Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 8 Thường Niên Năm C
Lc 6,39-45
1. Những bậc thầy mới
(R. Gutzwiller)
a. Tinh thần
Bản tính con người là muốn dạy bảo người khác. Có những người quyền thế luôn cho mình là người hữu lý, họ muốn chinh phục những ai nghĩ tưởng khác họ về với ý kiến của họ. Lối phê bình đó đưa họ tới chỗ xét đoán và kết án mọi chuyện, mọi người, dĩ nhiên là trừ một mình họ. Quả thực, những người ưa phê bình tỏ ra rất nhậy cảm trước những lời người ta ca thán về mình.
Trong nước Chúa, sự việc phải xảy ra khác hẳn: người ta không xét đoán, không trù rủa nhưng cho đi và tha thứ.
Điều này không có nghĩa là mọi phán đoán đều bị đình chỉ. Giữa sự đoán xét của cá nhân và sự xét đoán theo lương tâm chức nghiệp có một sự khác biệt về căn bản. Khi cha mẹ xét đoán con cái, người có bổn phận giáo dục đối với thanh thiếu niên, bề trên đối với bề dưới, quan toà với tội nhân, những người đó hoàn tất một bổn phận cần thiết và do Thiên Chúa muốn. Thái độ của họ tuỳ thuộc vào tinh thần hướng dẫn họ. Và đó phải là một tâm tình khiêm hạ: không coi mình là hay hơn, tốt hơn người khác, phải xét đoán họ theo những quy tắc của họ, và phải áp dụng cho mình những đòi buộc tương tự, nếu không muốn nói là áp dụng cho mình những đòi hỏi cao hơn…
Sự dèm pha chua chát, kiểu phê bình không chút xót thương, những cách kết án phi nhân đạo, chủ nghĩa giáo điều vênh vang tự đắc, tất cả những cái đó nghịch với tinh thần của Đức Kitô.
b. Động lực
Chúa Giêsu đưa ra ba động lực chính để điều chỉnh thái độ của chúng ta:
Thứ nhất và trọng nhất là mối liên hệ của ta với Thiên Chúa. Chúng ta đang đứng trước pháp đình và không thể tự bào chữa cho mình được. Do đó, hẳn ta sẽ nghĩ đến lòng nhân từ. Như vậy ta phải thông cảm với bất cứ con nợ nào, và phải có tâm hồn bao dung, không xét đoán theo những luật lệ khắc nghiệt. Nhưng hành động theo lòng trắc ẩn. Những quan hệ đứng đắn với Thiên Chúa sẽ điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với nhau.
Thứ hai là mối quan hệ giữa người với người. Ai dạy dỗ người khác thì coi mình là người hướng đạo, trường hợp này điều chủ yếu là hướng dẫn viên phải sáng suốt để tránh tình trạng mù lại dẫn mù, và cả hai đều sa xuống hố.
Chỉ có hướng dẫn viên nào biết mình và xét đoán bản thân mình cách quân bình mới có thể hiểu biết và xét đoán tha nhân. Trong việc điều khiển chính xác, những điều kiện đầu tiên nhằm vào vị thủ lãnh. Mọi sự cải tổ đúng nghĩa đều phải khởi sự từ chính bản thân mình. Ta chỉ có thể phê bình người khác sau khi đã tự phê chính bản thân ta.
Thứ ba là phải có một caí nhìn thấu suốt chính bản thân mình. Bởi vì kẻ cho mình là tốt hơn tha nhân, theo lời Chúa Giêsu, là kẻ giả hình. Y tạo cho mình vẻ bề ngoài giả dối và hành động của y cũng như vậy. Y kêu rêu vì cọng rơm trong mắt anh em như thể mắt y không có gì cả, đang khi thực sự mắt y lại có cả một cái xà che khuất.
Như vậy, lý do Chúa Giêsu đưa ra đây hạ dần từ Thiên Chúa xuống tha nhân, và rồi đến chính mình. Ai tỏ ra lạnh nhạt với động lực đạo đức (quan hệ với Thiên Chúa). Thì ít là phải tỏ ra mẫn cảm với động lực xã hội… Nếu không, hẳn sẽ phải nhận mình là dị hợm vì khi đi khiển trách tha nhân và đề cao mình khi tìm cách cải thiện những kẻ tốt hơn mình và khi để ý đến lầm lỗi tha nhân, thì lại bị mọi người chế nhạo.
c. Lửa thử vàng
Muốn biết vị thày nào đáng cho ta tin cậy hay không, nên xem xét những việc ông ta làm, đây là tiêu chuẩn chắc chắn. Xem quả thì biết cây. Những hành vi lương hảo tượng trưng cho hoa trái chín thơm trên thân cây lành mạnh; còn hành động xấu xa là hoa trái ung thối do thân cây sâu bệnh mà ra.
Sự thiếu hoạt động nơi con người, có thể ví như một cây khô héo không còn sinh hoa kết quả: bởi vì không lẽ ta hái vả nơi bụi gai và vặt nho nơi cây dâu đất. Chẳng nên căn cứ vào lời lẽ bay bướm, hứa hẹn hay chương trình ồn ào phĩnh phờ, tình cảm kiểu cách biểu lộ hấp dẫn, hàng chuỗi sưả soạn nội bộ.
Bình tĩnh nhận xét hành vi và nếp sống là tiêu chuẩn định giá trị, là bằng chứng điều họ xác tín, và như thế ta biết có thể tin vào sự hướng dẫn của họ hay không. Nói cho cùng, hành động tinh thần chỉ là một, sự nhất trí này là mức độ sự thành toàn.
Bài giảng trên núi kết thúc bằng hình ảnh đặt quan trọng ở cách cư xử. Một ngôi nhà xây trên nền đá vững chãi, bão tố không làm chi được; còn căn nhà dựng trên bãi cát, sẽ sụp đổ một khi mưa giông, bão giật đổ tới. Người nào không chỉ nghe suông, nhưng mang ra thực hành, thì giống như người xây nhà trên đá; còn người nghe và hồ hởi đón nhận, nhưng tư cách không phù hợp với giáo lý là người xây nhà trên cát.
Chỉ có cách sống được tinh thần Chúa Kitô hướng dẫn mới là một Kitô giáo chân thực mà thôi.
2. Suy niệm của NCK
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn là người đang có trách nhiệm hướng tinh thần hoặc tâm linh dẫn một số người, chẳng hạn những người trong gia đình bạn, con cái bạn, hay một tập thể lớn nhỏ nào đó. Bạn có ý thức rằng nếu bạn không đủ khôn ngoan sáng suốt thì bạn sẽ dẫn cả gia đình hay tập thể của bạn vào con đường sai lầm tai hại không? Bạn phải làm gì để tránh được tình trạng đó?
2. Có thể căn cứ vào lời nói của một người để biết người đó tốt hay xấu, ngay thẳng thật thà hay quanh co gian dối không? Kinh nghiệm cho bạn thấy thế nào về những người khéo nói, nói hay, nói giỏi?
3. Tại sao thấy lỗi của người thì dễ, mà thấy lỗi của mình thì khó? Bạn có thấy mình có khuynh hướng xấu ấy không? Làm sao để sửa?
