Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 3 Mùa Chay Năm C
Lc 13,1-9
1. Hãy trở về với tình thương của Thiên Chúa
Hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta: “Hãy sám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô” (Lc 13, 3).
Người ta đến và kể cho Đức Giêsu nghe câu chuyện thương tâm mới xảy ra tại Giêrusalem: quan tổng trấn Philatô ra lệnh tàn sát một nhóm người ngay tại Giêrusalem, khiến máu của họ hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Thuật lại biến cố này, họ muốn Đức Giêsu vì tình đồng hương mà đồng tình với họ để phản đối tổng trấn Philatô và đế quốc Rôma. Đồng thời, người Do Thái cũng cho thấy những người bị giết kia là những người tội lỗi nên bị Thiên Chúa trừng phạt. Còn họ được bình an vô sự là vì họ công chính tốt lành trước mặc Giavê. Chúa đã chỉnh đốn lại quan niệm sai lạc đó. Người mời gọi họ thay đổi cái nhìn. Đừng nghĩ những người bị giết kia là người tội lỗi nhất nhưng trước những biến cố xảy ra hãy nghĩ về bản thân mình trước. Vì trước mặt Chúa, mọi người đều là người tội lỗi. Do đó cần phải nhận ra tội lỗi, thiếu sót của mình và sám hối.
Phải chăng chúng ta dễ có cái nhìn kết án người khác giống như những người Do Thái hôm nay, khi chúng ta nghĩ rằng: ta giàu sang là do Chúa thưởng cho người công chính, đạo đức còn những người nghèo khổ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Lắm khi chúng ta nghe người khác nói: Chúa phạt nó hay ông Trời có mắt mà…Trước mọi biến cố của cuộc đời, Chúa muốn chúng ta phải có thái độ đúng đắn hơn. Cần có cái nhìn đức tin và lòng khiêm nhường trước những sự kiện để có thể nhận ra thánh ý Thiên Chúa dành cho mình. Đức tin luôn mời gọi chúng ta nhìn vào những thất bại đổ vỡ cho một khởi đầu mới. Đức tin mang lại cho chúng ta đôi mắt để nhìn xuyên qua tăm tối và thấy được ánh sáng của niềm hy vọng.
Ngay những trang đầu của sách thánh, Thiên Chúa đã dẫn đưa chúng ta vào cái nhìn hy vọng ấy. Sự sa ngã của ông bà nguyên tổ đã không phá vỡ chương trình của Thiên Chúa, trái lại đã trở thành khởi đầu của một công cuộc đổi mới kỳ diệu hơn. Giáo hội đã không ngừng cảm tạ Chúa vì không những Ngài đã tác tạo con người một cách diệu kỳ mà còn tái tạo con người một cách diệu kỳ hơn. Toàn bộ lịch sử cứu rỗi là một chuỗi những vấp ngã và chỗi dậy của con người đan xen với nhau. Tuyệt đỉnh của cuộc tái tạo không ngừng ấy chính là cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.
Ta dễ dàng xét đoán anh em và lên án người khác là vì ta không biết nhìn vào bản thân. Có nhìn lại chính mình, ta mới nhận ra lỗi lầm của mình, và thay đổi cái nhìn. Một trong những sứ điệp nền tảng của Kitô giáo được chứa đựng trong lời kêu gọi của Đức Giêsu: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Sám hối là chiều kích nền tảng của đời sống đức tin. Có nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới nhận được ơn cứu độ và tình thương của Chúa. Có biết mình hay vấp ngã, con người mới dễ cảm thông với anh em. Như vậy, mến Chúa yêu người chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng của sám hối mà thôi.
Lòng sám hối càng sâu sắc và tinh thần khiêm tốn càng cao độ, thì lòng mến đối với Thiên Chúa mới chân thành và tình yêu đối với tha nhân mới thiết thực. Viên đá kiến cố nhất cho một tòa nhà kiến trúc là viên đá đặt thấp nhất dưới chân nền. Đức Giêsu lên án gắt gao thái độ của những người biệt phái. Họ có tất cả mọi nhân đức, nhưng chính vì thiếu lòng khiêm nhường sám hối mà toà nhà đạo đức của họ đối với Chúa là giả tạo và họ cũng không hề biết thế nào là cảm thông, tha thứ và yêu thương. Người tín hữu Kitô được mời gọi nhìn lại bản thân hàng ngày, nhất là trong mỗi thánh lễ, để từ đó mở rộng tâm hồn đón nhận tình yêu của Chúa, và cảm thông tha thứ cho anh em.
Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nũa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. “Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay”. Tục ngữ Pháp có câu: “Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được” (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là quá trễ.
Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không còn kịp nữa. Hằng ngày, báo chí, truyền hình, radio, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, động đất, hỏa hoạn,…Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình không sống trong sạch, tốt lành; để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác; để không lo hoán cải, đổi mới.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối…trước khi ra trước mặt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đàng khác, có phải bấy lâu nay, chúng ta sống mà ít nhìn lại bản thân mình.
Chúng ta đã trải qua biết bao nhiêu mùa chay với lối suy nghĩ như người ta phạm tội nên cần ăn năn sám hối còn tôi, tôi tuân giữ hết mọi điều, sống tốt lành, thánh thiện, đạo đức thì cần chi đến sám hối, cần chi đến ăn năn. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa. Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, vì thế lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: “Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã”. Nếu thực sự chúng ta đang sống trong lối suy nghĩ như thế hãy để tâm suy nghĩ dụ ngôn cây vả của Đức Giêsu. Hình ảnh cây vả cũng là hình ảnh của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Cuộc đời chúng ta không ngừng được chủ vườn là Cha trên trời săn sóc với biết bao ân huệ của Người. Chúng ta lãnh nhận một cách nhưng không những ân huệ ấy thì đòi chúng ta cũng phải sinh hoa trái bằng cách cho đi cách nhưng không như vậy. Vì thế, phải coi chừng kẻo chúng ta đang là những cây vả không sinh hoa trái như cây vả của dụ ngôn. Những ân huệ của Thiên Chúa ở trong chúng ta cần phải sinh hoa quả là lòng biết ơn, yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, trung thành với việc bổn phận mà Thiên Chúa giao phó cho mình. Hãy sinh hoa lợi với nén bạc mà Chúa trao cho mình. Hãy nghe lời Chúa dạy hôm nay mà ăn năn sám hối. Người luôn luôn chờ chúng ta. Người cho chúng ta có thời giờ hoán cải và làm phát sinh hoa trái. Nhưng thời hạn ấy rất cấp bách. Chúng ta cần phải hoán cải ngay hôm nay khi Chúa còn gia hạn cho chúng ta.
Mùa chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta. Lời kêu gọi sám hối không chỉ dành cho những người tội lỗi nhưng dành cho tất cả mọi người. Lời kêu gọi sám hối hôm nay, không phải chỉ là lời kêu gọi trở về từ tội lỗi, từ điều xấu nhưng là một lời kêu gọi phải làm điều lành, điều tốt như một bổn phận. Phải trở nên tốt hơn mỗi ngày vì kẻ nào biết làm điều tốt mà không làm thì mắc tội! Hãy biết sám hối về những thiếu sót vì chúng ta đã không làm những điều tốt lành đẹp lòng Thiên Chúa.
Mùa Chay mời gọi chúng ta sám hối. Tuy nhiên, sám hối không chỉ đòi ta nỗ lực diệt trừ tội lỗi, nhưng điều quan trọng là trở về cùng Thiên Chúa, để nhận ra tình yêu thương vô biên của Ngài trên cuộc đời mình, từ đó, ta định hướng lại toàn bộ cuộc sống, chỉnh đốn lại những hướng sai lạc đang làm lệch lạc cuộc sống tâm hồn và ơn gọi của mình. Sám hối còn là ơn Chúa ban cho những tâm hồn mong mỏi được giải phóng khỏi tội lỗi để đón nhận ơn cứu độ.
2. Trở về với Đấng Yêu Thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa đã biết nỗi khổ cực của dân Do Thái bên Aicập, Ngài đã nghe tiếng họ kêu than (Xh.3, 7), và Ngài muốn giải phóng họ khỏi cảnh khổ cực để đưa họ về nơi hạnh phúc. Thiên Chúa không ở xa con người, Ngài ở gần con người, Ngài nghe tiếng con người cầu khẩn Ngài, Ngài rung động trước nỗi khổ cực của con người. “Lạy Cha chúng con ở trên trời” là câu muốn diễn tả Thiên Chúa là Đấng siêu việt, chứ không muốn nói Thiên Chúa ở trên khoảng không trên trời xa thẳm và không nghe được tiếng con người cầu xin. Thiên Chúa luôn ở với con người (Ga.14, 23.16), Ngài làm con người thành đền thờ của Ngài (1Cor.3, 16-17). Thiên Chúa ở gần tôi, Thiên Chúa biết tôi hơn cả chính tôi, Ngài quan tâm đến tôi hơn cả chính tôi (Tv.139, 1-6). Thiên Chúa luôn yêu thương tôi.
Thiên Chúa gọi Môsê và sai ông đi giải phóng dân Do Thái khỏi Aicập. Môsê là người rất đặc biệt. Ông đã gắn bó với dân tộc mình, cho dù ông đang sống trong hoàng cung với những điều kiện thuận lợi để có một đời sống vật chất êm ấm nhưng ông đã bênh người Do Thái mà giết một người Aicập. Việc bại lộ nên ông phải bỏ hoàng cung để trốn chạy ra ẩn cư nơi hoang địa. Giờ đây Thiên Chúa gọi ông, Ngài chọn ông và sai ông trở lại Aicập để đưa dân Do Thái ra khỏi đó. Môsê được gọi vì dân tộc Do Thái. Không thể chối cãi rằng Thiên Chúa yêu thương Môsê, Ngài đã can thiệp vào đời Môsê để cứu ông khỏi chết trên giòng sông Nil, Ngài đã giải thoát ông khỏi tay Pharaô trong biến cố ông giết người Aicập, và bây giờ Ngài ưu ái chọn ông làm người thực hiện ý định của Ngài; tuy nhiên người ta cũng thấy rõ, chính vì dân tộc Do Thái, để giải phóng dân Do Thái mà Môsê đã được gọi. Sứ mạng được trao cho cá nhân, để phục vụ cộng đoàn, để phục vụ con người.
