chúng ta phải vượt ra khỏi chính mình để loại bỏ những bon chen, cố chấp, hẹp hòi, nghi kỵ và sợ sệt, để biết thích ứng với từng hoàn cảnh như văn hóa, truyền thống, thiếu thốn, bệnh tật trong khi loan báo Tin Mừng…Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta và các thừa sai của Chúa trên cách đồng truyền giáo bao la ngàn trùng. Để các ngài ra đi loan báo Tin Mừng Phục sinh đến tận cùng trái đất. Xin cũng cho chúng ta đón nhận tất cả mọi thử thách trước, trong và sau khi Loan báo Tin Mừng với tâm niệm rằng: vì lòng mến Chúa, xin cho con đón nhận tất cả, bởi vì tần số của tình yêu là yêu không giới hạn.

Nếu được như thế, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu dành cho Phêrô khi xưa: “hãy theo Thầy” và cùng Thầy lên đường…?

Đây chính là sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến cho các Tông đồ trong lần thứ 3 Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

 

5. Đức Giêsu hiện ra ở bờ hồ Tibêria

(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Tuy ngay từ đầu, TM IV được lưu truyền luôn luôn có ch. 21, các nhà chú giải cho rằng chương này chỉ là một phụ trương được thêm vào sau. Nhưng vì không có được những bằng cớ thật xác đáng về ngôn ngữ và văn phong để có thể khẳng định mạnh hơn, các tác giả hiện nay chấp nhận rằng chương 21 đã được một môn đệ thuộc trường phái Gioan (hoặc một môn đệ của người môn đệ Đức Giêsu yêu thương) thêm vào khi xuất bản quyển TM IV. Với lại có một loạt những chi tiết rõ ràng là các biểu tượng, khiến không dễ gì mà nói được rằng điều gì đã xảy ra thực sự.

Riêng ở đây, chúng ta chọn đọc theo phương pháp đồng đại. Như thế, theo đường tường thuật của tác giả thánh, Đấng Phục Sinh đã hiện ra hai lần giữa các môn đệ, chứng minh rằng Người là Đức Chúa hằng sống và đã được tôn vinh (20,19-21), bằng cách cho các ông thấy các vết thương. Lần hiện ra được kể trong bản văn chúng ta đọc hôm nay là lần thứ ba. Vào lúc tảng sáng, Đức Giêsu ở trên bờ Hồ Tibêria; các môn đệ đang ở trên thuyền để đánh cá. Các ông thấy Người, nhưng không nhận ra Người (21,4). Các ông im lặng. Đức Giêsu nói và hành động, còn các ông thì hành động theo như Người truyền. Ở đây không còn phải là ghi nhận sự thật là Người đã sống lại, nhưng là trải nghiệm một điều khác: khi các ông hành động theo lời Người, các ông đạt được những kết quả khả quan, và các ông thấy là Người vẫn tiếp tục ăn uống với các ông (21,1-14). Sau đó, Đức Giêsu đã “bổ nhiệm” Simôn Phêrô làm mục tử chăn dắt chiên của Người và loan báo con đường tương lai của ông (21,15-19).

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ (21,1-14):

a) Cảnh đánh cá (cc. 1-8),

b) Bữa ăn trên bờ biển (cc. 9-13),

c) Một nhận xét (14);

2) Đức Giêsu Phục Sinh nói với Phêrô (21,15-19):

a) Đức Giêsu phục quyền và giao nhiệm vụ cho Phêrô (cc. 15-17),

b) Đức Giêsu nói về số phận của Phêrô (cc. 18-19).

3.- Vài điểm chú giải

– Sau đó (1): Đến sau đoạn kết 20,30-31, công thức chuyển tiếp này không có giá trị về thời gian rõ ràng gì.

– tỏ mình (1): Đọng từ phanêroun được dùng 9 lần trong TM IV (còn trong chương 21: 2 lần trong c. 1 và 1 lần trong c. 14). Động từ này diễn tả một ý tưởng là có điều gì vượt lên khỏi bóng tối; đối với Ga, động từ này muốn nói đến một mạc khải từ trời cao ban cho trái đất.

– cho các môn đệ (1): Từ này nhắm đến những người đã chứng kiến Đức Giêsu hiện ra ở 20,19.26. Như thế, ta có thể cho rằng đây là Nhóm Mười Một (theo các TMNL). Bảy (hay năm) môn đệ sẽ được nêu tên ở c. 2.

– Ông Simôn Phêrô… (2): Con số các môn đệ có mặt là bảy ông. Tại ch. 21 này, chúng ta đang ở tại miền Galilê; miền này nhắc nhớ đến “Galilê của Dân ngoại”. Và bảy môn đệ là các thủ lãnh của cộng đoàn phát sinh từ Dân ngoại (x. Cv 6,1-6). Điểm mới ở đây là có những thủ lãnh đến từ Dân ngoại và những thủ lãnh thuộc Nhóm Mười Hai. Điểm này nhằm nêu bật sự hợp nhất của cộng đoàn.