Suy tư gợi ý:
1. Những người dẫn lối chỉ đường cần phải sáng mắt
Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?. Đức Giêsu đưa ra một chân lý liên quan đến việc hướng dẫn, lãnh đạo bằng một minh họa rất cụ thể. Về tinh thần hay tâm linh, người không đủ khôn ngoan sáng suốt về mặt này mà lại dẫn lối chỉ đường cho người khác đi, thì chỉ có nước làm hại người ta thôi. Làm hại người ta về mặt vật chất nhiều khi không tai hại bằng làm hại người ta về mặt tâm linh. Vì thế, những người đang có trách nhiệm hướng đạo về mặt tâm linh cần phải có khả năng đích thực, phải biết nhìn xa trông rộng, và nhất là phải có tình yêu rộng mở, có lòng nhiệt thành, và có một đời sống tốt đẹp phù hợp với những hiểu biết về tâm linh.
Những người hướng dẫn người khác về mặt tinh thần hay tâm linh, không những phải có những kiến thức đúng đắn và lành mạnh về tâm linh, mà còn phải có một đời sống tâm linh thật sự và sâu xa nữa. Thời nay, rất nhiều người hướng dẫn tâm linh quá chú trọng tới những kiến thức (về tâm linh, về đời sống tâm linh, về Thiên Chúa, về đạo đức, về những việc phải làm), nhưng lại quá ít chú trọng tới kinh nghiệm đích thực về tâm linh, không chủ yếu giúp người khác cảm nghiệm về Thiên Chúa, có tương quan thật sự cá nhân với Ngài. Người được họ hướng dẫn nhận thấy họ nói quá nhiều và quá hay so với thực tế họ sống và cảm nghiệm được. Họ quên rằng đời sống nội tâm của người hướng dẫn về tâm linh có sâu xa thì mới có khả năng hấp dẫn và lôi cuốn người khác đi vào con đường ấy. Lời nói hay chỉ có tác động thoảng qua, còn gương sống mới có tác dụng lôi cuốn đích thực. Người hướng dẫn sáng suốt là người giúp người khác sống được, thực hành được, chứ không phải chỉ giúp họ hiểu rõ hay hiểu đúng mà thôi.
2. Căn cứ vào hành động mà biết được con người
Ngày nay, người ta chán ngán nhiều người trong xã hội cũng như trong Giáo Hội nói quá hay mà làm chẳng ra làm sao. Nhiều từ ngữ, nhiều tuyên bố kiểu dao to búa lớn, nghe rất kêu nhưng nội dung rỗng tuếch được lập đi lập lại hằng ngày trên các đài phát thanh, trên tivi, trên các chương trình quảng cáo, trên các bài giảng, bài báo, trong các mẩu đối thoại, những cuộc nói chuyện, v.v. Nhiều người lầm tưởng những người nói hay như vậy, là những người tốt. Nhưng Đức Kitô đã đưa ra cho chúng ta một nguyên tắc rất thực tiễn để biết được ai tốt ai xấu: Cứ xem quả thì biết cây. Để biết một người là tốt hay xấu, phải nhìn vào hành động của họ, chứ không chỉ nghe lời họ nói. Lời nói hay chỉ có thể chứng minh được sự thông minh và lanh lợi, khả năng suy nghĩ sâu xa hay nông cạn của người đó, chứ không nói lên được tính đạo đức, tình yêu thương, sự quảng đại, cao thượng, ngay thẳng, trong sáng, can đảm của họ.
Kinh nghiệm đời thường cho thấy người càng hô hào cổ vũ bằng miệng nhiều, càng tuyên bố nảy lửa, giật gân, hùng hồn, thì càng ít hướng về hành động. Nghĩa là càng nói nhiều thì càng làm ít.
Kitô giáo – cũng như linh hạnh Khôi Bình – là một đường lối sống, là một con đường hành động, chứ không phải là một lý thuyết để học hỏi, để bàn luận, tranh cãi. Đặc tính của Kitô giáo – cũng như linh hạnh Khôi Bình – là nghiêng về hành động, hay hướng về hành động. Lý thuyết tuy rất cần thiết, nhưng chỉ là phương tiện để đi đến hành động. Lý thuyết mà không đi đến hành động chỉ là lý thuyết xuông, vô giá trị. Thế giới được biến đổi nên tốt đẹp hơn là nhờ những con người hướng đến hành động hơn là những con người lý thuyết.
Vì thế, mỗi Kitô hữu, mỗi thành viên Khôi Bình, muốn sống đúng lý tưởng hay bản chất của mình, thì phải tự phấn đấu để trở nên một con người của hành động. Nghĩa là phải biến tất cả những điều mình chủ trương thành thực tế, phải biến Tin Mừng của Chúa Kitô thành hành động cụ thể. Tuyệt đối tránh tình trạng nói mà không làm, hay nói nhiều mà làm ít. Tốt nhất người Kitô hữu hay thành viên Khôi Bình nên nói ít mà làm nhiều. Làm cho bằng được rồi mới nói mới khuyên. Chưa làm được thì chưa nói gì, chưa khuyên ai.
3. Tự sửa mình nhiều hơn sửa người khác
Người chủ trương làm nhiều hơn nói, tự nhiên sẽ quan tâm tới hành động của mình hơn là xét nét hành động của người khác. Họ sẽ tự xét xem hành động của mình còn thiếu sót chỗ nào, cần phải sửa chỗ nào. Họ nhận thấy sửa chính bản thân mình thì dễ thực hiện vì điều ấy tùy thuộc vào chính mình, do mình làm chủ, nên hễ mình muốn sửa là sửa được. Còn sửa lỗi người khác thì khó hơn rất nhiều vì điều ấy không tùy thuộc vào mình, không do mình làm chủ. Vả lại, họ muốn chính mình nên thánh trước đã. Mình đã là thánh rồi thì cảm hóa hay sửa chữa người khác sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Nếu bản thân mình còn đầy khiếm khuyết, thì mình sửa sang ai được? Người ta sẽ bảo Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy mình đã, đừng làm theo kiểu Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Đức Kitô muốn chúng ta – những Kitô hữu, hay những thành viên Khôi Bình – hãy tự xét lỗi chính bản thân mình đã, chứ đừng vội xét lỗi người khác. Thường thì ta dễ thấy những lầm lỗi của người khác, cho dù lầm lỗi ấy rất nhỏ. Còn những lầm lỗi của chính mình thì mình lại không thấy, cho dù rất lớn. Nếu một tập thể hay một gia đình mà trong đó ai cũng đều có tính chỉ nhìn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi của chính mình thì đời sống chung sẽ rất khó chịu. Khi chỉ thấy lỗi của người khác, thì mình sẽ dễ dàng trách móc, bực bội, hờn giận người khác, và sẽ thấy thật đau khổ khi phải sống chung với những người ấy.
Đây là một khuynh hướng chung trong tâm lý mọi người. Nếu chúng ta không ý thức và phản tỉnh, hay nói theo từ của Tin Mừng là không tỉnh thức, thì chúng ta khó lòng thoát khỏi tật xấu đó. Rất có thể ta đang có tật đó mà không biết, hoặc tưởng là không có. Chính tôi – người viết bài này – nhận thấy nhiều người chung quanh mình được coi là loại khá phản tỉnh mà cũng mắc phải tật này. Và biết đâu người khác nhìn vào tôi cũng thấy tôi có tật như vậy, đang khi chính tôi lại tưởng mình không hề có tật ấy!? Phải xét mình thường xuyên ta mới tránh được tật xấu này.