Thiên Chúa yêu thương dân như vậy, nhưng dân Do Thái đã nổi loạn không tuân phục Thiên Chúa. Bao nhiêu điềm thiêng dấu lạ Thiên Chúa đã làm cho dân như mười tai ương bên Aicập, đi qua biển đỏ ráo chân, đập đá lấy nước cho dân uống, chim cút cho dân ăn, manna hằng ngày cho dân, nhưng họ vẫn không tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Họ đã không được vào đất hứa vì thái độ phản loạn của họ.
Thánh Phaolô cho rằng con người ngày nay có lịch sử dân Do Thái để làm gương, để biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa (1Cor.10, 6.10-12). Không phải con người ngày nay khá hơn con người ngày xưa, nhưng điều đã xảy ra cho dân tộc Do Thái ngày xưa hôm nay vẫn được lập lại cho mỗi con người. Con người hôm nay cũng phải sống thuận thảo với Thiên Chúa, phải tin tưởng và phó thác nơi Ngài. Hạnh phúc đích thực mà con người mọi thời đại phải cố thực hiện, là hạnh phúc mỗi ngày và từng ngày, từng giây phút. Hạnh phúc thực tùy thuộc thái độ và chọn lựa của mỗi con người.
Đức Giêsu cũng nói với con người thời đại của Ngài khi thấy những tai họa xảy tới cho người thời đó. Những thiên tai hay tai họa cũng có thể là những sứ điệp Thiên Chúa gởi tới cho con người. Đừng tưởng rằng những người bị tai họa vì họ tội lỗi hơn người đang sống không bị tai họa, “nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Đức Giêsu khi khởi đầu sứ mạng, Ngài đã loan báo: “hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc.1, 14). Sám hối là điều rất cần thiết, nên Đức Giêsu đã lập đi lập lại nhiều lần.
Sám hối, là thái độ trở lại với Thiên Chúa và với con người khi đã nhận biết sự thật về chính mình, khi thấy mình đã không đi đúng đường, khi nhận ra mình đã lỗi lầm phạm tội. Tôi là ai, tôi đã làm gì, tôi có sống theo lời mời gọi của Thiên Chúa đối với tôi không, tôi có cố gắng vươn lên thành người thành toàn như Thiên Chúa muốn không, hay tôi đã xúc phạm đến tha nhân và Thiên Chúa? Không có sự nhận thức đúng đắn về chính mình, không thể có sám hối thật sự.
Tôi có biết Thiên Chúa yêu thương tôi vô cùng không? Tôi có đáp trả tình yêu của Ngài không? Tình yêu đáp trả tình yêu. Nếu tôi không đáp trả tình yêu của Ngài, tôi đáng tội chết! Tuy nhiên Thiên Chúa không xử tôi chết, nhưng nếu tôi không ở trong tình yêu của Ngài, tôi sẽ chết khô như cây mà rễ nó không hút nước và chất bổ dưỡng để nuôi cây. Tôi không tựa vào Thiên Chúa và không ở trong Ngài thì tôi tự hủy hoại tôi, tôi không thể sống hạnh phúc được.
Tôi có cố gắng phát triển tài năng và trưởng thành đến độ như Thiên Chúa ao ước về tôi không? Thiên Chúa kỳ vọng nơi tôi, tôi có làm Ngài thất vọng không? Tôi có sống hạnh phúc như Thiên Chúa muốn không? Tôi có tin rằng Ngài thương tôi, và sẵn sàng làm tất cả cho tôi không? Nén vàng nén bạc tài năng Thiên Chúa ban, tôi có sinh lợi không? Thiên Chúa đã gọi Môsê và đã chờ đợi ông đáp trả, chắc chắn Thiên Chúa cũng có chương trình về tôi, Ngài cũng kỳ vọng nơi tôi, và Ngài mong ước tôi sẽ đáp trả chương trình của Ngài có nơi tôi. Tôi có phát triển con người của tôi, để có thể thực hiện sứ mạng Thiên Chúa trao cho tôi không?
Thái độ của tôi như thế nào đối với bạc tiền danh vọng tình duyên? Người đời cho rằng tiền bạc giải quyết tất cả, “có tiền mua tiên cũng được”, và người ta tìm mọi cách để kiếm cho được thật nhiều tiền, ngay cả đến độ xúc phạm con người, bỏ cả người thân là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Tiền bạc chi phối tất cả đời sống của những người này, đóng lòng họ, ngăn cản họ đến với người khác. Tôi có cách cư xử giống như những người đó không? Thiên Chúa và tha nhân có chỗ đứng nào nơi tôi? Thiên Chúa có chỗ đứng tuyệt đối nơi đời sống và chọn lựa của tôi không?
Thiên Chúa vẫn đang chờ mong tôi trở lại với Ngài, như người cha tựa cửa mong người con hoang trở về, Thiên Chúa cũng đang chờ đợi tôi sám hối quay về với Ngài. Ngài vẫn đang ban Thánh Thần cho tôi, vẫn đang thúc giục tôi trở về với Ngài. Hãy trở về với Thiên Chúa, để được hạnh phúc với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Xin Thiên Chúa giúp con trở về với Thiên Chúa là Cha nhân từ.
3. Sám hối
Khi nói đến hai từ “sám hối” chắc chắn có nhiều người tự hỏi: Sám hối là gì? Tôi là người đạo đức, siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ, không ăn trộm ăn cắp… vậy tại sao tôi phải sám hối? Thật ra, Sám hối là thay đổi hướng đi, là phản tỉnh lại mình, thay đổi cái nhìn, cách nghĩ, là ý thức thân phận mỏng giòn của mình, để đổi mới đời sống cho phù hợp với Tin Mừng. Để làm được điều này, tôi thiết tưởng mỗi người phải nhận thấy được “thông điệp” mà Thiên Chúa muốn gởi đến chúng ta qua:
1. Tha nhân
Theo quan niệm nhân quả, người ta thường gán ghép cho những người khi gặp các biến cố: vui buồn, bệnh tật, chết chóc hay là những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc sống là do nghiệp chướng họ làm. Cũng tương tự thế, Có biết bao lần chúng ta đã nói hay đã nghe những cách giải thích như: Trời phạt, Chúa phạt hay là ông trời có mắt. Từ đó làm chúng ta có cái nhìn không đúng về người khác, đồng thời chúng ta tự tạo một mối an tâm cho chúng ta là được Chúa ưu đãi mình hơn kẻ khác.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã sửa lại quan niệm sai lầm ấy. Theo Ngài, tất cả mọi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa, đều cần phải nhìn ra tội lỗi của mình và sám hối. Vì “Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không; chẳng ai có lương tri, chẳng ai tìm kiếm Thiên Chúa” (Tv 14,1-3). Do đó, trước mặt Chúa, đừng ai tự hào mình công chính hơn người khác “vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14b). Đồng thời không nên phán đoán về giá trị đạo đức của người khác, nhất là không bao giờ kết án người khác, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán mà thôi. “Đừng xét đoán để khỏi bị kết án” (Mt 7,1).
Thật ra, có biết bao người hiền lành, thánh thiện bị Chúa thử thách và thánh hóa bằng nghịch cảnh, bằng những tai ương dồn dập. Vì “Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân”. Thật vậy, Chúa thương ai nhiều thì thường thử thách người đó nhiều bằng đau khổ. Do đó, không thể cứ thấy ai gặp hoạn nạn là ta nghĩ họ vì tội lỗi nên bị Chúa phạt. Đó là một quan niệm sai lầm. Nhưng quan niệm này vẫn còn ăn sâu vào mỗi người chúng ta. Thật vậy, khi đứng trước những tai ương sự dữ, chết chóc, chúng ta dễ có khuynh hướng xét đoán họ, dễ có cái nhìn soi mói, thiếu cảm thông.
Đứng trước quan niệm sai lầm của dân Do thái, và đôi khi là của mỗi ngừơi chúng ta hôm nay, Chúa Giêsu đã bác bỏ quan niệm này. Ngài chỉ cho ta thấy rằng: hết thảy chúng ta đều là tội nhân, đều phải chịu sự phán xét của thiên Chúa, cho nên phải mau mau sám hối, để cải thiện đời sống: “Nếu các ngươi không ăn năn sám hối, thì các ngươi sẽ chết như vậy” (Lc 13,5).
2. Bản thân
Trong các thông điệp mùa chay hàng năm, Đức Thánh Cha luôn mời gọi chúng ta hãy thay đổi cách suy nghĩ, và nhìn nhận thân phận yếu hèn của mình, để canh tân đời sống. Bởi vì, nhân loại hôm nay như đang mất đi cảm thức về tội, họ làm tội, nhưng không còn ý thức về tội. Đó là một điều nguy hại và làm cho con người ngày càng cách xa Thiên Chúa, mà chỉ sống trong ảo tưởng. Vì thế, họ cho mình là thánh thiện, và tự đề cao chính mình.
Như A. Adler đã nói: “Sự cao cả của con người bắt đầu khi con người biết nhìn nhận mình đúng như thực trạng của mình”. Hơn nữa, để thực thi lời mời gọi hoán cải của Chúa và Hội thánh, chúng ta cần phải kiểm điểm lại chính mình, khiêm tốn nhìn nhận mình là tội nhân và cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa.
Ngài muốn chúng ta tự xét mình và nhận ra lỗi của bản thân mình hơn là xét lỗi và thấy lỗi của người khác. Thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi mình chỉ khiến ta phát sinh lòng kiêu ngạo, tự mãn, khinh người. Còn nhận ra tội lỗi hay yếu đuối của mình, sẽ giúp ta khiêm nhường, nhất là cảm thông được những yếu đuối và tội lỗi của người khác. Nếu vì những yếu đuối hay vì một số tội lỗi ta đã phạm mà ta trở nên khiêm nhường và thông cảm với người khác hơn, thì những yếu đuối hay tội lỗi ấy đúng là những tội lỗi hồng phúc. Như thánh nữ Catarina thành Sienna đã nói “Phạm tội là con người, nhưng ngoan cố trong tội là ma quỷ” Vậy, nhìn mình , biết mình để mà ăn năn sám hối thật là điều cần kiếp mà mỗi người phải làm trong mùa chay này.