– đêm ấy họ không bắt được gì cả (3): Động từ piazein (ở đây và c. 10) xuất hiện trong TM Ga 6 lần khi nói về việc bắt Đức Giêsu; trong thực tế, động từ này không mấy khi được dùng để nói về việc bắt thú vật hay bắt cá. Những người quen biết tập quán Paléttina cho biết là, thường thường, trên Hồ Galilê, người ta đánh cá ban đêm thì có kết quả tốt hơn là ban ngày; với lại cá bắt được ban đêm có thể bán được khi còn tươi vào lúc sáng sớm.

– thả lưới xuống bên phải mạn thuyền (6): Chi tiết lạ lùng này không có trong câu truyện song song của TM Lc (Lc 5). Bên phải là bên may mắn, bên tốt (x. Mt 25,33), nhưng ở đây hẳn là không có nghĩa này. Tác giả Ga muốn gợi ý là Đức Giêsu có một sự hiểu biết vượt quá tự nhiên và người môn đệ có một bổn phận luân lý tương ứng là vâng lời Người chính xác.

– Chúa đó (7): Danh hiệu này được dùng như một lời tuyên xưng Đức Giêsu Phục Sinh ở 20,18.25 và 28. Xem c. 12.

– Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần (7): Khó mà cho rằng Phêrô hoàn toàn trần truồng, vì như thế sẽ xúc phạm đến tính nhạy cảm của người Do-thái. “Ở trần” (gymnos) có thể có nghĩa là ăn mặc phong phanh. Chúng ta có thể hình dung ra hoàn cảnh sau: Lúc đó vì là buổi sáng, trời hơi lạnh, Phêrô khoác một tấm áo ngoài (ependytês) để làm việc. Vừa nghe biết là Đức Giêsu, ông liền thắt áo lại để nhảy xuống nước mà bơi vào, bởi vì động từ dyazônnymi (ở thì aorist là diezôsato) có nghĩa là “thắt [áo] quanh mình [bằng một dây lưng]”. Như thế ông thắt chặt áo lại để bơi dễ dàng.

– một trăm năm mươi ba con (11): Tác giả Ga thường dùng “khoảng/phỏng chừng” (hôs), thế mà ở đây ông lại cho một con số tròn. Rất có thể người ta đã đếm cá vì tò mò; nhưng con số này được ghi lại hẳn không chỉ vì muốn cho chính xác. Do đó, các nhà chú giải đã đoán là đây là một con số biểu tượng: (a) Thánh Giêrônimô cho rằng con số này lấy từ kiến thức về động vật học lúc đó (trên thế giới có 153 loại cá), để nói rằng công việc truyền giáo của các Kitô hữu sẽ đưa vào Hội Thánh mọi người hoặc ít ra mọi hạng người; (b) Thánh Âutinh cho rằng con số này tượng trưng cho sự hoàn hảo…; (c) Thánh Cyrillô Alexandria thì tách con số làm ba: số 150 chỉ toàn thể Dân ngoại, số 50 chỉ số sót của Israel, số 3 chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi…

Vấn nạn cho các giả thuyết này là: các độc giả của TM IV có hiểu được theo cách tinh tế như thế chăng. Nhưng dù theo giả thuyết nào, ý nghĩa phổ quát vẫn nổi bật. Ta có thể cho rằng ý nghĩa của con số 153 bắt gặp công thức “gom được đủ thứ cá” trong dụ ngôn về Nước Trời (x. Mt 13,47). Hội Thánh phải quy tụ vào trong lưới của mình tất cả các dân nước, như Người mục tử chân chính quy tụ vào đàn mình những con chiên phát xuất từ những ràn chiên khác với ràn chiên Israel (Ga 10,16). Cũng vậy, Con Người sẽ lôi kéo tất cả mọi người vào trong một tấm lưới cánh chung (x. 12,32; 6,44). Như thế, cần liên kết vào đề tài này các chi tiết về chiếc thuyền duy nhất và tấm lưới nguyên vẹn.

– Đó là lần thứ ba (14): Từ công thức này, ta suy ra là người viết biết chương trước. Nhưng trong ch. 20, ta thấy có ba cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh. Vậy hẳn là tác giả chỉ quan tâm đến các cuộc hiện ra với Nhóm Mười Một (không kể đến cuộc hiện ra với Maria Mácđala).

– anh có mến/thương Thầy không? (15.16.17)[1]: Hầu như tất cả các nhà chú giải đã cho rằng Đức Giêsu hỏi ba lần là để tha việc ba lần Phêrô chối Người. Nhưng nếu vậy, hẳn là đến lần thứ ba, mới có việc trao quyền chăn chiên, như để cho Phêrô hiểu là ông đã thực sự được tha thứ. Thế thì tại sao ở đây lại có ba lần trao “bài sai”? Vào thời xa xưa, những công thức pháp lý thường không được viết ra, nhưng được lặp lại ba lần trước người chứng (chẳng hạn trong luật hôn nhân Paléttina); khi đó thủ tục kết giao đã được hoàn tất đúng quy cách và có hiệu lực. Như vậy, ở đây Đức Giêsu lặp lại ba lần là để cho hiểu rằng Phêrô đã được chính thức và đúng thể thức trao nhiệm vụ chăn dắt tất cả đàn chiên của Người. Qua ba lần trực tiếp trao nhiệm vụ, Đức Giêsu cũng gián tiếp tha thứ cho Phêrô.