Nguyện:
Lạy Cha, xin cho con nhận ra những lầm lỗi của con, chứ không phải thấy lỗi của người khác. Thấy được lầm lỗi của mình thì có lợi hơn thấy lầm lỗi kẻ khác. Nhờ đó mà khiêm nhượng hơn, dễ sống với người khác hơn. Xin cho con đủ thành thật và khiêm nhượng để thấy được lỗi của chính mình. Amen.
3. Lời nói – Việc làm – Ơn Chúa
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa – của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Ðọc và nghe lần đầu, chúng ta khó bắt được ý tưởng của các bài Kinh Thánh hôm nay. Ðó không phải là những lời khó hiểu. Những ý tưởng sở dĩ không dễ bắt vì cấu trúc của những đoạn văn này không chặt chẽ, và các tác giả dường như nói đến những vấn đề rất khác nhau. Chúng ta đừng lấy làm lạ vì trong các Chúa nhật quanh năm, phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về đời sống đạo mỗi lần một tí và không cần theo một hệ thống nào. Vì đạo là sự sống chứ không phải là một hệ tư tưởng. Ðối với một hệ tư tưởng, muốn thuyết minh người ta phải theo luận lý đầu đuôi chặt chẻ. Còn đối với sự sống, không có quy luật tăng cường cố hữu nào. Mỗi chân lý đều co thể biệt lập mà vẫn có thể mồi thêm cho sự sống tinh thần của con người.
Tuy nhiên chúng ta có thể nói rằng ba bài Kinh Thánh hôm nay đều muốn nói đến việc phân biệt con người đạo đức thánh thiện, nhờ lời nói, nhờ việc làm, và nhất là nhờ ơn Chúa.
1. Lời nói
Bài sách huấn ca không có vẻ gì là đạo đức cả. Ðó là mấy câu kinh nghiệm. Nó thuộc loại văn khôn ngoan, dạy cách xư xử ở đời. Nhưng nếu đặt những câu dạy khôn ngoan này vào văn mạch và luận lý của tác giả, chúng ta thấy chúng phục vụ đạo đức và rất có giá trị.
Tác giả Ben Sira là một học giả Do Thái, sống ở đầu thế kỷ II trước công nguyên. Như các nhà trí thức đương thời ông hiểu biết nền văn minh Hy Lạp đang thịnh hành ở mọi nơi. Nhưng vì là con người có đạo, ông biết dùng lời Chúa để phê phán nếp sống do nền văn minh ấy tạo ra. Và ông muốn chia sẻ các suy nghĩ của mình với đồng đạo và đặc biệt với lớp trẻ Do Thái đang lớn lên và hít thở nền văn minh Hy Lạp. Ông đã đưa ra nhiều nhận xét mới về đời sống gia đình (25,1-26,18). Ông đã đề cập tới nhiều nét trong đời sống xã hội, mà nổi bật nhất là nền mậu dịch, thương mại thời bấy giờ (26,28-27,15).
Ðây là điểm bén nhậy đối với người Do Thái. Họ biết làm ăn. Có thể nói họ có máu buôn bán. Việc tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp đã tạo nên nơi các cộng đồng Israen nhiều trung tâm thương mại nổi tiếng.
Tại đây người Do Thái buôn bán với dân ngoại. Họ không còn sợ luật pháp và để ý đến các tiêu chuẩn đạo đức nữa. Có thể nói họ như cảm thấy được ra khỏi đạo và các ràng buộc xưa nay của lương tâm công giáo. Chỉ còn một luật chi phối công việc làm ăn của họ là: mua rẻ bán đắt. Và cho được như vậy, môi mép và lời nói là phương tiện được sử dụng tối đa. Các tiên tri đã nhiều lần lên án các thói buôn gian bán lận và đời sống bê bối của các thương gia.
Ben Sira cũng nhất trí cảnh cáo: giữa bán và mua tội chen vào giữa. Ông không thích doanh thương vì buôn bán làm sao vô tội? Nhưng ông chẳng cấm được. Và dường như ông biết lời khuyên chẳng công hiệu gì nơi tại kẻ đếm tiền. Có lẽ vì vậy ông quay sang nói với khách hàng, với những người dân vô tội phải đến mua ở các cửa tiệm. Ông thấy họ nhiều khi đã trở thành mồi ngon của các con buôn. Và như vậy chỉ vì họ dễ bị lời nói mua chuộc. Vừa nghe con buôn quảng cáo hàng hóa là họ đã sa bẫy.
Thế nên trong đoạn văn vắn tắt này Ben Sira khuyên người ta đừng vội tin lời nói của con buôn. Hãy để cho nó nói mãi đi, cuối cùng điều nó che giấu sẽ lòi ra. Chẳng khác gì cứ sàng mãi, trấu bẩn sẽ còn lại và gạo sẽ lọt xuống… Và cũng như cứ đi qua lò, thì đồ sành thợ gốm sẽ được hay không. Hoặc cũng như phải chờ khi có quả mới biết cây dại hay cây tốt. Và Ben Sira kết luận cứ thong thả nghe lời biện luận của con người sẽ biết tâm tư của họ. Thành ra không nên vội phán đoán một ai trước khi nghe nhiều lời người đó nói.
Như vậy từ thái độ phải có đối với người mua bán, tác giả đã dẫn chúng ta sang thái độ phải có đối với mọi người: đừng vội tin ai và phê phán ai trước khi nghe người đó nói, bởi vì tâm tư con người lộ bày khi biện luận. Tác giả có lạc quan quá không? Có thể luôn luôn căn cứ vào lời nói của con người mà đánh giá họ không, cho dù không phải là tin vào một lời, nhưng là đã nghe người ấy luận lý rất nhiều? Tác giả Luca dường như không hoàn toàn tin như vậy. Người đưa thêm một số tiêu chuẩn nữa để hiểu biết con người như trong bài Tin Mừng sau đây.
2. Việc làm
Chúng ta bảo Luca là tác giả của bài Tin Mừng này, mặc dù đây là Lời Chúa đã thốt ra từ miệng Chúa Giêsu Kitô. Chắc Chúa đã không nói tất cả những lời này một lần và không theo một thứ tự như ở đây. Rõ ràng chẳng có một thứ tự luận lý nào để khẳng định Chúa đã nói luôn một lần những điều ít ăn khớp với nhau. Cũng như tư tưởng này và những câu văn như thế, trong sách Tin Mừng Mátthêu chẳng hạn, lại nằm ở những chỗ khác và phục vụ những chủ đề khác. Như vậy chúng ta có thể nói được rằng, tác giả Luca đã dùng những câu Chúa nói ở những trường hợp khác nhau đem xếp cả vào chỗ này để phục vụ một chủ đề nào đấy.
Nếu chúng ta còn nhớ, thì Chúa nhật trước chúng ta cũng đã đọc sách Tin Mừng của Luca. Ðoạn trích hôm nay tiếp theo bài đọc lần trước. Thế mà hôm đó chúng ta đã thấy rằng Chúa dạy chúng ta phải yêu thù địch, không còn được duy trì đầu óc kỳ thị và phân biệt, và phải coi mọi người là con cái một Cha trên trời và hết thảy là anh em của nhau. Hôm nay dường như tác giả Luca muốn tiếp nối tư tưởng trên và nói đến thái độ bác ái ngay trong cộng đoàn các môn đồ của Chúa, tức là chính trong lòng Hội Thánh và Giáo Hội.