3. Biến cố & thời gian
Sám hối là lời đầu tiên mà Gioan đã rao giảng cho dân Do Thái, sám hối cũng được Chúa Giêsu rao giảng đầu tiên khi Ngài bắt đầu sứ mệnh của mình: “Anh em hãy sám hối vì nước trời đã gần đến”. Ngày nay, Giáo hội cũng rao giảng sự sám hối cho dân của Thiên Chúa. Hôm nay, để quảng diễn cho sự cần kíp phải ăn năn sám hối, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn cây vả để nói lên điều này. Hình ảnh cây vả trong bài Tin mừng hôm nay, giúp tôi liên tưởng đến bản thân mỗi người chúng ta.
Cây vả được người chủ vườn trồng, những ước mong nó sẽ sinh nhiều trái ngọt. Tuy nhiên, đã nhiều năm, ông chủ chờ đợi nó mà nó vẫn cứ trơ trơ, chẳng chịu sinh một trái nào. Vì thế, ông chủ buồn lắm, và quyết định chặt nó đi cho đỡ tốn đất, thế nhưng, người làm vườn đã nài xin cho cây vả một án treo! Thử xem nay mai, nếu không ra trái, thì hãy tính sổ nó.
Cuộc sống của mỗi người còn quý hơn cây vả. Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của Ngài. Ngài cho ta được làm con của Chúa, và được chăm sóc trong vườn ươm của Giáo hội. Và cũng vì tình yêu, Ngài đã lấy chính thịt máu Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Nhằm cho chúng ta trổ sinh hoa trái thơm lành như lòng mong đợi. Thế nhưng mỗi người chúng ta đã làm gì để đáp lại niềm mong đợi của Chúa?
Mùa chay là dịp thuận tiện giúp chúng ta ăn năn sám hối, mà sám hối luôn là vấn đề của thời gian, con người cần thời gian để mà hoán cải và Thiên Chúa cũng cần thời gian để chờ đợi, Ngài không bỏ cuộc, Ngài khoan hồng, bao dung với con người. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta như ông chủ chờ đợi cây vả, ông ta chờ nó cho ra trái thế nào thì Thiên Chúa cũng chờ đợi chúng ta quay về với tình yêu của Ngài như vậy.
4. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
MAY QUÁ, MÌNH THOÁT NẠN! HAY MÌNH XỨNG ĐÁNG
Có thể nói một trong những đặc tính của thời đại hôm nay đó là tính thời sự. Nhờ phương tiện thông tin ngày càng hiện đại nên tin tức đó đây tức thời được cập nhật qua các phương tiện nghe nhìn. Chỉ ngồi trước màn ảnh truyền hình một lát thì ta có thể biết khá tường tận nhiều sự việc vừa xảy ra trên thế giới. Chịu khó thống kê một chút, thì chúng ta có thể kết luận rằng nhóm “hung tin” hình như đang chiếm thế thượng phong về tần suất được tường thuật, chẳng hạn như: chiến tranh, dịch bệnh, động đất, sống thần, lũ lụt, khủng bố, hỏa hoạn, bão tuyết…
Trước những tai ương hoạn nạn thì có những phản ứng khác nhau. Có người thì điềm nhiên như sự xảy ra là ở đâu đâu, không liên hệ gì đến mình. Cũng có thể thoặt đầu vẫn có cảm xúc ít nhiều nhưng rồi dần dà nghe thấy quá nhiều tai ương hoạn nạn, nên hóa thành vô cảm. Vô cảm trước hoạn nạn mà tha nhân đang gánh chịu là một thái độ đáng lên án. Thái độ này dễ nhận biết cách nào đó và chẳng ai muốn bị kết án là hạng người vô cảm, vì chính bản thân người vô cảm cũng ít nhiều nhận thấy cái sai trái của mình. Tuy nhiên có một phản ứng thoạt xem ra không đáng trách nhưng thật tai hại. Có thể gọi phản ứng này với câu nói ngoài miệng hay lời thầm trong lòng những người thuộc hạng này: “Hú hồn, may quá, mình vẫn bình yên, mình may mắn hơn! Hay mình đang xứng đáng?”.
“Mình may mắn hơn”. Một câu nói, đúng hơn là một phản ứng rất có thể có nơi nhiều người không bị tai ương hoạn nạn. Trước các biến cố cuộc đời, người vốn quen kết luận theo quy luật nhân quả “ở hiền thì gặp lành; làm ác thì chuốc dữ”. Chính vì thế khi một tai ương hay hoạn nạn xảy đến cho người này, người kia, thì người ta dễ quy kết nguyên nhân là do tội, do lỗi của các nạn nhân hay của mẹ cha, ông bà họ trước đây. Chính các tông đồ cũng đã từng hỏi Chúa Giêsu về nguyên nhân khiến cho một người bị mù từ lúc mới sinh mà tin mừng Gioan tường thuật: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến cho người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”(Ga 9,2).
Cũng vì thói quen nhìn các sự kiện theo mối liên hệ nhân quả nên khi những tai ương hoạn nạn không ảnh hưởng gì đến chúng ta thì chúng ta rất có thể không chỉ nghĩ rằng may quá, mình không vương nạn mà còn có thể tự hào rằng mình đang còn tốt lành, còn đang xứng đáng. Đây quả là một thái độ ít nhiều vừa tắc trách lại vừa đáng trách.
Một tai ương, hoạn nạn xảy ra, có thể là do sự vận động của giới tự nhiên theo quy luật của nó như chuyện hết mưa thì trời lại nắng.., cũng có thể là do tác động của con người như chuyện biến đổi khí hậu bất thường do hiệu ứng nhà kính…, cũng có thể là do lỗi hay tội của người này, tập thể kia gây ra cho chính bản thân họ hay cho tha nhân, chẳng hạn như chiến tranh hoặc nhiều tai nạn giao thông…Là Kitô hữu, chúng ta vốn tin nhận rằng mọi người đều là anh chị em với nhau, có cùng một Cha trên trời thì không thể nào có thái độ vừa tắc trách vừa đáng trách trước các hoạn nạn, tai ương mà tha nhân đáng gánh chịu đó đây. Trái lại, chúng ta cần phải tích cực liên đới với họ và đồng thời phải biết cảnh tỉnh bản thân để hoán cải, đổi thay ngay hôm nay.
Sống tình liên đới: Thiên Chúa chúng ta tôn thờ không phải là một ông chủ vô tình hay một vị thần bàng quan với con dân. Khi mạc khải cho Môsê biết mình là “Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp”, thì Người muốn khẳng định rằng Người mãi đồng hành thiết thân với dân Người tuyển chọn và Người không bao giờ bỏ rơi dân Người. “Đức Chúa phán: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập…”(Xh 3,). Sự liên đới của Thiên Chúa đã nên phổ quát và trọn hảo khi trao ban chính Người Con Một vì nhân loại chúng ta. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…” (Ga 3, 16-17).
Sống tình liên đới với tha nhân, đặc biệt trong những hoàn cảnh hoạn nạn, tai ương mà tha nhân đang gánh chịu, thì trước hết cần ý thức rằng có thể do sự thiếu sót hay do tội lỗi của chính chúng ta đã làm cho tha nhân phải gánh chịu các cảnh bỉ cực ấy. Thứ đến, nếu giả như chúng ta “vô can” trong các hoạn nạn, tai ương ấy thì chuyện “máu chảy, ruột mềm” hay chuyện “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ” là chuyện tự nhiên, đương nhiên phải có trong nghĩa tình anh em một nhà, cùng một Cha trên trời. Hơn nữa, trong niềm tin, chính tội lỗi mới là tai ương, hoạn nạn đáng sợ nhất. Noi gương Chúa Kitô, vâng lênh Chúa Kitô, chúng ta “phải làm việc này mà nhớ đến Người”: đó là dùng chính con người của mình, xác thân mình, máu huyết, sự sống của mình để gánh tội của nhau, để làm cho nhau nên thanh sạch, được sống và sống dồi dào (x.1Cr 11,23-25).
Biết cảnh giác và tỉnh thức để hoán cải: Thánh Tông đồ dân ngoại lưu ý: “Ai tưởng mình đứng vững, thì hãy coi chừng, kéo ngã” (1Cr 10,12). Trước chuyện một số người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu họ đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng hoặc chuyện mười tám người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, Chúa Giêsu đã cảnh báo người đương thời rằng chớ vội quy kết rằng họ có tội hoặc cho rằng mình vô tội hay đang xứng đáng, nhưng phải biết tỉnh thức mà sám hối ăn năn.
“Chưa tận thế đâu”. Một câu nói rất có thể có ích khi nhắc nhớ chúng ta chớ hấp tấp, nóng vội mà quên đi quy luật của thời gian. Tuy nhiên câu nói trên cũng có thể tố cáo sự thiếu cảnh giác và tỉnh thức của chúng ta. Nhiều tổ chức, nhiều chương trình, kế hoạch hay công việc đòi hỏi có thời gian tính. “Dục tốc bất đạt” vốn là kinh nghiệm có từ ngàn xưa. Thế nhưng, trong chuyện sửa sai, nhiều khi không thể để đến ngày mai, vì sẽ không còn có cơ hội hoặc vì hậu quả xấu đã ra trầm trọng, thành tình trạng di căn, khó có thể khắc phục. Đặc biệt trong việc hoán cải tâm hồn thì luôn cần phải làm ngay trong hôm nay, giờ phút này. Xin đừng quên rằng không phải một ngày, không phải một giờ, nhưng có thể chỉ một phút, một giây sẽ quyết định số phận, quyết định hạnh phúc đời đời của bạn, của chính tôi.