Tình yêu mà Đức Giêsu nói đến là agapê, một tình yêu quảng đại, tự hiến mình hy sinh (agapas me). Sau khi đã chối Đức Giêsu, Phêrô không dám so sánh agapêcủa ông đối với Đức Giêsu với agapê của các môn đệ khác, nhưng ông khẳng định tình thương của ông (philô se) là tình thương trìu mến (philia) như một người bạn (philos). Ông đã chứng tỏ tình thương trìu mến của ông đối với Đức Giêsu lớn hơn tình thương của các môn đệ khác, khi nhảy xuống nước và bơi vào bờ để đến với Đức Giêsu trước (c. 7), còn các môn đệ khác từ từ vào bờ bằng thuyền (c. 8).

– hãy chăm sóc… chăn dắt (15.16.17): “Chăm sóc” (boskein, cc. 15 và 17), “chăn dắt” (poimanein, c. 16). Bản LXX dùng cả hai động từ Hy-lạp này để dịch động từ Híp-ri râ‘âh (to feed; to pasture; to rule), nên ta có thể coi hai động từ này có cùng một ý nghĩa (Bản Neo Vulgata dịch cả hai trường bằng động từ La-tinh pascere). Tuy nhiên, cách tinh tế hơn, ta thấy boskein được sử dụng theo cả nghĩa chữ lẫn nghĩa bóng (Ed 34,2) để diễn tả việc “nuôi dưỡng thú vật”; còn poimanein có cả một vùng ý nghĩa bao quát hơn, gồm các công việc làm cho đàn vật như “hướng dẫn, bảo vệ và nuôi dưỡng”, cả nghĩa chữ (Lc 17,7) lẫn nghĩa bóng (Ed 34,10; Cv 20,28; Kh 7,17…), và cũng có thể có nghĩa là “điều khiển, cai quản”. Tổng hợp lại với nhau, hai động từ này diễn tả toàn thể công việc mục vụ.

– chiên (15.16.17): Ở c. 15, “các chiên” là arnia (“lambs”); ở cc. 16 và 17, “các chiên” là probata (“sheep”). Arnia là từ hiếm, trong TM IV chỉ được dùng ở chỗ này, nên từ tương ứng với arnia ở c. 17, chúng tôi đồng ý với R.E. Brown mà cho rằng, thay vì đọc là probata thì phải đọc là probatia, cũng là một từ hiếm (theo Codex Alexandrinus và Codex Vaticanus); còn probata (theo Codex Sinaiticus) có thể là một sửa chữa của người chép cho hài hòa với c. 16 và Ga 10. Lý do: nếu bản gốc là probata, không lẽ người chép nào đó lại sửa thành từ ngữ hiếm là probatia.

Tuy có những tác giả, như Brown, cho rằng các từ ngữ này có cùng một ý nghĩa như nhau để chỉ chung là “các con chiên”, chúng ta có thể cho rằng cần phân biệt ý nghĩa các từ vì có một (hoặc hai từ) lạ (là arnia và probatia). Kh 7,17 mô tả Con Chiên (arnion) như là Đấng chăn dắt (poimanei) và dẫn đưa (odêgêsei) đàn chiên như một mục tử. Arnia ở Ga 21,15 hẳn cũng có ý nghĩa biểu tượng này. Vậy từ ngữ này rất có thể nhắm đến các thủ lãnh của cọng đoàn Kitô hữu. Nói cách khác, ở c. 15, Đức Giêsu ủy thác cho Phêrô nhiệm vụ nuôi dưỡng các thủ lãnh (mục tử) của các chiên Người. Ở cc. 16 và 17 “các chiên” là probata (“sheep”) và probatia (“little sheep”). Khi đó, chúng ta sẽ có một danh sách đi xuống là “mục tử”, “các tín hữu”, và “các tân tòng”. Dù sao, nếu không chấp nhận probatia, chúng ta vẫn có thể hiểu probata theo nghĩa bao quát là “các tín hữu” (nói chung) và “các tân tòng”.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Trong Ga 21,19-31, tác giả muốn các Kitô hữu biết rằng bất cứ khi nào họ gặp nhau trong ngày của Chúa để cử hành Thánh Thể, Chúa Phục Sinh sẽ ở giữa họ. Trong bản văn hôm nay, Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ vào một ngày trong tuần. Bản văn thật sự có những ý nghĩa biểu tượng.

* Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ (1-14)

Theo đề nghị của Phêrô, bảy môn đệ đi đánh cá. “Bảy” là biểu tượng của sự hoàn thiện, sự đầy đủ, nên Phêrô và các tông đồ kia tượng trưng tất cả các môn đệ của Đức Kitô. Còn “biển”, đối với Israel, là biểu tượng của tất cả những sức mạnh thù nghịch với con người. Nhiệm vụ các ông là đi ra “biển” mà “đánh/bắt cá” người, tức kéo họ khỏi những hoàn cảnh giới hạn tự do yêu thương và sống hạnh phúc. Suốt đêm, các ông không bắt được gì cả, vì không được Chúa Phục Sinh hướng dẫn. Khi đêm tối tan biến thì cũng tan biến ước mong đánh được một mẻ cá lớn.

Ngay lúc các ông còn đang chìm trong thất bại, Đức Giêsu ở trên bờ gọi các ông: “Này các chú (paidia)”. Trong tư cách Đấng Phục Sinh, Người không bị chia cách khỏi các ông, nhưng vẫn liên kết với các ông với lòng thương mến, để ân cần săn sóc các ông. Khi nghe Người gọi, các môn đệ thú nhận là đã thất bại. Đức Giêsu cho các ông những chỉ dẫn chính xác và tiên báo một mẻ cá phong phú. Các ông đã vâng nghe Người, nên đã đạt được một kết quả hết sức dồi dào. Kinh nghiệm cho các môn đệ thấy rằng họ đạt được kết quả không nhờ những vất vả mệt nhọc của họ, nhưng nhờ nghe lời Đức Giêsu. Người môn đệ Đức Giêsu thương mến bây giờ nhận ra Chúa. Cũng như vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, tại mộ trống (20,2.8), bây giờ người môn đệ Đức Giêsu thương mến đã là người thứ nhất nhận biết Đức Giêsu với niềm tin tròn đầy. Người môn đệ này có trực giác bén nhạy và đã báo cho Phêrô biết khám phá của mình. Ông này không chờ đợi thêm, ông quên cả mẻ cá lớn, con thuyền và các môn đệ khác, ông nhảy xuống biển, để là người đầu tiên đến bên Đức Giêsu.

Đức Giêsu Phục Sinh không ở trên thuyền, mà lại ở trên bờ, còn các con thuyền nhắm Người mà đi vào. Ở đây, có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng nữa: Dù đang đứng trên bờ, Đức Giêsu đang ở trong vinh quang của Cha Người và cũng luôn luôn ở cùng chúng ta, mỗi ngày, cho đến tận thế. Đức tin cho các môn đệ được nên vững chắc là do Người tiếp tục trò chuyện với họ.

Đấng Phục Sinh chờ các môn đệ vào tới bờ, cũng có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng là đạt tới trời. Người đã có cá rồi (c. 9), đây là hoa trái của các hành vi của Người trong thế giới, cho dù công việc của Người phải được hoàn tất bởi những kẻ tin Người. Giống như bảy môn đệ, toàn thể cộng đoàn Kitô hữu được chờ đợi là mang theo cá với mình, tức hoa trái của việc tông đồ. Còn bánh thì Đức Giêsu luôn mang theo, đó là Thánh Thể, bánh mà Chúa Kitô Phục Sinh bẻ ra muốn tất cả chúng ta chia sẻ. Người mời tất cả các môn đệ ăn điểm tâm với Người và xin họ góp phần bằng số cá vừa đánh được (21,10.12).

Cũng như trong bữa ăn với số bánh được Đức Giêsu nhân lên cho đám đông, trong đó Hồ Tibêria được nhắc tới (6,1), ở đây Đức Giêsu cũng “cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy” (21,13). Chắc chắn, hơn bao giờ hết, bây giờ Đức Giêsu quả là “bánh ban sự sống” (6,35) cho các ông. Không một môn đệ nào hé một lời, bởi vì các ông đều biết rằng đó là Chúa. Các ông hoàn toàn sống dưới sự hiện diện và cho sự hiện diện của vị Chúa này, là Đấng đã sống lại, đã ngỏ lời với họ cách khả ái, Đấng vừa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ lùng và cho các ông được hiệp thông với Người và ban cho các ông sự sống viên mãn.

* Đức Giêsu Phục Sinh nói với Phêrô (15-19)

Sau khi ăn xong, Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn Phêrô. Lần cuối cùng hai vị nói chuyện với nhau là vào giờ từ biệt (13,36-38). Lúc ấy, Phêrô đã quay lại hỏi là Người đi đâu và đã đoan chắc với Người là sẵn sang hy sinh mạng sống vì Người. Đức Giêsu đã ba lần tiên báo rằng Phêrô sẽ chối Người ba lần, và chuyện đã xảy ra như thế (18,15-18.25-27). Bây giờ Người hỏi ông ba lần là có mến thương Người không, rồi trao phó ba lần nhiệm vụ làm mục tử chăn dắt đàn chiên của Người, là để chứng tỏ Người đã tha thứ cho Phêrô, và nhất là cho hiểu ông đã được chính thức trao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người.