Chắc chắn câu đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay phải hiểu về các người lãnh đạo cộng đoàn tức là hàng giáo sĩ: linh mục, giám mục hiện nay của chúng ta. Thực ra câu văn có thể dùng trong một trường hợp khác. Và trong Mátthêu câu này đã được tuyên bố về giới tư tế, lãnh đạo trong Do Thái giáo. Họ là những người mù dẫn đàng cho người mù. Nguyên khởi đó chỉ là một câu cách ngôn. Chúa Giêsu có lần dùng để nói về luật sĩ và biệt phái vì họ không biết mở mắt đón nhận đường lối của Thiên Chúa đang bày tỏ nơi công việc của Ðấng Ngài sai đến. Họ ở cương vị lãnh đạo mà mù thì dẫn đàng chỉ lối cho người khác sao được?
Tác giả Luca nhớ có lần Chúa nói như vậy. Nay đang viết những lời Người khuyên bảo môn đồ, Luca sực nhớ câu đó. Người thấy nó vẫn hợp để nói với giới lãnh đạo trong Hội Thánh. Những người này cần nhớ rằng: ở cương vị lãnh đạo, họ phải sáng suốt. Ðó là thái độ bác ái quan trọng nhất họ phải thi hành cho những người được trao phó cho họ.
Nhưng trong Hội Thánh, không phải chỉ có các nhà lãnh đạo. Ðại bộ phận Dân Chúa được gọi là môn đồ. Và tư cách đầu tiên, thái độ bác ái cơ sở của người môn đồ nằm trong quan hệ với Thầy mình. Môn đồ không lẽ hơn Thầy, hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy. Lời này thoạt nghe có vẻ chua chát, nhưng nếu nhớ Thầy của các môn đồ chính là Chúa Giêsu Kitô, thì đây là cả một lý tưởng cao cả: môn đồ phải cố gắng nên hoàn bị như Thầy.
Sau hai câu nói với hai hạng người trong Hội Thánh, những câu sau có thể nói, mới thật sự vào đề và muốn dạy dỗ mọi thành phần trong cộng đoàn tín hữu. Họ không nên để ý đến khuyết điểm của anh em trước, nhưng trước hết hãy muốn nhờ anh em giúp mình sửa đổi tính hư nết xấu. Nếu làm như vậy chắc chắn sẽ không có cãi cọ bất bình; một cộng đoàn như thế chắc chắn mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Ai mà không có cảm tình yêu thương đối với người muốn sửa mình? Bác ái cộng đoàn được xây dựng chắc chắn nhất, khi các phần tử trong cộng đoàn luôn ý thức bổn phận phải sửa mình, trước khi nói đến các khuyết điểm của anh em. Nhất là khi trong cộng đoàn ấy, ai cũng theo gương Chúa mà sửa mình như trên vừa nói: hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy?
Thế nên người tốt phải chứng tỏ qua việc làm. Chúng ta đừng tưởng ở đây Luca mâu thuẫn hoặc nói khác với tác giả sách Huấn Ca. Cả hai đã trích câu tục ngữ: Xem quả biết cây. Nơi tác giả sách Huấn Ca, lời nói và biện luận là quả do tâm tư con người. Luca công nhận điều ấy vì ở đây người cũng viết: lòng ứa đầy những gì thì miệng nói ra. Nhưng lời nói nơi Luca không phải chỉ là các âm, các tiếng, mà còn là tất cả mọi việc mà con người làm. Các việc này cũng bày tỏ “lòng” người ta, vì “người lành tự kho lành lòng mình mà đem ra sự lành, và người dữ tự tính ác mà đem ra sự ác”.
Như vậy Luca muốn đầy đủ hơn tác giả sách Huấn ca. Người khiến chúng ta nên giải thích bài sách này một cách rộng rãi nhưng vẫn hợp ý với tác giả. Như chúng ta biết, ông viết những lời trên là để cảnh giác con cái Israen đề phòng sự gian dối của phường mua bán. Và sở dĩ như vậy vì ông thấy quá nhiều bất công và tội lỗi trong việc mua đi bán lại. Ông muốn xã hội công bằng huynh đệ hơn.
Vì thế chúng ta có thể hiểu bài sách Cựu Ước hôm nay về lòng bác ái. Cũng như bài Tin Mừng vậy. Nhưng ở một mức độ sâu sắc hơn. Tác giả sách Huấn Ca thấy thiếu bác ái trong việc mua bán. Tác giả Luca còn nhìn thấy trong thái độ người ta hay phê bình và chỉ trích nhau. Cuối cùng cả hai đều công nhận phải sửa chữa từ tâm tư và từ “lòng” con người. Do đó muốn biết người tốt, phải xem lời nói, phải xét việc làm. Nhưng muốn có lời tốt và việc lành, phải sửa đổi tâm tư và lòng trí, là con người bên trong của chúng ta. Có thể làm công việc này không?
3. Ơn Chúa
Theo thánh Phaolô trong bài thư hôm nay, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường sinh, thì bấy giờ con người mới thực sự công chính. Và đức bác ái yêu thương mới trọn vẹn. Ðối với chúng ta dĩ nhiên là như vậy rồi. Nhưng các độc giả trực tiếp của thánh Tông đồ, tức là những người Côrintô thời bấy giờ, chân lý ấy nên được giải thích rõ ràng hơn. Bởi vì họ là những người Hy lạp tòng giáo. Ít ra họ là các tín hữu mới mẻ đang hít thở bầu khí văn hóa Hy Lạp. Những người này quan niệm xác và hồn nơi con người là hai yếu tố rất dị biệt, chẳng thể hòa hợp với nhau. Hồn ở trong xác như ở trong tù, chỉ chờ đợi ngày thoát ra khỏi xác để được trở về sống như những thần linh, bởi vì trước kia linh hồn cùng ở chung với các thần thánh, nhưng đã sa đọa nên rơi vào xác thịt và bị giam ở đó. Thành ra bao lâu còn sống trong xác thể, linh hồn còn khổ sở và ấm ức. Con người không có sự hòa hợp ngay trong chính mình, nên cũng chẳng có hòa hợp được trong xã hội. Linh hồn đợi ngày giải thoát ra khỏi thân xác.
Quan niệm như vậy không hợp với đức tin. Ðành rằng xác thịt con người hiện nay là mồi cho sự chết. Nhưng chết không phải là hết. Nhờ sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, thân xác con người cũng sẽ sống lại. Không phải để rồi lại sống như trước đây, nhưng để trường sinh bất tử như “thần thánh”. Và sở dĩ như vậy là vì xác thể con người sẽ mặc lấy sự bất hoại, là đặc tính của Thiên Chúa. Lúc ấy con người sẽ ca khúc khải hoàn chế nhạo sự chết: Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu, ngươi đã dùng tội lỗi làm nọc sát hại con người. Và tội lỗi đã tỏ ra mãnh liệt trong chế độ Lề luật, toàn là cấm đoán mà không có cứu độ. Nhưng nay Chúa Giêsu Kitô đã đem ơn cứu độ đến, tẩy sạch tội lỗi, làm vô hiệu nọc của tử thần, khiến con người có Ơn Chúa không còn chết nữa.
Như vậy ơn của Chúa Giêsu Kitô cứu sống chúng ta khi tiêu diệt tội lỗi, và ban cho ta sự sống mới, sự sống của Thiên Chúa thay thế sự sống của xác thịt tội lỗi trước đây. Do đó ai muốn nên công chính, muốn sống bác ái yêu thương phải để cho Ơn của Chúa Giêsu Kitô biến đổi tâm tư và lòng trí. Và công việc này phải làm trong kiên nhẫn, không nao núng. Phải nhờ làm thêm nhiều việc lành, mà thánh Phaolô gọi là việc của Chúa.