Một trong những thái độ sống cần thay đổi đó là sự bàng quang, vô cảm, an phận trước cảnh bỉ cực của tha nhân hoặc tự nhủ: may quá, mình không vương nạn, mình đang xứng đáng.
5. Sám hối
1. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có hai câu chuyện mang tính thời sự thời Đức Giêsu. Câu chuyện thứ nhất do những người Do thái kể cho Đức Giêsu nghe về một số người Galilê bị quan Philatô giết chết, có lẽ vì nổi loạn chống lại Roma; câu chuyện thứ hai, do chính Đức Giêsu kể đó là mười tám người bị tháp Silôê sụp đổ đè chết. Trước cảnh đau thương đó, người Do thái thời Đức Giêsu, có thể ngay cả chúng ta nữa, thường nghĩ rằng”ác giả, ác báo”, ai làm điều ác thì ắt sẽ gặp điều ác. Đức Giêsu khuyên họ đừng vội vàng suy đoán trước những đau khổ của người khác, nhưng tốt hơn, đây là dịp tốt để mỗi người hãy xem xét lại lương tâm mình để lo sám hối, lo thay đổi đời sống của mình hơn là đoán xét người khác.
Sau đó Đức Giêsu kể thêm dụ ngôn cây vả để trình bày rõ hơn chủ đích sám hối của Người. Qua dụ ngôn này Người nhấn mạnh thêm hai chi tiết nữa: phải khẩn trương sám hối trong lúc thời giờ còn có thể được, giống như cây vả được người làm vườn gia hạn thêm một năm nữa; đồng thời, sám hối phải được biểu hiện bằng những việc làm tốt đẹp cụ thể, giống như cây vả phải sinh hoa trái.
2. Trước hết, lời mời gọi sám hối không nhằm riêng ai, mọi người chúng ta đều được mời gọi phải sám hối. Ai trong chúng ta dám nói mình là vô tội: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,
nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130,3), hay như Thánh Phaolô nói: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Khuynh hướng con người là như thế, không muốn đi đường ngay nẻo chính. Sám hối nguyên ngữ Hylạp là metanoia, nghĩa là quay ngược lại, là nhận mình đã đi lạc hướng và cố gắng quay trở về đường ngay nẻo chính. Một cách dễ hiểu hơn, sám hối đó là thấy mình làm điều sai quấy với lương tâm, với luật Chúa, luật Hội Thánh thì mau mắn sửa đổi. Ngay cả dù không “đi lạc”, nhưng đó là thiếu sót trong việc bổn phận hằng ngày hay lẽ ra ta có thể thực hiện một điều lành tốt hơn mà lại không cố gắng!
Hãy nhìn lại xem, trong cuộc sống của chúng ta biết bao lần chúng ta đã xúc phạm đến Chúa và anh em khi vô tình lúc hữu ý, khi tỏ tường lúc thầm kín… Thế nhưng thực tế trong cuộc sống chúng ta cũng dễ giống như những người Do thái xưa cho mình là người công chính. Dễ bực bội, dễ thấy lỗi lầm thiếu sót của người khác, còn chính lỗi mình thì không. Thích tìm tòi, chỉ trích thiếu sót của người khác, ngược lại không muốn ai nhắc tới khuyết điểm của mình. Chính vì vậy ca dao ta có câu: “chân mình những lấm mê mê, lại đi lấy đuốc mà rê chân người”. Vậy Lời Chúa hôm nay nhắc mỗi chúng ta hãy nhìn lại đời sống của mình mà sám hối, hoán cải.
3. Kế đến, phải khẩn trương sám hối. Trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe, người làm vườn xin ông chủ gia hạn thêm một năm nữa. Một năm nữa nếu không sinh hoa kết trái thì kết thúc cuộc đời cây vả. Điều nay cho chúng ta suy nghĩ: lúc ta còn sống là lúc ta còn có thể hoán cải, khi ta kết thúc cuộc đời thì không còn làm gì được nữa, cho nên hãy biết dùng thời giờ Chúa còn cho ta sống ở trần gian nầy mà lo sám hối.
Những người Galilê bị Philatô giết như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, họ không nghĩ đây là lần cuối cùng họ lên Giêrusalem mà không bao giờ còn sống trở về quê hương của họ. Mười tám người trong câu chuyện tháp Silôe, chắc chắn họ cũng không nghĩ họ bị đè chết oan uổng như vậy. Hằng ngày qua thực tế cuộc sống, hay qua các phương tiện truyền thông chính chúng ta chứng kiến, hay được nghe, thấy lại những cái chết thật bất ngờ do nhiều lý do. Hẳn chúng ta còn nhớ thảm hoạ tại Tòa Tháp Đôi Trung tâm thương mại thế giới ở New York , Mỹ ngày 11/09/2001 , đã giết hại gần 3.000 người, có ai trong họ ngờ rằng ngày đó là ngày cuối cùng trong cuộc đời của mình!
Hơn thế nữa, ta phải sám hối luôn vì nhớ lại tình thương của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta, người con hiếu thảo là người con luôn làm vui lòng cha mẹ mình. Sám hối, trở về với Thiên Chúa là phương thức tốt nhất đẹp lòng Ngài. Vậy hãy mau mau trở về với Đấng là Cha giàu lòng thương xót.
4. Cuối cùng, sám hối cần được thể hiện bằng những việc làm cụ thể, giống như cây vả phải sinh trái. Việc sám hối không chỉ là nói suông mà cần phải thể hiện bằng việc làm cụ thể. Biết bỏ lễ Chúa Nhật khi không có lý do chính đáng là lỗi Luật Chúa, thì phải quyết tâm đi lễ. Biết mình hay chưởi thề nói tục, thì phải quyết tâm nói những lời hay. Biết trộm cắp là không tốt, thì phải quyết tâm giữ phép công bằng… đó là những việc làm nói lên sự sám hối của ta.
Thế nhưng cũng có người nghĩ rằng mình đã là người giữ đạo đàng hoàng, bởi tuân giữ luật Chúa, luật Hội Thánh, đâu cần gì phải sửa đổi đời sống. Hãy nhớ trong dụ ngôn cây vả tuy cành lá xum xuê không bị sâu bọ gì, nhưng lại không trái, làm ta có thể nghĩ đến đời sống thiếu tích cực của người Kitô hữu, đó là thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc, thiếu chu toàn việc bổn phận cách tốt nhất hay bỏ qua việc lành phải làm. Vậy trong cuộc sống hằng ngày mỗi chúng ta hãy ý thức hơn, nhất là trong mùa chay nầy, không những quyết tâm không làm điều xấu, mà còn phải cố gắng hết sức để chu toàn nhiệm vụ, cố gắng thực hiện việc lành việc tốt, đó là hoa trái của sám hối.
5. Hôm nay đã là chúa nhật thứ 3 mùa chay, đã gần nữa đoạn đường của mùa chay năm nay. Bầu khí mùa chay rất thuận lợi cho việc sám hối của mỗi chúng ta. Hãy thành tâm nhìn lại sự giới hạn của mình, hãy nhắc nhau, hãy cầu nguyện cho nhau để đáp lại lời mời gọi sám hối của Đức Kitô, hầu chúng ta được bình an, hạnh phúc ngay ở đời nầy và nhất là hạnh phúc mãi mãi với Người mai sau.
6. Lời mời gọi sám hối.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người sám hối, vì Thiên Chúa là Đấng luôn nhân từ hay thương xót, Ngài luôn động lòng trước nỗi thống khổ của con người, Ngài luôn thương và cứu giúp con người.
Thiên Chúa giải phóng dân Người
Dân Do Thái bị bóc lột, bị đàn áp và bị tiêu diệt từng ngày. Trong cùng quẫn, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng họ bằng việc sai gởi Môsê tới lãnh đạo dân, thương lượng với vua Pharaô, đưa dân ra khỏi Ai-cập.
Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của dân Do Thái, trước nỗi khổ của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê lãnh đạo giải phóng dân, mà chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là điều dân Do Thái cần ghi nhớ để dạy lại cho con cháu.
Thiên Chúa, Đấng tự hữu, luôn yêu thương và cứu trợ dân người.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người
Người đời cho rằng những người bị tai họa là những người tội lỗi, nên bị Chúa phạt. Nhưng Đức Giêsu lại không cho rằng những người bị Philatô sát hại cũng như những người bị thác Siloê đổ đè chết, là những người tội lỗi hơn những người còn đang sống. Đức Giêsu nói: “Không đâu! Nhưng nếu các người không sám hối, các người sẽ bị như vậy”. Những người bị nạn đó, trở thành tấm gương, là bài học để con người hôm nay nhìn vào, hầu thay đổi cách sống. Thiên Chúa vì yêu thương những người còn đang sống, hôm nay vẫn dùng bao biến cố, như những tấm gương, để răn dạy con người.
Dụ ngôn cây vả không sinh trái, và người làm vườn đã xin ông chủ khoan nhượng để bón phân tưới nước, hy vọng cây vả sẽ ra trái vào năm sau, bằng không thì sẽ chặt nó sau, cũng là dụ ngôn cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ và kiên nhẫn đối với con người tội lỗi.
Xin cho con người hôm nay, cụ thể là mỗi người chúng ta, được cảm nhận lòng yêu thương nhân từ kiên nhẫn của Thiên Chúa, để mỗi người chúng ta trở về với Ngài, và sinh hoa kết trái trong đời sống.
Dân Do Thái là bài học cho mọi người mọi dân tộc
Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa thương yêu với bao đặc ân. Nhưng Thiên Chúa cũng thương mọi dân tộc như thương dân Do Thái. Họ được chọn để trở thành “tấm gương tầy liếp” (tấm gương to), cho tất cả mọi người, mọi dân tộc nhìn vào để soi, để thấy tình yêu của Thiên Chúa với dân Do Thái, và qua dân Do Thái đối với các dân tộc khác, với mọi người trên trần gian.
Dân Do Thái được Thiên Chúa đưa ra khỏi Ai-cập, được Ngài nuôi ăn bằng manna, được uống nước từ tảng đá. Nhưng tất cả những điều đó, cũng là dấu chỉ, là hình bóng, cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nuôi sống con người qua cơm bánh họ có từng ngày. Hơn nữa, con người hôm nay còn được nuôi sống bằng mình máu Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể.