Những câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho Phêrô và những câu trả lời ông thưa lại là một lối “chơi chữ” rất ý nghĩa trên các động từ. Trong tiếng Hy-lạp, động từ phileô diễn tả tình yêu thương giữa bạn bè, dịu dàng nhưng không bao trùm cả cuộc sống, còn động từ agapaô diễn tả tình yêu không giới hạn, không dè giữ, trọn vẹn và vô điều kiện.

Lần đầu, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “Simôn …, anh có mến Thầy (agapas me)”, nghĩa là yêu thương với tình yêu trọn vẹn và vô điều kiện không (Ga 21,15)? Nếu chưa trải nghiệm sự phản bội, hẳn là ông đáp ngay: “Con mến Thầy (agapô se)” vô điều kiện! Bây giờ, khi đã nếm cảm nỗi đau buồn vì thất trung, đã sống tấn bi kịch về sự yếu đuối của mình, ông chỉ dám khiêm tốn trả lời: “Thưa Thầy, con thương Thầy (philô se)”, nghĩa là “con thương Thầy bằng tình yêu con người nghèo hèn của con”. Đức Kitô lại hỏi: “Simôn, con có mến Thầy”, tức là yêu thương bằng tình yêu trọn vẹn mà Thầy mong muốn không? Phêrô lặp lại câu trả lời nói về tình yêu con người nghèo hèn của mình: “Kyrie, philô se”. Đến lần thứ ba, Đức Kitô chỉ hỏi: “Phileis me?”, “Anh có thương Thầy không?”. Simôn hiểu rằng Đức Giêsu bằng lòng với tình yêu nghèo hèn của ông, vì đó là thứ tình yêu duy nhất ông có thể bày tỏ, nhưng ông cũng buồn vì thấy Thầy đã phải nói với ông như thế. Thế là ông trả lời: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết rõ con thương Thầy (philô se)”. Có thể nói là Đức Giêsu đã thích ứng với Phêrô, hơn là Phêrô thích ứng với Người! Chính sự thích ứng này đã làm phát sinh niềm hy vọng và tin tưởng nơi Phêrô, sau khi ông đã phải đau khổ vì phản bội, để ông còn có thể bước theo Thầy (21,9).

Tại Caphácnaum, Simôn Phêrô đãtuyên xưng niềm tin và tình yêu đối với Đức Giêsu, nhưng rồi ông đã chối Thầy ba lần. Hôm nay, ông tái lập tương quan cơ bản với Đức Giêsu, và đồng thời với Thiên Chúa (x. Ga 14,15-24): chính vì thế, ông lại có thể được nhận làm môn đệ Đức Giêsu và đi theo Người cho đến chết để tôn vinh Thiên Chúa (x. Ga 21,18-19).

Trong tư cách là Người mục tử nhân lành, Đức Giêsu lo lắng cho đàn chiên của Người, vì bây giờ Người không hiện diện hữu hình ở giữa họ nữa. Bởi vì Người chăm sóc họ và muốn gìn giữ họ, Người ban Phêrô cho họ để ông làm mục tử dẫn dắt họ. Phêrô phải săn sóc họ, phải giữ cho họ đi trên đường ngay nẻo chính, phải điều khiển và hướng dẫn họ. Con đường đã là và vẫn là Đức Giêsu (14,6); sự sống chỉ đến nhờ kết hợp với Người. Nhiệm vụ của Phêrô là dẫn đưa họ đến với Người và giữ cho họ được hiệp thông với Người.

Bước đầu tiên để đi tới nhiệm vụ đó, là tình yêu của Phêrô đối với Người mục tử nhân lành. Điều cần ghi nhận là vị trí tối thượng của Phêrô được đặt trên tình yêu tối thượng của ông đối với Đức Giêsu, bởi vì Người chỉ giao nhiệm vụ chăn chiên sau khi đã hỏi Phêrô là có yêu thương Người hơn những môn đệ khác không. Nơi ông, tình yêu đối với Đức Giêsu càng sống động, thì bản thân ông càng mất tầm quan trọng, ông càng phải săn sóc những ai được giao phó cho ông, ông phải dẫn họ đến với Đức Giêsu và giữ cho họ kết hợp với Người. Đức Giêsu hỏi Phêrô ba lần là ông có yêu mến Người không. Phêrô không khẳng định mạnh để trả lời; ông nhắc lại rằng Đức Giêsu biết, và ông tuyên xưng chính tình yêu của ông. Lần thứ ba, ông buồn, vì ông nhớ lại chuyện chối Đức Giêsu ba lần. Nhưng Đức Giêsu đã tha thứ cho ông rồi. Bây giờ, khi ông đã trải nghiệm tối đa sự yếu đuối của bản thân, thì Đấng Phục Sinh giao phó nhiệm vụ mục tử cho ông. Lần thứ ba, ông trả lời thẳng thắn, ông không thể che đậy gì với Chúa, vì ở với Người, mọi chuyện được bảo đảm.