Như vậy, người tốt không phải ở lời nói, nhưng ở việc làm, và nói rõ hơn, ở việc làm của Chúa. Ơn của Chúa là yếu tố cuối cùng quyết định sự công chính của con người chúng ta vậy. Và ơn của Chúa phong phú nơi các Bí Tích, đặc biệt trong mầu nhiệm thánh lễ. Nơi đây Chúa ban cho chúng ta bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng, để chúng ta có sức sống của Thiên Chúa, làm được các việc Chúa là các việc lành, hầu tâm tư, lòng trí chúng ta dần dần được cải hóa nên công chính. Chúng ta sẽ có những lời nói việc làm đầy bác ái yêu thương. Không những đời sống bản thân sẽ đạo đức hơn mà đời sống xã hội cũng công chính hơn. Bài thư Phaolô giúp ta đạt được những điều nhắn nhủ trong hai bài sách Huấn Ca và Tin Mừng vậy.
4. Chú giải của Noel Quesson
Luca đã tập họp trong bài diễn từ này của Đức Giêsu, những câu ngắn, những “logia ” hoặc “lời” về thái độ của các môn đệ chân chính: Chúa nhật vừa rồi, chúng ta đã nghe giớ răn phải yêu thương các kẻ thù… hôm nay, vấn đề là thái độ của chúng ta đối với anh em trong cộng đoàn…
Đức Giêsu còn kể cho môn đệ dụ ngôn này: “Mù mà lại dắt mù, được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?”
Đây là một dụ ngôn hết sức ngắn như một câu tục ngữ. Chúng ta lưu ý thể nghi vấn của dụ ngôn ấy: Đức Giêsu không trả lời thay chúng ta. Người khêu gợi ý thức của chúng ta. Trong đoạn văn song song của Thánh Mát-thêu: nhận xét này dùng để cảnh giác chống lại: Người Biệt Phái, họ tự hào “hướng dẫn” những người khác nhưng lại là những “người mù ” trước biến cố trọng đại của Đức Giêsu.. Đấng. phát ngôn của Thiên Chúa (Mt 15,14; Ga10, 40). Phần Luca, ngài nghĩ nhiều đến những người đứng đầu các cộng đoàn Kitô hữu mà ở nơi khác, ngài gọi là các “người hướng dẫn” (Lc 22.26) “hégouménoi”. Ở Đông Phương, các Cha dòng đứng đầu tu viện luôn luôn được gọi là các Hogoumènes.
Lời của Đức Giêsu về những người “hướng dẫn mù” tự hào mình dẫn dắt được những người khác có thể được áp dụng cho tất cả chúng ta bởi vì trong lãnh vực này hay trong lãnh vực khác, chúng ta đều có trách nhiệm “hướng dẫn”: một gia đình, một xí nghiệp, một nhóm, một hiệp hội, một đô thị. Trách nhiệm của tôi là gì? Tôi có trách nhiệm với ai? Ai thuộc về tới? Tôi có khả năng không? Tôi có sáng suốt không? Tôi có nhìn thấy rõ ràng không? Lạy Chúa, con cầu xin Chúa cho tất cả những người mà con có trách nhiệm. Xin Chúa giúp con tránh được các cạm bẫy đó, những cái “hố” đó trên đường đi của chúng con. Xin Chúa làm cho con nhìn thấy rõ.
Học trò không hơn thầy, có học hết chứ cũng chỉ bằng thầy mà thôi.
Một dụ ngôn ngắn khác: thầy và trò. Để được sáng suốt để trở nên một’ “Người hướng dẫn” tốt, một người phụ trách tốt, phải được một ông thầy tốt đào tạo. Trong việc đào tạo ở trường Đại học, các nhà bác học danh tiếng nhất hôm nay đều nói về các ông thầy “đỡ đầu” của họ với lòng tôn kính và biết ơn; các ông thầy đỡ đầu ấy đã hướng dẫn việc học tập của họ cũng như khi họ làm luận văn và khi họ gặp khó khăn trong công việc, họ lại đến gặp các ông thầy ấy để tham vấn. Cũng thế “Người thợ học việc” phải tôn kính và biết ơn “thầy dạy nghề” của mình.
Tuy nhiên ngày nay, người ta nhận thấy một sự từ khước ông thầy, một sự đề cao bệnh hoạn về tính chất không định hướng trong sư phạm cũng như trong các thương vụ. Thời thượng bây giờ là chia sẻ, giao lưu… và người ta khó mà chấp nhận những bài giảng của các bậc thầy, những bài thuyết giáo. Khía cạnh tích cực của xu hướng này đang được đánh giá: Đó là lúc nào cũng hoạt động hơn và sự tham gia của cá nhân trong việc lãnh hội một kiến thức nào đó. Nhưng khía cạnh tiêu cực của việc từ chối ông thầy là một lòng kiêu ngạo, một sự từ chối tiếp nhận mà trong thực hành dẫn đến một thứ bình quân ở cấp thấp (cào bằng xuống thấp).
Thật vậy không có chân lý hay khoa học nào mà không được tiếp nhận. Điều đó đúng với các chân lý khoa học, chúng chỉ phát triển nhờ một thứ tuân theo thực tại, khuôn mình theo các sự vật. Điều đó càng đúng hơn đối với các chân lý đức tin vốn không phải để chinh phục mà là để tiếp nhận. Khi điều chủ yếu là tiếp nhận sự mạc khải thì học trò không thể hơn thầy… mà chỉ có thể để cho thầy đào tạo. Và Đức Giêsu tự giới thiệu như vị thầy đó; Người biết nhưng việc mà chúng ta không biết.
Nền văn minh của các sách vở in ấn đã thay đổi sâu sắc tương quan “thầy trò” bằng cách trí thức hóa tương quan ấy. Trong những nền văn minh truyền khẩu, người ta không thể học một mình, tiến bộ một mình, nhưng chỉ tiếp xúc lâu dài với “ông Thầy”, nhà “hiền triết”, “thầy guru”: Lúc đó, không chỉ là sự truyền đạt kiến thức bằng đầu óc nhưng là học tập một nghệ thuật sống… mà không một cuốn sách nào có thể truyền đạt được. Đức tin trước hết được chuyển thông từ người này qua người khác. Còn hơn cả mốt kiến thức, đó chính là một đời sống. Đức Giêsu tự giới thiệu như “vị thầy của sự sống”: phải chăng tôi thường tìm gặp Người? phải chăng tôi khao khát sự “đào tạo” sống ấy mà Người đề nghị? Tôi có là một “môn’ đệ” chân chính không? Lạy Chúa, xin giúp đỡ chúng con để con không nên bằng lòng với những kiến thức lý thuyết về Tin Mừng, những biết sống với Chúa ngày này qua ngày khác.
Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?