Cả lịch sử dân tộc Do Thái thành bài học cho con người của mọi thời đại sau này. Xin cho mỗi người cũng như mỗi dân tộc biết nhìn lịch sử dân Do Thái để nhận ra tiếng Chúa nói với mình, nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Qua các thiên tai cũng như những sự dữ con người gây ra, nhiều người cho rằng Thiên Chúa độc ác, với tư cách là người Kitô hữu bạn giải thích hay trả lời họ thế nào?
2. Bạn có cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với bạn và những người thân của bạn qua những biến cố bao giờ chưa? Nếu được xin chia sẻ.
3. Sám hối, trở lại với Thiên Chúa, theo bạn, chủ yếu hệ tại đâu?
7. Kiên nhẫn của tình yêu
(Achille Degeest)
Người ta nghĩ rằng những người Galilê nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay là những nạn nhân bị đàn áp trong một cuộc nổi dậy chống quân La mã, có lẽ xảy ra trong khuôn viên Đền Thờ Giêrusalem. Người ta cho rằng tháp Silôam ở gần giếng Silôam phía đông nam thành. Nhân hai vụ bi thảm này, Chúa Giêsu đánh đổ một thành kiến và Người đưa cuộc tranh luận lên một tầm cao hơn. Não trạng Do Thái thời đó coi bất đắc kỳ tử là hình phạt Thượng đế áp dụng cho kẻ tội lỗi. Nhân hai vị chết người tập thể này. Chúa phán rằng những hình phạt thật sự về sự dữ nằm ở chỗ khác. Trước hết, dường như cách kín đáo Chúa nói, nếu dân thành Giêrusalem không trở lại với Thiên Chúa bằng niềm tin hôm nay vào Đấng Messia, toàn thành sẽ bị tiêu diệt. Phải chăng Chúa ám chỉ cuộc tàn phá thủ đô sẽ xảy ra năm 70? Tiếp đó, Chúa đặt cuộc tranh luận vào bối cảnh toàn bộ giảng thuyết của Người: Nếu không ăn năn trở lại, dân chúng sẽ bị Thiên Chúa xét phạt nghiêm khắc. Dụ ngôn cây vả cho chúng ta hiểu Thiên Chúa vừa kiên nhẫn, vừa quyết thi hành công lý của Người.
Chúng ta tự đặt hai câu hỏi:
1) Sự trở lại là gì?
Trở lại là thay đổi nội tâm, thay vì hướng về bản thân, con người hướng về Thiên Chúa. Khởi đầu, người ta nhận mình là kẻ tội lỗi, cách khiêm nhượng người ta ý thức về sự xa cách một trời một vực giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa và nỗi khổ cực trong tâm hồn mình. Mình có một trách nhiệm nào đó về khổ cực bên trong ấy. Vì thế người ta hối hận về tội mình, người ta trở lại với Thiên Chúa, vì Người luôn luôn tiếp đón những kẻ khiêm nhường sám hối. Sự trở lại không chỉ một lần là xong, trái lại mỗi ngày phải thực hiện một sự trở lại mới.
2) Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa là gì?
Đó là sự kiên nhẫn của tình yêu, trước hết là của tình yêu giáo hoá. Thiên Chúa không đòi hỏi con người nhất đán trở nên hoàn toàn thánh thiện. Thiên Chúa cho con người có đủ thời gian làm công việc cải thiện tâm hồn. Nhưng con người phải sử dụng tốt thời gian ân huệ ấy, đúng ra nó ngắn ngủi lắm. Mỗi ngày trong đời sống của một Kitô hữu đều mang đến một ân sủng để giúp tiến bộ trong niềm trung tín với Thiên Chúa. Mỗi ngày người tín hữu phải tự chất vấn: Kinh nguyện của tôi, sự thờ phụng của tôi, cung cách tôi phục vụ tha nhân có đủ tốt để đẹp lòng Thiên Chúa không? Như một nhà giáo dục kiên nhẫn, Thiên Chúa giúp đỡ người tín hữu tìm được câu trả lời bằng cách Người can thiệp ban cho những ân sủng bên trong, bằng những giáo huấn của Giáo Hội, bằng những biến cố, v.v… Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa cũng là niềm thương yêu kiên nhẫn nhưng đòi hỏi gắt gao. Thiên Chúa thông cảm vô cùng đối với những ai thành tâm thiện chí, nhưng chung cục Người sẽ tỏ ra nghiêm khắc đối với những kẻ ngoan cố thờ ơ.
8. Sám hối để được cứu chuộc
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Nếu Chúa Nhật I Mùa Chay nói về chủ đề cám dỗ, Chúa Nhật II nói về vinh quang, thì Chúa Nhật thứ III Mùa Chay hôm nay nói về chủ đề sám hối.
Tại sao chủ đề sám hối lại được đặt vào trọng tâm của Mùa Chay? Thưa vì khi sám hối, con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhận ra sự bất toàn của chính mình. Từ đó, chúng ta đón nhận được ơn tha thứ, khởi đầu lại hành trình đức tin và tiếp tục đi trong đường lối yêu thương của Người.
Hôm nay, vào giữa Mùa Chay, Giáo Hội lại một lần nữa kêu gọi con cái mình sám hối, vì: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”(2 Cr 6,2b).
1. Lý do cần phải sám hối
Khởi đi từ bài đọc I, tác giả sách Xuất Hành cho thấy: Thiên Chúa là Đấng yêu thương con cái của Người cách đặc biệt, nên ngay từ xa xưa, Thiên Chúa đã tuyển chọn ông Abraham, qua đó, Người thiết lập một dân riêng, để từ đây, Thiên Chúa mạc khải tình thương của Người cho nhân loại qua việc yêu thương, chăm sóc và giữ gìn.
Tình thương ấy được tỏ hiện cụ thể qua việc Thiên Chúa tiếp tục chọn và gọi Môsê để trao phó cho ông sứ mạng giải thoát dân Người ra khỏi ách nô lệ bên Aicập.
Đến bài đọc II, thánh Phaolô gợi lại sự chăm lo của Thiên Chúa cách đặc biệt trên cộng đoàn. Tuy nhiên, Ngài thấu hiểu được tâm lý con người, nên đã cảnh báo họ về những cám dỗ. Để chứng minh, Ngài đã nhắc lại cuộc xuất hành của dân từ Aicập vượt qua Biển Đỏ, rồi trong suốt hành trình nơi Samạc, họ đã được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, ấy thế mà, dân Israel đã bội nghĩa vong ân, đã thay trắng đổi đen, và đã vướng vào những cạm bẫy của ma quỷ, để rồi kiêu ngạo, thách thức Thiên Chúa. Vì thế, nhiều người đã phải chết trong sự ngu dốt do tính kiêu ngạo của mình.
Từ đó, thánh nhân mời gọi tín hữu Côrintô hãy sám hối, tin tưởng, phó thác vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với sự hướng dẫn đầy tình nhân ái của Người.
2. Nếu không sám hối, sẽ phải chết
Sang bài Tin Mừng, thánh sử Luca trình thuật việc dân chúng báo tin cho Đức Giêsu về hai sự kiện, một là: quan tổng trấn Philatô giết một số người Galilê đang khi họ dâng lễ vật trong đền thờ, và biến cố 18 người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết, sau đó, họ kết luận: những người đó phạm tội nên mới bị chết cách đau đớn như vậy!!!
Khi nghe thấy tin ấy, Đức Giêsu đã không nhìn sự kiện dưới khía cạnh luân lý, kinh tế hay chính trị, mà Ngài nhìn dưới gọc độ tôn giáo. Vì thế, Ngài đã đánh đổi quan niệm cũ sai lầm mà người Dothái thường gán cho những người ốm đau, bệnh tật, tai nạn là do phạm tội nên bị Thiên Chúa phạt bằng câu nói đầy tính tiên tri: “Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Điều này đã được chính Đức Giêsu chứng minh qua phép lạ chữa cho người mù từ lúc mới sinh, Ngài nói: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3).
Mặt khác, Ngài cũng muốn nhắc cho dân chúng ở đó rằng: chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán và kết án mà thôi, nên: “Đừng xét đoán để khỏi bị kết án” (Mt 7,1).
Như vậy, qua bài Tin Mừng này, chúng ta thấy ý chính, trọng tâm của sứ điệp chính là: “Hãy sám hối để được ơn tha thứ và cứu chuộc”.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Lời mời gọi ấy ngày nay vẫn con nguyên giá trị. Nhưng đáng tiếc thay, nhiều người vẫn dửng dưng và cho rằng: “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn năn đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi là mình!”; hay nghĩ rằng: “Đâm lao theo lao”, lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội rồi, cho lỡ luôn! Thực ra, chỉ những ai dại dột hay kiêu ngạo thì mới cả gan nghĩ như vậy, bởi lẽ trong thực tế đã chứng minh cách nhãn tiền rằng: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, vì: cái chết nó đến với chúng ta cách bất ngờ đến độ như kẻ trộm lúc đêm khua hay như chiếc lưới bất thần chụp xuống trên đầu chúng ta…
Vì thế, ngay giây phút này, mỗi người hãy tâm niệm câu nói của thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12); và câu nói của thánh Phêrô: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). Vì ngài: luôn đánh giá rất cao người tội lỗi trở về hơn là người đạo đức mà kiêu ngạo.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay cho ta thấy rất rõ: đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những người tội lỗi, gái điếm, trộm cắp…, nhưng cả những người được coi là đạo đức, ngay chính, nhiều người kính trọng, hết thảy, ai ai cũng đều phải sám hối.