Vào giờ ly biệt, Phêrô đã khẳng định là sẽ theo Chúa. Đức Giêsu đã loại bỏ sự tự phụ này và báo trước: “Sau này, anh sẽ đi theo Thầy” (13,36). Phêrô sẽ chia sẻ số phận của Đức Giêsu, sẽ chết như Người một cái chết tàn bạo. Ông sẽ bị dẫn đến nơi ông không muốn. Ông phải chấp nhận điều mà kẻ khác áp đặt cho ông. Ta không chắc là phải chăng là khi nói như thế, Đức Giêsu nhắm đến cái chết thập giá. Nhưng vào lúc mà Phêrô không còn chọn con đường của mình nữa, thì ông đã ở trên đường của Đức Giêsu, Đấng đã nhận lấy cái chết thập giá. Do đó, Đức Giêsu bảo ông: “Hãy theo Thầy” (cc. 19.22). Dù thế nào, Đức Giêsu luôn luôn ở với Phêrô không những khi thành công, mà cả khi thất bại, cả khi ông bị người đời khước từ và giết chết (cc. 18.19).

+ Kết luận

Trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã chuẩn bị cho các môn đệ sống thời gian sau này, khi Người không còn hiện diện hữu hình giữa các ông nữa. Các lần Người hiện ra sau Phục Sinh cũng nhắm mục tiêu này. Các ông phải biết chắc chắn rằng Người đã chiến thắng trên sự chết và Người sẽ trở về với Thiên Chúa. Các ông phải tin vào Người là Đức Chúa và Thiên Chúa. Điều tác giả thực sự muốn chúng ta biết chắc, đó là các tông đồ đã trải nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, nhưng đồng thời, ngài cũng cung cấp một bài giáo lý cho các Kitô hữu thời ngài. Hôm nay, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang ở với chúng ta qua mọi thăng trầm của cuộc sống.

Tuy nhiên, nếu chỉ để nói về niềm tin vào Đức Giêsu, thì các chương 1-20 cũng đã đủ, hoặc chỉ cần nói thêm đến 21,14. Do đó, có thể nói bài tường thuật cuộc hiện ra này chỉ là dịp để đưa vào cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và Phêrô. Như thế, ở đây không còn là một vấn đề Kitô học nữa, mà là một vấn đề Giáo Hội học.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn ở gần bên các môn đệ, âu yếm dõi theo các hoạt động của họ, nhưng họ không cảm thấy được sự hiện diện này. Và Người giúp họ thắng vượt những thất bại, nếu họ vâng nghe lời Người chỉ dẫn. Đối với chúng ta cũng thế, Đức Giêsu Phục Sinh luôn chúc phúc cho công việc chúng ta làm và vẫn là nguồn ban sự sống cho chúng ta. Chúng ta phải trung thành với những nhiệm vụ được giao phó và bước theo Người trên đường Người đi.

2. Hình ảnh Đức Giêsu cầm lấy bánh trao cho các môn đệ nhắc lại cho các ông nhớ rằng Người chính là lương thực nuôi dưỡng các môn đệ. Hôm nay vì Người đã sống lại, Người đúng là lương thực thần linh, ban sự sống đời đời, giúp cho các môn đệ đủ sức tiến về quê hương vĩnh cửu.

3. Đức Kitô Phục Sinh tiếp tục hiện diện và hướng dẫn các môn đệ sống và làm việc bằng Lời của Người. Khi các cộng đoàn Kitô hữu đi theo các lời chỉ bảo của Người, họ sẽ thấy những kết quả thường phi thường, được bài Tin Mừng hôm nay tượng trưng bằng lượng cá lớn mà các môn đệ bắt được.

4. Qua hoạt cảnh Đức Giêsu Phục Sinh trao nhiệm vụ mục tử cho Phêrô, chúng ta hiểu: vị mục tử nhân loại cần nhớ rằng mình chỉ là người được giao phó nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của chính Đức Giêsu. Như thế, mục tử nhân loại cũng phải liên tục bước theo Đức Giêsu để có thể chu toàn sứ mạng được ký thác. Để luôn ở ngang tầm với sứ mạng, người mục tử cứ phải yêu mến Đức Giêsu hơn mọi người khác.

 

7. Chú giải của Noel Quesson

 

Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển hồ Ti-bê-ri-a, Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh”.

Công cuộc Phục sinh cần được thực hiện giữa đời thường. Các nhân chứng đầu tiên không phải là những siêu nhân. Họ lại hoạt động với nghề cũ. Họ tiếp tục đánh cá ở Biển hồ. Tất cả là bảy người, đều đã sống với Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu không hiện diện ở đó nữa. Chúng ta cần ghi nhận một chi tiết, Phêrô đóng vai chủ động khởi xướng. Đó là một biểu tượng đầy ý nghĩa.

Mọi người ra đi, lên thuyền nhưng đêm đó họ không bắt được gì cả.

Đánh cá vào ban đêm là một cách thông dụng. Đó là nét thực tế, mang tính lịch sử. Nhưng ở đây, ta cũng có thể nhận ra một ý hướng của người thuật chuyện: trong cảnh mù tối.. trong đêm khuya… họ đã mất giờ vô ích. Một mẻ lưới không bắt được con cá nào. Chúng ta cũng thường gặp như thế trước những lo lắng về gia đình, nghề nghiệp, xã hội, giáo hội. Đêm tối đời tôi là gì?

Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận đó chính là Đức Giêsu.

Bảy người đang sống trên “biển nổi sóng”, giữa cảnh mù tối. Đối với người Xê-mít, biển là nơi các thế lực ngầm, các lực lượng âm phủ, thù nghịch, thường gieo khiếp hãi. Còn Đức Giêsu đang đứng trên đất liền, trước ánh sáng của một ngày mới lên… nét tương phản cố ý để minh chứng rằng, kể từ nay Đức Giêsu ở một bến bờ khác? Người vừa mới trải qua một cuộc vượt biển và đang hiện diện ở phía bên kia, đang chờ đợi ta ở đó! Nhưng họ không nhận ra Người! Trên bến bờ đời đời.

Hôm nay, Ngài cũng luôn chờ đợi chúng ta như thế.

Đức Giêsu nói với các ông: “Này các chú, không ăn gì ư?”. Các ông trả lời: “Thưa không”. Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá”. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.

Đức Giêsu biết rõ, đêm tối của họ đầy thất vọng và nao núng. Người chia sẻ tình trạng khổ cực của họ. Người chủ động giúp đỡ họ… ngay lúc họ đang bối rối lo lắng. Còn tôi, tôi có thể nghe thấy gì, nếu tôi biết lắng nghe tiếng nói của Người vọng đến từ “bờ” bên kia?

Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó”. Vừa nghe nói “Chúa đó” ông Simon – Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.

Phêrô nhảy xuống biển. Ông bơi vội vã. Ta biết Phêrô là thế ông là một con người xung động. Nhưng, cũng như trong cảnh đến thăm mồ Chúa, tại Giêrusalem, Gioan vẫn là người phát hiện ra trước Phêrô. Ông sống “yêu thương”, nên ông đoán định theo trực giác. Nhận biết một người, chính là một công việc của tình yêu.

Do đó, đức tin luôn liên hệ với tình yêu. Đức Giêsu Phục sinh không biểu lộ mình ra với những kẻ thù nghịch, những đối phương. Người không có ý định khuất phục họ. Người không thích bá chủ, chiếm hữu và hiển thắng họ! Nếu bạn tìm kiếm Chúa với tình yêu, Người sẽ tỏ hiện ra với bạn, trong một cuộc gặp gỡ đầy tinh tế và chân thành. Bạn hãy kiếm tìm dung mạo Người, sự hiện diện của Người.

Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

Đây là một chi tiết rõ ràng, như chữ ký xác thực của một nhân chứng.

Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.

Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây! “

Đây cũng là một chi tiết nữa, rất khác thường, và do đó đầy tính biểu tượng. Chính. Đức Giêsu đã chuẩn bị một “bữa ‘ăn” cho họ. Không phải bữa ăn họ chờ đợi, do nỗ lực sửa soạn của họ. Đó là một bữa ăn đã được dọn sẵn! Họ được kêu mời cứ việc tham dự, bằng cách tăng cường những hải sản mà họ vừa mới đánh bắt được, theo lệnh truyền của Đức Giêsu. Thực ra, chính Đức Giêsu đang nuôi dưỡng họ.

Ta biết tầm quan trọng của “bữa ăn” trong những lần hiện ra sau biến cố Phục sinh: vào chiều tối Thứ Năm Thánh Đức Giêsu cũng đã “phục vụ” các bạn hữu của Ngài như thế. Ngày nay cũng vậy, đối với các Kitô hữu, việc bẻ bánh và chia bánh luôn là một dấu chỉ đặc biệt sự hiện diện của Chúa Phục sinh. Vâng, Đức Giêsu đang ở trên một bến bờ khác và chờ đợi chúng ta, để chia sẻ cho ta sự sống mới trong một mối hiệp thông mà bữa ăn Thánh Thể là biểu tượng.

Ông Simon – Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con.

Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.

Sau trực giác yêu thương của Gioan, con người chiêm niệm… bây giờ đến thái độ dấn thân của Phêrô, con người hoạt động. Đó là hai vai trò cần thiết để xây dựng Giáo hội, được coi như “tấm lưới” không bị rách. Cũng như trong đoạn văn diễn tả “chiếc áo của Đức Giêsu không bị xé rách” (Ga 19,24). Ở đây ta gặp lại sự ám chỉ Giáo hội cần phải được giữ gìn khỏi mọi ly giáo và chia rẽ.

Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn”. Không ai trong các môn đệ dám hỏi: “ông là ai”, vì các ông biết rằng đó là Chúa.

Nhận xét đơn sơ trên đây giúp ta bước sâu vào “mầu nhiệm”. Cuộc Phục sinh đã khiến Đức Giêsu, người bạn thân và kẻ đồng hành với họ hôm qua Đức Giêsu Nadarét sống trong một trạng thái hoàn toàn khác… Rõ ràng đúng là Người, nhưng đồng thời không phải như người hôm qua. Người đã trở nên “O kiirios, Đức Chúa!”. Và trong trường hợp này, từ đó mang một ý nghĩa mạnh nhất. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng!

Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông, rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ sau khi chỗi dậy từ cõi chết.

Đây là bữa ăn thực sự… đồng thời, cũng là bữa ăn mầu nhiệm.

Chúng ta hãy nhớ lại diễn tả dài của Đức Giêsu về Bánh ban sự sống, chiếm gần hết chương sáu Tin Mừng theo thánh Gioan, sau khi Chúa dùng “năm chiếc bách lúa mạch và hai con cá nhỏ”, từ trong túi ăn của một cậu bé trên bờ hồ Tibêriát, để biến hoá ra nhiều…

Vâng, hiện nay Đức Giêsu đang ở “trên bến bờ khác”, trên một vùng đất khác, để trao ban cho ta “lương thực từ trời ” Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6,33). “Tôi là Bánh hằng sống… Thịt Tôi thật là của ăn… Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời….” (Ga 6,51-55-58).

Chúng ta cũng nên nhớ rằng, vào thời gian mà thánh Gioan viết trình thuật Tin Mừng trên đây, các Kitô hữu thường dùng hình ảnh con cá làm biểu tượng cho Đức Giêsu. Thực vậy, từ “con cá” (tiếng HyLạp là iktus) gồm năm chữ đầu các từ định nghĩa Đức Giêsu:

Lèsous Kristos Théou Unios Sôter

Giêsu Kitô Thiên Chúa Con Đấng cứu độ

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Trong cuộc đối thoại trên bãi biển, đã ba lần vang lên những lời hỏi thừa thế, Đức Giêsu biến đổi anh thuyền chài đó trở thành người mục tử. Người thông truyền cho Phêrô quyền điều khiển Giáo hội. Đừng quên rằng, vị Mục tử duy nhất là chính Đức Giêsu. “Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên” (Ga 10,11). Giờ đây Đức Giêsu phải ra đi.. Người. không còn hiện diện “bằng xương, bằng thịt” nữa. Người trao cho Phêrô trách vụ phải tiếp tục sứ vụ của Người trên thế giới và trong lịch sử. Nhưng các chiên vẫn là chiên của Đức Giêsu: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Lần thứ hai… rồi lần thứ ba, Đức Giêsu lại hỏi: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”.

Ông Phêrô buồn, vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?”. Ông đáp: Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”.

Bị hạch hỏi tới ba lần, Phêrô cảm thấy đau xót khi liên tưởng tới ba lần ông chối Thầy. Đó là thái độ cực kỳ tế nhị của Đức Giêsu. Người không hề nhắc lại với Phêrô về tội lỗi của ông! Người chỉ yêu cầu ông ba “lần biểu lộ tình yêu! “Anh có mến Thầy không?”: Câu hỏi đó, ngày nay đức Giêsu cũng đang đặt ra cho chính tôi. Trong thinh lặng, tôi lắng nghe câu hỏi trên: “‘Này anh X… anh có yêu Thầy không?”. Tôi hãy thay tên X bằng tên riêng của tôi.

Tôi sẽ trả lời ra sao? Tôi không thể dựa dẫm vào câu trả lời của kẻ khác. Chính tôi đang được để ý và hỏi han….

Như thế, người đã phạm tội nặng nhất, kẻ đã trói Đức Giêsu vào ngày Người bị kết án và chịu khổ hình (thật là một tội khủng khiếp!) hoàn toàn được phục hồi trong tương quan thân mật và yêu thương. Và Đức Giêsu lại uỷ thác cho con người tội lỗi đó, trách nhiệm trọng đại nhất trong toàn thể lịch sử nhân loại. Oi, tình yêu thật là quan trọng! Tình yêu phải trở nên khuôn thước cho hành động. Quyền bính trong Giáo hội, tác vụ trong Giáo hội, là một phục vụ, một tình yêu: cần phải phục vụ yêu thương anh em mình (Mc 9,35; Ga 13,4-16)… nhưng trong chính tác động đó, cũng là phục vụ yêu thương Đức Giêsu… Đó là một trong những nguồn gốc mầu nhiệm của đời độc thân tận hiến.

Thật Thầy bảo thật cho anh biết: “Lúc còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy”.

Anh chị em, chúng ta hãy suy niệm dụ ngôn nhỏ bé cuối cùng của Đức Giêsu: Về tuổi trẻ như biểu tượng của tự do và hoạt động (“Anh đi đâu tuỳ ý”)… và tuổi già như biểu tượng của sự gò bó và thụ động (“một người khác sẽ thắt lưng cho anh”), nghĩa là sự từ bỏ triệt để của tuổi già đầy yếu đuối khiến ta không thể tự mình ăn mặc được nữa)… Thái độ thụ động, đành phải chấp nhận này, cũng là cách thế thuận theo của Đức Giêsu trên thập giá. ” Đó là hoạt động cuối cùng của con người khi chỉ còn biết phó mình trong bàn tay của một Đấng khác: đó chính là tác động yêu thương. Thái độ này không làm giảm thiểu hay làm