Chúa nhật vừa rồi, chúng ta đã nghe Đức Giêsu nói với chúng ta đừng xét đoán đừng lên án. Nhưng, khi người ta có trách nhiệm (và chúng ta đều có trách nhiệm ở một số điểm) người ta phải đưa ra những phán đoán, chỉnh, lý những sai lầm, giúp đỡ những người khác thậm chí nói trái ý họ và sẵn sàng xung đột với họ nếu chúng ta nhận thấy có cả điều xấu. Đó là bổn phận của trách nhiệm “cảnh cáo anh em”: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi” (Mt 18,15; Lc17,3)
Môn đệ của Đức Giêsu không thể giữ sự trung lập trước một số hoàn cảnh hay tình – thế.Những trong vai trò sửa chữa, chỉnh lý, trong cuộc chiến đấu chống lại điều ác Đức Giêsu cảnh giác chúng ta trước một cám dỗ rất thường gặp: Chúng ta có nguy cơ phóng đại điều xấu nơi những người khác và giảm thiểu điều xấu trong chúng ta! Hình ảnh cái rác và cái xà khó mà quên được và một Câu Chuyện giống vậy thuộc Phương Đông làm cho câu chuyện chua chát hơn. Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con trước hết phải trở nên đòi hỏi đối với chính mình, phải sắng suốt đối với chính mình. Xin Chúa giúp chúng con nhìn thấy trong những người khác điều tích cực nhiều hơn đều tiêu cực.
Hỡi kẻ đạo đức giả! lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!
Đức Giêsu đối xử mạnh mẽ với Người phóng đại cái rác trong con mắt người anh em, như “kẻ đạo đức giả”, trong bản văn tiếng HyLạp là “upocritès:. Từ này dịch ra tiếng Do Thái là “hanef”, có nghĩa là “Con Người có phán đoán sai lầm và không biết nhận ra chân lý, còn quay lưng lại với Thiên Chúa”. Theo Lu ca, Đức Giêsu còn dùng từ ngữ mạnh mẽ đó trong hai lần khác: “Những kẻ đạo đức giả kia, sao các người lại không biết nhận xét những dấu chỉ của thời đại” (Lc 12,56) “Những kẻ đạo đức giả kia. Thế ngày Sabát ai trong các ngươi không chăm sóc súc vật của mình…?” (Lc 13,15).
Từ ngữ còn mạnh hơn sự giả hình. Dụ ngộn này về “cái xà và cái rác” đã trở thành truyền thuyết. Tất cả chúng ta đều bị cám dỗ mà xói rằng: “Quả đúng như thế mà! “… Khi nghĩ về người khác. Nhưng một cách chính xác, Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải cáo giác chính mình… Trước khi thay đổi xã hội, như người ta nói, việc canh tân chính mình không phải là vô ích. Một lần nữa, người ta phải ngạc nhiên mà thừa nhận rằng Đức Giêsu ít khuyến cáo những “canh tân về cơ’ cấu” vốn chẳng thay đổi được gì nếu lòng người không thay đổi.
Và chính Giáo Hội phải không ngừng canh tân trước khi có ý định đổi thay thế giới. Và mỗi Kitô hữu phải không ngừng hoán cải bản thân trước khi hoán cải những người khác. Thay vì “kết án”, thay vì tuyên bố “rứt phép thông công”, thay vì mất thời gian để “xét đoán”… Đức Giêsu mời gọi chúng ta biết khiêm nhượng để cùng nhau tìm cách cải thiện và phải bắt đầu từ chính mình.
Không có cây nào tốt mà lại sinh quả xấu, cũng chẳng có cây nào xấu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho!
Đây là dụ ngôn cụ thể thứ tư. Đức Giêsu là một người thực tế: người ta phán đoán một con người theo hành động thực tế của người ấy, như nhận xét một cây theo quả, mà không theo những ý định hoặc lời tuyên bố đẹp đẽ. Con người hiện đại cũng có đặc tính quan tâm đến hiệu quả. Đức Giêsu cũng thế. Nhưng Người nhấn mạnh để cái bên ngoài phải tương ứng với cái bên trong.
Vì thế, người ta nhận ra người môn đệ chân chính qua các hành động của người ấy. Một lần nữa, chúng ta nhận ra rằng sự phân biệt “lừng danh”: “tín hữu không hành đạo” chỉ là một ảo tưởng và một sự biện minh dễ dãi.
Chính quả cho biết cây tốt hoặc có sâu… sống hoặc có bệnh.
Chính những “hành động” cho biết một người “tin” hay không… Yêu mến hay không… hy vọng hay không. Và Tin Mừng của ‘Luca ‘tiếp tục bằng những lời này mà sách kinh đã cắt quá sớm: “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. “…Tại sao anh em gọi Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa mà anh em không làm điều Thầy dạy?” Lạy Chúa, xin giúp chúng con thực hành điều chúng con tin tưởng.
5. Suy niệm của Noel Quesson
Trong bản văn Lc 6, 34-49, ta thấy một chuỗi những phán quyết của Đức Giêsu hơi bất thường, được nối kết giữa những phán quyết này với những phán quyết kia nhờ những từ mốc nối (“mức độ”, “mắt”, “cây”, “miệng”, “nhà”). Sự lặp đi lặp lại những từ thường được gọi là “tiếng này gợi lại tiếng kia”, là một cách thức được sử dụng trong các nền văn minh truyền khẩu, không có chữ viết, để ghi nhớ một số lời nói nào đó. Nhờ đó, ta mới có một bằng chứng tốt về sự nắm giữ Lời Chúa Giêsu mà các thế hệ đầu tiên của Kitô giáo đã bảo trì, không phải ở trong “sách vở”, nhưng ở trong “ký ức và trong lòng họ”.
Còn tôi, tại sao tôi không biết học thuộc lòng một số câu nào của Chúa Giêsu?
Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?
Qua hình ảnh cụ thể này, Đức Giêsu muốn cảnh giác: hãy có thái độ sáng suốt. Anh em đừng để người ta lôi cuốn mà không kiểm chứng mình đang đi đâu, đang theo ai? Có những người hướng dẫn giả, những ngôn sứ giả, làm dân chúng lầm lạc … Anh em hãy mở to mắt mà nhìn.
Sao ngươi thấy cái rác trong con mắt của anh em, mà cái xà trong con mắt của mình lại không thấy?
(Từ móc nối: người mù, con mắt).
Qua hình ảnh cụ thể khác, Đức Giêsu dạy: anh em hãy tỏ ra sáng suốt đối với chính mình. Anh em biết phòng ngừa biết bao người hướng dẫn giả, các ngôn sứ giả … Anh em thường phẩm bình những vị có trách nhiệm hay các người anh em khác dễ dàng … Vậy anh em hãy nhìn kỹ vào đời sống riêng tư của mình cách sâu xa hơn … Hãy mở to mắt trên chính mình! Hãy tự phê bình mình trước đi.
Anh em rất dễ nhìn thấy khiếm khuyết của Giáo Hội, của các linh mục, các Kitô hữu, thường không đồng lập trường với anh em về một số điểm nào đó … Thế thì, thỉnh thoảng anh em hãy để ý nhìn ra những khiếm khuyết riêng của mình xem sao.
Sao ngươi lại dám nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”… Đồ giả hình! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã …
Chúng ta không thường làm giảm nhẹ sắc thái của Tin Mừng sao! Ta không ưa những lời nói thẳng nhặt! Nhất là chúng lại nhắm thẳng vào ta. Đức Giêsu có thể đang nói với tôi, tôi thật là giả hình khi mở miệng phẩm bình kẻ khác.
Cuộc sống chung quanh chúng ta sẽ vui thú hơn biết bao, nếu ta đối xử nghiêm chỉnh với mình hơn với người khác, nếu chính ta biết áp dụng cho mình những lời khuyên tốt mà ta thường nhiều lần nhắc nhở kẻ khác, nếu ta cùng mau mắn cải thiện mình, đồng nhịp với việc cải thiện tha nhân.