Bởi vì nếu lời mời gọi sám hối dành cho những người tội lỗi là: từ bỏ con đường bất chính, gian dâm, trộm cướp, hối lộ, bóc lột…, thì lời mời gọi sám hối dành cho những người đạo đức, công chính…, đó là: làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa, biết cảm thông cho những thân phận xấu số, cảm thương với người nghèo và rộng tay làm phúc bố thí cho họ, nhất là nâng đỡ những người tội lỗi, giúp họ làm lại cuộc đời…
Tại sao vậy, Thưa! Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu không được làm, mà Giáo lý của Đức Giêsu còn đòi buộc cả những điều tích cực như: khi thấy điều tốt mà không làm thì cũng mắc tội. Điều này cũng được chính thánh Giacôbê nhắc đến trong thư của ngài: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội” (Gc 4,17).
Vì thế, nếu tỏ lòng sám hối là điều cần làm ngay lúc này, thì lời mời gọi sinh hoa quả tốt là các nhân đức cũng là điều cấp thiết. Bởi vì: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả đều bị chặt đi và quăng vào lửa”(x. Mt 3,10; Lc 3,9).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rõ rằng: biết sám hối là một lựa chọn khôn ngoan. Biết đổi mới đời sống theo thánh ý Chúa là người có phúc. Amen.
9. Suy niệm của JKN.
ĐỪNG ĐOÁN XÉT NGƯỜI KHÁC, HÃY TỰ XÉT CHÍNH MÌNH
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao có người cho rằng những người bị giết hay bị chết trong bài Tin Mừng là những kẻ tội lỗi? Đức Giêsu có quan niệm như thế không? Ngài có đồng ý với việc xét đoán người khác kiểu đó không? Lập trường Ngài thế nào?
2. Áp dụng dụ ngôn cây vả vào đời sống người Kitô hữu hôm nay, thì hoa trái mà Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta là gì? Là việc tham dự những nghi thức tôn giáo cho đầy đủ, hay là tình thương phải có đối với nhau?
Suy tư gợi ý:
1. Đừng xét lỗi kẻ khác, hãy xét lỗi chính mình
Thời Đức Giêsu, dân Do Thái bị đế quốc Rôma đô hộ. Nhiều người nổi dậy chống lại chính quyền Rôma và đã bị giết. Một số nhà giải kinh cho rằng những người bị Philatô giết ở đây cũng vì lý do ấy. Mặc dù không ủng hộ chính quyền Rôma, người Pharisêu phản đối việc dùng vũ lực chống lại chính quyền. Vì thế, theo quan điểm của họ, những người bị giết này là đáng tội chết. Còn nhóm Dêlốt, một đảng chính trị chuyên khủng bố người Rôma, chủ trương bất hợp tác với chính quyền đế quốc. Vì thế, khi thấy 18 người Do Thái đào đường dẫn nước thuê cho người Rôma và bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, họ cũng kết án những nạn nhân này là đáng tội chết.
Thấy họ thích xét đoán và kết án người khác như vậy, Đức Giêsu lên tiếng phản đối. Theo Ngài, khi ta kết án người khác, thì chính ta lại là kẻ đáng bị kết án hơn cả: “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán” (Mt 7,1; x. Lc 6,37). Ngài muốn đừng ai xét đoán ai, mà mỗi người hãy tự xét về lầm lỗi của chính mình, đồng thời sám hối và sửa đổi mình trước đã. Vì thói đời thường “thấy cái rác trong mắt người khác, còn cái xà trong mắt mình thì lại không thấy” (Mt 7,3). Vả lại, mỗi người một hoàn cảnh, mình không phải là Thiên Chúa nên không thể biết rõ hoàn cảnh phạm lỗi của người khác để có thể kết án họ. Càng kết án người khác, ta càng bị Thiên Chúa kết án: “Anh em xét đoán (người khác) thế nào, Thiên Chúa cũng sẽ xét đoán anh em như vậy. Anh em đong (cho người khác) bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ dùng chính đấu ấy để đong lại cho anh em” (Mt 7,2). Vậy, ta đừng dại gì mà xét đoán người khác?
Khi người ta dẫn một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến để tố cáo với Đức Giêsu, thì thái độ của Ngài là không kết án chị ta, mà mời gọi mọi người hãy xét tội lỗi của bản thân mình trước đã: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi!” (Ga 8,7). Khi được mời gọi xét lại chính mình, những kẻ tố cáo người phụ nữ ngoại tình ấy đã từ từ “bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi” (Ga 8,9). Tại sao vậy? Vì họ vẫn còn liêm sỉ để nhận ra chính mình cũng chẳng phải vô tội! Nếu ta có thái độ “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, hay “tiên xét kỷ, hậu xét nhân”, thì ta sẽ không bao giờ dám kết tội ai. Vì khi xét mình, ta sẽ luôn luôn nhận ra mình cũng có lỗi. Do đó, kẻ hay kết án người khác chỉ tự chứng tỏ rằng mình rất ít khi xét lỗi của mình. Vì một khi đã xét lỗi mình thì ta sẽ không dám kết án ai.
Rất nhiều lần khi thấy con cái mình phạm một lỗi nặng, tôi muốn nổi trận lôi đình với chúng, dự định la mắng chúng một trận nên thân. Nhưng khi bỗng nhận ra mình ngày xưa cũng phạm những lỗi y hệt chúng ngày nay, thì tôi hết giận ngay. Và tôi chỉ trách mắng chúng một cách nhẹ nhàng; nhờ vậy, việc giáo dục chúng có kết quả hơn. Nhiều lần ra đường bị một ai đó chạy ẩu làm tôi bị té hoặc bị thương, tôi giận muốn điên lên. Nhưng khi nhận ra chính mình cũng đã từng làm cho người khác khốn khổ y như vậy, tôi bèn mỉm cười và cơn giận lập tức tiêu tan.
2. Hãy tự xét lỗi mình và cải thiện theo đúng đường lối Chúa
Ta chỉ có trách nhiệm xét lỗi của ta, chứ không có trách nhiệm xét lỗi người khác: “Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?” (Gc 4,12). Nếu thấy mình có lỗi thì ta phải sám hối và tự sửa chữa, nếu không, e rằng ta sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt: “Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.
Rất nhiều người cảm thấy mình vô tội, không cần sám hối, vì thấy rằng mình chẳng bao giờ làm điều ác cho ai. Mình vẫn được mọi người cho là ngoan đạo: vẫn đi lễ, rước lễ hàng ngày, xưng tội hàng tháng, vẫn đóng góp vào nhà thờ… Nhưng tới ngày phán xét, rất có thể họ sẽ bật ngửa khi nghe Chúa nói: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,23). Lúc ấy họ sẽ phân bua: “Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” (Mt 7,22). Chúa sẽ nói lại: “Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống…” (Mt 25,41-44).
Quả thật, rất nhiều Kitô hữu không biết được cốt tuỷ của tinh thần Kitô giáo nằm ở đâu. Họ tưởng nằm ở trong các nghi thức tôn giáo, trong việc lễ lạy, rước sách. Nhưng Đức Giêsu đã nói thật rõ ràng: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế” (Mt 9,13; 12,7), và “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng thành thật” (Mt 23,23) chứ không phải mấy chuyện “nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng” cho đền thờ, thậm chí cả việc dâng lễ vật lên Thiên Chúa nữa. Thật vậy, thánh Phaolô nói: “Những lễ vật và hy lễ dâng tiến Thiên Chúa không thể làm cho lương tâm người cử hành việc phụng tự trở nên hoàn thiện” (Dt 9,9). Điều làm cho con người nên hoàn thiện và nên giống Thiên Chúa là tình thương, vì tình thương chính là bản chất của Thiên Chúa (x. 1Ga 4,8.16).
Nhiều người không hiểu cốt tuỷ của tinh thần Kitô giáo nằm ở đâu, nên họ hay lên án những ai không giữ những luật lệ giống như họ. Họ hành xử không khác gì những người Pharisêu xưa lên án Đức Giêsu và các tông đồ: nào là vi phạm ngày sabát (chữa bệnh, bứt bông lúa mì…), nào là không giữ luật lệ tiền nhân (ăn không rửa tay, nhậu nhẹt với phường tội lỗi…). Nhưng Đức Giêsu trả lời họ: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội” (Mt 12,7).
Trước mặt Đức Giêsu, những người Pharisêu này mới chính là kẻ có tội. Nhưng tiếc thay cho họ: tội mình thì không thấy, mà lại thấy tội của những kẻ vô tội! Thời nay, nhiều Kitô hữu trách cứ những người khác là khô khan, nguội lạnh chỉ vì những người này không sốt sắng giữ đạo theo kiểu của họ, đang khi những người bị trách cứ này lại giữ luật yêu thương của Đức Giêsu gấp nhiều lần họ. Thiết tưởng câu của thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay đáng cho họ suy nghĩ: “Ai tưởng mình đang đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). 3. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ con người hối cải
Điều Thiên Chúa mong đợi nơi con người là sự hối cải. Hối cải là quay trở về với Ngài: quan niệm giống như Ngài, nói và hành động theo gương Ngài. Theo quan niệm của Ngài, yêu thương là điều quan trọng nhất, cốt yếu nhất, nền tảng nhất. Nhưng rất nhiều Kitô hữu lại quan niệm khác với Ngài, họ coi chuyện yêu thương là thứ yếu, mà coi những nghi thức tôn giáo mới là quan trọng. Họ đã đi vào đúng vết xe đã đổ của các kinh sư, của giới lãnh đạo Do Thái giáo xưa.
Đức Giêsu đến trần gian đã 2000 năm nay để chỉnh đốn lại quan niệm sai lầm xưa. Nhưng cho đến hôm nay, biết bao kẻ mang danh theo Đức Giêsu vẫn coi thường việc chỉnh đốn đó, vẫn tiếp tục đi theo con đường Ngài đã đả phá từ thời đó. Ngài thì đặt nặng quan hệ yêu thương giữa con người với con người, còn họ vẫn tiếp tục coi trọng những nghi thức tôn giáo hơn quan hệ đó. Ngài nói: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Hãy xem Ngài quan trọng hoá quan hệ yêu thương giữa con người với con người hơn các nghi thức tế tự như thế nào! Nhưng rất nhiều Kitô hữu, kể cả những người có trách nhiệm dạy dỗ Kitô hữu, đã quan trọng hoá theo chiều ngược hẳn lại với Ngài!
Thiết tưởng dụ ngôn cây vả không ra trái trong bài Tin Mừng là một lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi Kitô hữu ngày nay. Thiên Chúa đang chờ đợi thêm một thời gian nữa trước khi ra tay trừng phạt chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta sinh hoa kết trái yêu thương, nhưng cho đến nay, phải nói rằng người Kitô hữu chúng ta đã sống với nhau thiếu tình thương một cách trầm trọng. Chúng ta không ý thức được tình trạng nguy hiểm đang chờ chúng ta: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10; Lc 3,9). Các Kitô hữu quan niệm không đúng một phần khá quan trọng là do những người có trách nhiệm giáo dục họ đã không chỉ dạy họ cho đúng, hoặc đã không nhấn mạnh đủ điều nào là điều Đức Giêsu đã nhấn mạnh trên tất cả những điều khác.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu kêu gọi sám hối, nếu không sẽ bị trừng phạt tất cả. Nhưng chúng con phải sám hối điều gì đây? Chúng con phải thay đổi điều gì trước tiên? Hoa trái mà Cha mong mỏi nơi chúng con là gì? Đọc kỹ Tin Mừng, chúng con thấy hoa trái mà Cha mong đợi nơi chúng con chính là tình thương. Nhưng chúng con lại quan trọng hoá chuyện khác. Chúng con lại đi đúng vào vết xe đã đổ của người Pharisêu xưa, là quan trọng hoá các nghi thức tôn giáo mà coi thường luật yêu thương của Cha. Xin giúp chúng con sửa đổi lại quan niệm cho đúng.
10. Nhận ra lòng Chúa xót thương và hoán cải
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phụng vụ hai Chúa nhật đầu Mùa Chay cả ba năm A, B, C đều trùng hợp nhau ở đề tài sự lựa chọn của Chúa Giêsu trước tên cám dỗ, và Chúa biến hình. Bước vào Chúa nhật thứ III Mùa Chay năm C, bài Tin mừng chú trọng đến đề tài “hoán cải” với lời kêu gọi cảnh tỉnh. Ca nhập lễ nhắc nhớ chúng ta lời cầu nguyện nổi tiếng của các Giáo phụ trong sa mạc: “Lạy Chúa Giêsu, xin thương con, vì con là kẻ có tội!”. Sau hai tuần sám hối tội lỗi, chúng ta nên lấy những lời trên làm của mình, và can đảm nhiệt thành cùng với Chúa Giêsu bước vào trong sa mạc của Mùa Chay, ý thức mình là những kẻ tội lỗi nghèo hèn, nhưng chúng ta, “hướng cặp mắt” lên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, Ngài sẽ cứu chúng ta khỏi Vực thẳm âm ty, và thưa: “Mắt tôi hướng nhìn Chúa không biết mỏi, vì chính Người sẽ gỡ chân tôi khỏi dò lưới. Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con, vì thân này bơ vơ cùng khổ” (Ca nhập lễ).
Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là dễ, vì khi có biết bao chuyện buồn đẫm lệ trước mắt chúng ta như bão tố, lũ lụt, động đất sóng thần cướp đi bao sinh mạng con người, và gần đây nhất, vụ sập nhà thờ Ngọc Lâm làm 3 người chết, hơn 59 người bị thương. Chúng ta vẫn hát với niềm tin rằng: “Chúa nhân từ và thương xót.” Có người hỏi, lòng nhân từ và tình thương xót của Chúa ở đâu, khi trái tim con người bị tan nát bởi những cái chết đau thương của người thân, của anh em đồng loại… thật là khó để chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại và muốn tốt cho nhân loại.
Vấn nạn giả thiết rằng sự bất hạnh xảy đến với con người là đáng. Vì vậy, khi chúng ta thấy những người bị bệnh hoặc bị cuốn đi, bởi một cái chết đột ngột, người đời nói về họ: “Như thế nào, họ đã làm gì sai?”. Như là có sự trừng phạt tức khắc giữa trách nhiệm đạo đức và đau khổ mà chúng ta hứng chịu. Đó không phải là điều Chúa Kitô nói trong Tin Mừng khi người ta mang đến và hỏi Chúa: “Ai phạm tội? Anh mù này hay cha mẹ của anh ta? (Ga 9, 2) Chúa Giêsu trả lời: “Không phải anh cũng không phải cha mẹ” (Ga 9, 3) thực tế, anh đã mù bẩm sinh không phải là sự trừng phạt do lỗi của bất cứ ai.
Vì vậy, làm thế nào chúng ta có thể chấp nhận và sống sự khác biệt giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất hạnh của con người? Chúng ta còn nhớ việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài ra khỏi Ai Cập và làm cho dân chúng đi qua Biển Đỏ ráo chân không? Liệu có nhớ Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài qua sa mạc, nuôi dân bằng bánh bởi trời, và uống nước từ tảng đá vọt lên để dân đi đến tận Đất Hứa? Chỉ cần nhớ lại những hành động Thiên Chúa trợ giúp con người, Như thư I Côrintô, Thánh Phaolô tiên báo trước đời sống Kitô hữu mà chúng ta đang sống, giống như Môi-se dân qua Biển Đỏ, những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô là Đá tảng tuôn trào mạch nước sự sống và nuôi dưỡng bằng bánh của trời. Nhưng làm thế nào để chúng ta tin vào lòng trung thành của Thiên Chúa và giúp chúng ta tin vào tình yêu của Thiên Chúa khi bất hạnh tấn công con người?
Thánh Luca kể lại cho chúng ta bình luận của Chúa Giêsu về hai biến cố thời sự lúc đó. Biến cố thời sự thứ nhất là cuộc nổi loạn của vài người Galilê bị quan Philatô đàn áp giết chết; biến cố thứ hai là việc một ngọn tháp tại Giêrusalem bị sập ngã làm cho 18 người thiệt mạng; hai biến cố bi thảm này khác nhau, một do con người tạo ra, và một do tai nạn. Người đương thời Chúa Giêsu thường có tâm thức nghĩ rằng tai nạn đã đổ xuống trên các nạn nhân, bởi vì họ đã phạm lỗi trầm trọng.
Nhưng Chúa Giêsu ngược lại đã nói như sau: “Các người cho rằng những nạn nhân người Galilêa kia là những kẻ tội lỗi hơn tất cả mọi người Galilêa ư?… Hoặc 18 nạn nhân kia là những kẻ lỗi phạm hơn tất cả mọi người dân Giêrusalem chăng? (Luca 13,2.4). Thay vì kết luận đơn giản coi sự dữ như là hình phạt của Thiên Chúa, đức Giêsu hồi phục lại hình ảnh chân thực của Thiên Chúa là Đấng tốt lành và không thể nào muốn sự dữ; Người còn yêu cầu đừng coi những tai hoạ đó như là kết quả trực tiếp của tội lỗi cá nhân. Người nói: “Các ông tưởng rằng những người Galilê ấy là những kẻ tội lỗi nhất ở xứ Galilê cho nên mới đáng hình phạt như vậy ư? Và Chúa Giêsu đã kết luận cho cả hai trường hợp như sau: “Không phải thế. Tôi nói cho các người biết, nếu các người không ăn năn hối cải, các người cũng sẽ phải chết như vậy.” (Luca 13,3.5). Vậy, Chúa Giêsu muốn dẫn những kẻ lắng nghe Ngài đến kết luận về sự cần thiết phải ăn năn trở lại.
Khi cái chết tấn công chúng ta, đức tin không cho chúng ta những lời giải thích hoặc an ủi chúng ta yên tâm, nhưng đức tin hỏi chúng ta: chúng ta đã làm gì trong cuộc đời khi chúng ta đang phải đối diện với cái chết vây quanh ta, bất hạnh và đau khổ tấn công và chạm đến ta.
Để làm rõ lời kêu gọi hoán cải, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả. Đã ba năm nay, cây không sinh quả. Như chúng ta, những người đã được hưởng lợi quá lâu từ ân sủng của Thiên Chúa mà không đáp trả cách hào phóng? Chủ vườn đòi hỏi chúng ta rằng điều này đã quá đủ. Và bây giờ người làm vườn chưa ưng nhận sự phán xét của Thầy nên trả lời: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13: 9), đúng là năm án treo, một năm hồng ân. Trong hội đường Nazareth, chính Chúa Giêsu hiện diện với sứ mạng được ủy thác ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia. Ngài được sai đến để công bố một năm hồng ân, một năm ân xá. Mỗi năm chúng ta sống là một năm mà chúng ta được tự do.
Sự chết không tấn công một cách mù quáng, nhưng là lời mời gọi chúng ta hoán cải đời sống. Đây là lý do tại sao phụng vụ cung cấp cho chúng ta bài suy niệm này ở trung tâm của Mùa Chay, khi chúng ta tiếp tục cuộc hành trình 40 để hướng tới việc cử hành lễ Vượt Qua, và chúng ta được mời đi tiếp Chủ Nhật tới để canh tân phép rửa của chúng tôi, nguồn nước hằng sống trào dâng từ trái tim của Chúa Kitô.
Vâng, lạy Chúa, khi con nhìn thấy những gì xảy ra trên thế giới, các tệ nạn gây đau đớn cho nhân loại và đau khổ đến anh em của con, con nghe thấy giọng nói của Chúa nói với con: “Hãy sám hối ngay ngày hôm nay. Tận dụng năm ân sủng, năm ân xá này, năm nay Ta vẫn chăm sóc con để con có thể sinh trái”. Amen.
11. Chú giải của Noel Quesson
Có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.
Đức Giêsu không sống trong một thời đại yên tĩnh về mặt chính trị. Những sự đụng độ thời bấy giờ còn đẫm máu hơn ngày nay: Biến cố mà người ta vừa loan báo cho Đức Giêsu, là sự kiện thường xảy ra. Có lẽ đó là một cuộc biểu tình của nhóm quá khích đang cố ngoi lên một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát. Ta có thể thấy thái độ phán quyết lập tức của mọi người Do Thái chân thành, đối với việc đàn áp đẫm máu này.