Ta không luôn đổ thừa rằng, chính vì lỗi lầm của “kẻ khác” mà mọi sự trở nên xấu hơn sao! Chẳng hạn như: Vì chính quyền làm điều này … Các nghiệp đoàn đã không thực hiện việc kia … Giá kể các chủ nhân tăng cường hơn ở lãnh vực này … Giá kể các thợ thuyền tích cực hơn ở vấn đề đó … Nếu các Cha sở đã làm việc tốt hơn … Nếu chồng tôi khá hơn ở điểm này … Nếu những người lối xóm của tôi …
Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt anh em.
“Nhìn lại đời sống” là một tập luyện thiêng liêng phản ánh tinh thần Tin Mừng rất cao: đó là đặt lại vấn đề về chính mình, là ngắm lại, nhìn lại đời sống cá nhân và những dấn thân riêng tư của mình. Nhưng thay vì duyệt xét lại đời sống của mình, ta lại chỉ nhắm đến việc phẩm bình kẻ khác; thì đó là một bức hí họa đáng ghét!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sáng suốt, biết nhìn rõ, nhờ đó chúng con có thể giúp đỡ anh em chúng con nhìn rõ hơn.
6. Chú giải của William Barclay
LUẬT SỐNG
Chúng ta đọc thấy một chuỗi những câu nói có vẻ không liên hệ nhau. Có hai cách giải thích: có thể Luca thâu góp những lời Chúa Giêsu đã nói trong những dịp khác nhau và ông cho chúng ta một bảng tóm lược các luật sống. Hoặc có thể đây là điển hình về phương pháp giảng dạy của Do Thái. Người Do Thái gọi giảng dạy là charaz, nghĩa là xâu chuỗi. Các rapbi có dạy rằng diễn giả không nên nói lâu về một đề tài, nhưng để hấp dẫn thính giả, nên thay đổi mau chóng từ đề tài này sang đề tài khác. Vì thế lời giảng của người Do Thái có vẻ rời rạc đối với chúng ta. Đoạn Kinh Thánh này được chia làm bốn phần.
1. Câu 39-40, Chúa Giêsu cảnh cáo thính giả rằng không giáo sư nào có thể đưa học trò mình đi xa mức độ mà chính mình đã đạt và đây là lời cảnh cáo hai chiều cho chúng ta. Trong khi học, chúng ta chỉ nên học với một giáo sư tốt nhất vì chỉ có giáo sư ấy mới có thể đưa chúng ta tới một độ cao nhất. Trong khi dạy, chúng ta đừng quên rằng chúng ta không thể dạy điều gì mình không biết.
2. Câu 41-42, đây là một tỷ dụ về tính khôi hài của Chúa Giêsu. Hẳn Ngài đã mỉm cười khi vẽ bức hoạ về một người có cái xà trong mắt mình mà cứ cố gắng moi một cái rác ra khỏi mắt kẻ khác. Chúa Giêsu dạy rằng chúng ta không có quyền phê bình khi chúng ta còn khuyết điểm. Điều này có nghĩa là chúng ta không có quyền đoán xét gì cả, bởi “có nhiều điều xấu trong những người tốt nhất, có nhiều điều tốt trong những người xấu nhất giữa chúng ta, đến nỗi ai trong chúng ta cũng phải xấu hổ khi muốn moi tội kẻ khác”.
3. Câu 43-44 nhắc nhở chúng ta chỉ có thể nhận xét người khác qua việc làm của họ. Có người nói với một giáo sư: “tôi không thể nghe lời ông nói vì đã thấy con người của ông rồi”. Giảng và dạy, cả hai điều là “sự thật qua nhân cách”. Lời hay không bao giờ thay thế được việc tốt. Điều đó rất thích hợp cho ngày nay. Chúng ta sợ hãi tiếng đe doạ của các phong trào thế tục. Chúng ta không bao giờ đánh bại được các phong trào đó bằng cách viết nhiều sách báo và tổ chức nhiều cuộc giảng thuyết. Con đường duy nhất để chứng tỏ tính siêu việt của Kitô giáo là chúng ta phải sống thế nào cho mọi người thấy Kitô giáo sản xuất ra những người tốt thật.
4. Câu 45. Trong câu này Chúa Giêsu nhắc chúng ta xét cho cùng, lời nói ở môi miệng chúng ta chỉ là sản phẩm của lòng chúng ta. Không ai có thể mở miệng nói về Chúa nếu Thánh Linh không ở trong lòng người ấy. Không có điều gì bộc lộ rõ tâm trạng của một người cho bằng chính lời nói của họ, khi họ không ý tứ lúc nói năng, khi họ tự do phát ngôn, nghĩ sao nói vậy. Nếu bạn hỏi thăm đường đến một chỗ nào đó, người thì bảo nó ở gần nhà thờ nọ, người khác lại bảo nó ở gần rạp hát kia, người khác lại chỉ nó gần sân bóng đá, người khác nữa nói nó gần một công sở. Chính câu trả lời cho một câu hỏi bất ngờ có thể cho thấy tư tưởng của người đó thường tập chú vào đâu và những sở ước của họ đặt ở đâu. Lời nói của chúng ta phản ánh tâm địa của chúng ta.
7. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Luca bất ngờ lưu ý độc giả rằng họ đang đứng trước một dụ ngôn, từ này mời gọi tìm ý nghĩa các câu mà không dừng lại ở hình ảnh. Chúng ta thấy ở đây việc từ chối đoán xét người khác, bởi vì những lời nói khác nhau, riêng lẻ của Chúa Giêsu đã được tập họp lại bởi sự liên kết các ý tưởng với nhau. Sự thay đổi thể văn ở câu 39a là có ý nghĩa: nó được dùng để biểu lộ việc thay đổi các nhân vật mà các môn đệ phải tỏ ra nhân ái; sau kẻ thù bây giờ là anh em, là tha nhân trong cộng đoàn Giáo Hội.
Nhưng hãy chú ý! Không đoán xét không có nghĩa là đặt tất cả trên một bình diện (cc. 39-42)! Có nhiều Kitô hữu còn lâu mới trưởng thành trong đời sống Kitô giáo (x. 1Cr 3,1-3); vì người mù tối họ không có thể tự phụ hướng dẫn người khác đến ánh sáng trọn vẹn của niềm tin, cũng không thể phê bình người khác được. Cuộc sống của người tín hữu là một chuẩn bị dài lâu để trở nên hoàn thiện (được huấn luyện đầy đủ); cuối cùng môn đệ sẽ như Thầy là Chúa Kitô: Ngài nghĩ rằng mỗi người có thể hoán cải, thay đổi đời sống. Ước gì mỗi người học sống theo gương mẫu Chúa Giêsu để lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân sẽ làm cho họ có khả năng hướng dẫn người khác. Ngoài ra, sẽ là đạo đức giả, là đóng kịch, khi rêu rao về một cuộc sống chính trực mà chính mình lại không dấn thân vào. Chỉ có một cuộc hoán cải liên tục, dẫn tới một cách hành xử đúng đắn, mới giải thoát ta khỏi mù loà và cho phép ta sửa đổi được cách sống của người khác.