Người ta kể lại sự kiện này cho Đức Giêsu để xem Người có một lập trường, một thái độ như thế nào? Người sẽ lên án Philatô hay cảnh sát của ông này chăng? Người sẽ lên án những kẻ khuấy động vô trách nhiệm, đưa đám đông dân chúng vào những cuộc phiêu lưu không lối thoát chăng? Một lần nữa, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu khước từ bày tỏ lập trường về mặt chính trị, về lãnh vực trần gian. Ngài sẽ thản nhiên bình luận biến cố này trong tôn giáo tránh né bày tỏ thái độ đối với trách vụ Philatô, hay đối với các nạn nhân, Ngài chỉ nói về tội lỗi và thái độ hối cải. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống những biến cố xảy đến cho chúng con, với mức độ suy tư và tinh thần đức tin cao nhất.
Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Đức Giêsu đang cố phá đổ một thành kiến. Ngài đưa cuộc bàn cãi lên cao. Tâm lý thông thường cho rằng, những thử thách xảy đến cho một người, là như một sự trừng phạt cho kẻ đó. Ngày nay cách xét đoán như thế vẫn còn ở trong tâm trí chúng ta, thí dụ khi ta nói: “Thật là bất công, anh ấy đâu đáng phải chết trẻ như thế” hay là “chúng ta đã làm gì phật lòng Chúa, để Người gởi đến cho chúng ta một thử thách như thế này?”.
Đối với Đức Giêsu, không có sự liên lạc nào giữa tai hoạ và tội lỗi. “Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc Thiên Chúa được bảy tỏ hiện nơi anh”. Chính Đức Giêsu sẽ dễ dàng để ta tự gán cho mình một lương tâm tốt hay tự đặt mình vào số những người công chính. Chúng ta thường nghĩ rằng hoàn toàn chịu trách nhiệm: hoặc chính quyền, hoặc thể chế, hay xã hội!
Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.
Họ đã đến để đưa vụ Philatô và các nạn nhân ra xét xử. Nhưng bây giờ chính họ lại bị tố giác. “Các ông tưởng rằng, những người Galilê tội lỗi hơn các ông sao? Vấn đề là không phải bàn về “những người khác”. Đức Giêsu đưa họ trở lại với lương tâm của họ. “Các ông phải sám hối. Các ông dễ dàng lên án sự hung bạo của Philatô. Nhưng hãy nhìn xem, chính các ông lại không góp phần vào sự hung bạo đó sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta phải dám nói lên điều đó, vì lịch sử không ngớt chứng minh: Thay đổi cơ cấu xã hội không đủ. (Vì hỡi ôi! bất công và bạo lực vẫn tồn tại trong mọi chế độ) nhưng chính là tấm lòng con người cần phải thay đổi, phải hoán cải, để cho cơ cấu xã hội được cải thiện.
Vâng, lạy Chúa, con biết điều đó trong đáy lòng con. Con không có quyền lực trên mọi hành động hung bạo đang đè nặng trên một xứ sở xa xôi nào, cũng không có quyền gì trên những trào lưu đang ảnh hưởng môi trường xã hội, trường học, nghề nghiệp và Giáo hội của chúng con. Nơi duy nhất mà con có thực quyền, đó là sự hướng dẫn công cuộc “hoán cải”, của chính con.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng trốn tránh trách nhiệm của mình, bằng cách tố giác kẻ khác.
Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Chính Đức Giêsu nhân cơ hội này, đã nhắc lại một sứ mệnh khác. Trong một vùng ngoại ô thủ đô, một toà nhà đã đổ xuống đè chết nhiều gia đình. Ngày nay, trước một tai nạn như thế người ta củng cố tìm ra thủ phạm: những kiến trúc sư bất tài, chỉ lo tới lợi nhuận, mà không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn… Hay những người bất cẩn đã trở thành nạn nhân đã bị “trừng phạt” bởi một định mệnh vô danh nào đó, nếu không phải chính Chúa là Đấng chịu trách nhiệm: “Nếu có một Thiên Chúa, thì đâu có xảy ra tai hoạ như thế”.
Đức Giêsu trở lại vấn đề này như một điệp khúc: Không, đau khổ không phải do Thiên Chúa gởi đến! Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xảy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của quy luật tạo vật: Hấp lực trái đất, sự dòn mỏng, những sai lầm không tránh được. Thay vì buộc tội Chúa, là “Nguyên nhân đệ nhất” như’ các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những “nguyên nhân đệ nhị”, mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.
Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.
Cũng như mọi ngôn sứ trong Kinh Thánh, Đức Giêsu trước tiên là một nhà giảng đạo, không phải là người dạy luân lý dưới hình thức những bài học xã hội. Kiểu nói của Đức Giêsu, mang tính ngăn đe đáng sợ: “Các ông sẽ chết hết, nếu các ông không thay đổi”. Đức Giêsu chấp nhận tâm lý chung sao? (đau khổ là sự trừng phạt) mà Người vừa mới phủ nhận? Chắc không phải như vậy? Rõ ràng Đức Giêsu không nói về cái chết thể lý mà những người biểu tình bị tàn sát hay những nạn nhân do tháp đổ đã chết. Đức Gíêsu không không điên hay ngây ngô. Người quá biết người công chính cương: phải chết, Chính Người cũng phải lên thành Giêrusalem, để bị Philatô giết hại.
Nhưng Đức Giêsu, khi có ý đặt mình trên một bình diện khác với bình diện con người: Bình diện chính trị, luân lý hay xã hội, Người muốn mạc khải một chân- lý tôn giáo. Người khẳng định có một cái chết khác, một sự hư mất đời đời, mà không ai nghĩ đến và Người không ngừng nhắc đến. “Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết hết”: Không phải cái chết sinh lý mà các bạn nhận thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính nhiệm mầu do tội lỗi gây ra. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta “khám phá”: Thực sự chúng ta không có cách nào để kiểm chứng theo lý trí, với mức độ phân tách của con người, những điều Chúa nói. Đó thật là một “mạc khải”, một vấn đề đức tin.
Đức Giêsu mạc khải cho ta biết mọi người đều có tội, và được ban cho cơ hội hoán cải.
Vâng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người trở về với lương tâm của mình, Philatô chắc hẳn rồi? Nhưng cả những người Galilê nữa! Những thợ xây kém cỏi, hay các kiến trúc sư, và tất cả những người khác tưởng rằng mình đứng ngoài cuộc phán quyết. Còn tôi thì sao? Chắc hẳn tôi đang đặt tránh ra ngoài sự đe doạ mà Chúa đã nói, để tránh khỏi phải hoán cải…
Bao giờ thì chúng ta mới thức tỉnh ra khỏi tình trạng vô ý thức bi thảm của mình? Các nhà chú giải về Kinh Thánh nhấn mạnh về cách nói “triệt’ để” của Luca “Các ông sẽ chết hết”. Nhưng ta cũng cần lưu ý, kiểu nói mãnh liệt của Đức Giêsu luôn điều kiện. Nó mời gọi ta trở về với chính mình, với việc hoán cải bản thân. Thiên Chúa không lên án. Chính con người tự kết án mình phải chết đời đời: “Nếu các ông không ăn năn hối cải”. Thái độ mãnh liệt của Đức Giêsu, đó là sự mãnh liệt của một tình yêu Thiên Chúa đầy xót thương, không thể chịu đựng để thấy con người đi đến chỗ hư mất. Chúa đau khổ khi thấy loài người phải chết!
Chúng ta hãy nhớ rằng Đức Giêsu đang trao ban một sứ điệp tôn giáo, nghĩa là nói về Thiên Chúa. Điều này không có nghĩa là Người có thái độ trung lập trước những vấn đề nan giải của con người. Nhưng Người tự đặt mình trên một bình diện “mạc khải”: Người tố giác sự dữ đích thực của con người là gì? Trong mọi trường hợp, Người đều nhắc chúng ta rằng, không thể có sự thoả hiệp giữa Thiên Chúa và tội lỗi: Nếu ta ở trong tội ác, đó là tự lên án mình phải nhận cái chết nặng hơn là cái chết do gươm đao của binh lính Philatô, hay do những tảng đá của Giêrusalem đổ xuống.
Lạy Chúa, chúng. con biết lắng nghe lời Chúa hay không? Chúng con có tin Chúa hay không? Lạy Chúa Giêsu, do Chúa Cha gởi đến để chúc lành và cứu rối mọi người, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết hoán cải trong Mùa Chay này.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: `Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?
Chúng ta đang bàn về cùng một đề tài “Cuộc phán xét! Hành vi của con người không thể lãnh đạm, trung lập, không xấu không tốt. Chúng là “một quả”. Quan điểm hiện đại cố làm cho chúng ta tin vào một sự xoá bỏ mọi mặc cảm tội lỗi: không có gì tội lỗi nữa, con người đâu có trách nhiệm gì trước Chúa, không còn kiêng kỵ, ngăn cấm, lỗi lầm gì cả… Bạn cứ làm bất cứ điều gì mình thích “. Trái lại, Đức Giêsu nói: “Hãy chặt cây vô sinh không cho trái đó đi!” Người không những lên án “trái thối” mà còn lên án cả tình trạng “không sinh trái”.
Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.
Người “làm vườn” đầy tình thương với “cây nho” của mình, đó chính là Đức Giêsu mà chúng ta yêu mến. Người đã đến không phải vì những nguội công chính, mà vì các tội nhân. Người đã kể tất cả những dụ ngôn về lòng thương xót, đặc biệt được ghi lại đầy dấy trong Tin Mừng Luca (Lc 15). Do đó, những lời đe doạ khi này chỉ có một mục đích thức tỉnh chúng ta. Thiên Chúa thương yêu những người tội lỗi. Ngài yêu tôi! Không thể đối nghịch lòng thương xót với thái độ đòi hỏi: Vì chính tình yêu luôn mang tính đòi hỏi. Ta không lên bỏ câu cuối này: “Nếu không ông sẽ chặt nó”. Mùa Chay thật là thời gian thuận tiện cho một đòi hỏi triệt để nào đó của Tin Mừng.