Khi mời gọi ta “quét dọn trước cửa nhà mình”, dụ ngôn cọng rơm và cái xà nhắc ta phải tốt trước đã rồi mới bảo người khác sống tốt được; nó cũng dẫn vào đề tài của các câu 43-49: người môn đệ đích thực phải có những hành vi phù hợp với đức tin của mình. Điều đặc biệt là động từ “làm” (thực hành) trở đi trở lại năm lần, từ những cây sinh (làm ra) quả tốt (c.43) đến người đem ra thi hành (làm) -hoặc không- những lời của Chúa Giêsu (cc.46-47.49). Một cách có ý nghĩa, người ta thấy hai hạng người (hoặc hai loại cây) đối nghịch nhau, tốt và xấu, như trong các mối phúc.
Hai dụ ngôn về cây và quả, tiếp theo là việc áp dụng, bắt đầu bằng việc soi sáng cho những gì là cội nguồn của hành động (cc. 43-45). Như phẩm chất của trái cho phép lượng giá phẩm chất của cây, cũng vậy, tất cả những gì con người làm nảy sinh ra -cách sống của họ, điều tốt hoặc điều xấu, cũng như những lời họ nói- đều biểu lộ những gì ở tận thâm cung lòng họ. Vì không ai thấy và chỉ có Chúa biết, tâm hồn là một nơi định đoạt phần rỗi của con người, bởi lẽ chính nơi tâm hồn mình mà con người yêu hay ghét.
8. Từ tự vẫn đến tự lực cánh sinh
(Suy niệm của Lm. Augustine SJ.)
Cha Phêrô (tức Abbé Pierre Grouès sinh ngày 5.8.1912 tại thành phố Lyon, Pháp) là người sáng lập nên cộng đoàn Emmau lo giúp người nghèo, người vô gia cư theo chương trình tự lực cánh sinh, có kể câu chuyện về một người trở nên cộng sự viên đắc lực của cha như sau:
Đó là một người khi ra khỏi tù phải đi lang thang không nơi nương náu. Người đàn ông này thất vọng đến độ lấy dao cắt mạch máu ra! Có người phát hiện ra sự việc chẳng lành đó, liền gọi điện thoại cho cha Phêrô. Cha lập tức tới hiện trường. Nhìn người đàn ông cánh tay máu me chảy đầm đìa, cha Phêrô đã không lên tiếng an ủi mà còn ra lệnh cho anh: “Anh đừng tự vẫn! Có quá nhiều người kém may mắn đang cần tôi giúp đỡ. Tôi cũng đang bệnh và tôi cần anh giúp một tay!”
Những lời cha Phêrô nói vừa tới tai anh liền khiến cặp mắt lờ đờ của anh bỗng sáng lên! Anh để cho người ta băng bó vết thương. Rồi từ đó anh trở nên một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của cha Phêrô.
Hình ảnh của cha Phêrô gợi cho thấy hình ảnh của chính Đức Kitô. Còn hình ảnh của người đàn ông lấy dao cắt mạch máu mình ra chỉ vì thất vọng, là hình ảnh của thế giới hôm nay mà Đức Giêsu đến để cứu thoát. Người muốn cứu thế giới loài người bằng cách huy động nơi con người, nguồn ơn chính Người ban cho họ. Họ không những cần cứu lấy bản thân mà còn phải nỗ lực cứu giúp nhiều người theo chương trình cứu nhân độ thế chính Đức Giêsu đứng ra thực hiện.
Băng bó những tấm lòng tan nát
Toàn bộ sách Tin Mừng của Luca là để cho thấy Đức Kitô thực hiện chương trình đó như thế nào. Ngay tại hội đưòng Nadarét, Người đã trích dẫn sách ngôn sứ I-sa-i-a cho thấy Người được sai đến với thế giới là để “Công bố một năm hồng ân của Chúa và băng bó những tấm lòng tan nát” (Is 61,1-2; Lc 4,18). Rồi khi Người đã qui tụ được một số môn đệ và chọn trong số họ mười hai Tông Đồ, tượng trưng mười hai chi tộc của Dân Mới của Thiên Chúa, thì Người giảng bài giảng quan trọng về các mối phúc thật. Đó là lúc Người xuống núi cùng với các môn đệ trong đó có mười hai người mới được chọn làm Tông Đồ. Người dừng lại ở một chỗ đất bằng và đoàn lũ dân chúng từ khắp nơi tuốn đến, kể cả vùng duyên hải Tia và Xiđon ngoại đạo.
Thế mà Luca cho thấy Đức Giêsu ngước mắt lên “nhìn các môn đệ và nói với họ” (Lc 6,20) về các mối phúc! Điều đó cho thấy điều kiện tiên quyết để được hạnh phúc thật là phải sống gắn bó với bản thân Đức Kitô trong tư cách là môn đệ của Người. Ai đã được gọi làm môn đệ thì phải duy trì và tăng triển trong ơn đó. Những người hãy còn “chân ướt chân ráo” lần đầu tiên tiếp cận với lời rao giảng của Đức Kitô, họ cũng cần phải có thái độ sẵn sàng bước theo Người, thì mới lãnh hội được điều Ngưòi giảng dạy.
Vậy trong bài giảng quan trọng “nơi đồng bằng” Đức Giêsu lần lượt công bố cho thấy
– Những mối phúc thật và những bất hạnh (Lc 6,20-26)
– Phải yêu kẻ thù để trở nên con Đấng Tối Cao (cc.27-35)
– Đề tài của bài Tin Mừng hôm nay (cc.39-45)
– Phần kết là phải thực hành lời Đức Giêsu dạy (cc.46-49)
Quả thật mối giây liên lạc giữa các câu 39-45 của bài Tin Mừng hôm nay xem ra không được rõ theo ý kiến của nhiều nhà bình giải Kinh Thánh.
Mù lại dắt mù sao được
C.39: “Đức Giêsu còn kể cho môn đệ dụ ngôn này…” Thực ra Người kể 5 dụ ngôn liên tiếp. Mỗi dụ ngôn chỉ là một so sánh ngắn đòi người ta phải suy nghĩ về ẩn ý ở trong đó
Mù lại dắt mù sao được? Mt 15,14 cũng dùng hình ảnh này để áp dụng với người Pharisêu là người dẫn dắt dân chúng đi lạc đường. Ở đây Luca áp dụng hình ảnh “người mù” với các môn đệ và đòi hỏi họ phải sáng suốt trong vai trò lãnh đạo cộng đoàn.
C.40: Đồ đệ không hơn Thầy: câu này có thể được nối kết với câu trước bằng mối giây được hiểu ngầm. Thử hỏi khi nào người môn đệ Đức Kitô được kể là sáng suốt, tức không bị mù quáng? Thưa: đó là lúc người ấy chấp nhận giáo huấn của Thày Giêsu một cách đầy đủ, với niềm thâm tín rằng mình luôn phải cố gắng hơn nữa, không bao giờ được dừng lại trên đường theo sát gót bước Thày.
Tại sao chỉ thấy rác nơi mắt người khác?
C.41-42: Tại sao anh chỉ thấy cái rác nơi con mắt người anh em?… Phải sáng suốt, đó là điều người môn đệ Đức Kitô phải áp dụng cho chính bản thân mình trước đã. Anh phải nhận thấy chính mình cần phải được sửa chữa khi tra tay sửa chữa người khác.
Lời dạy của Đức Kitô ở đây gây nên vấn đề là: nếu mọi người đều phải đấm ngực ăn năn về những lỗi lầm của mình, tức là còn có “rác cả đống” nơi con mắt mình, thì có được lo chuyện sửa chữa anh em mình qua việc rao giảng, huấn dụ và khuyên bảo họ chăng? Chưa sửa chữa mình xong mà cứ còn tiếp tục làm những chuyện đó thì có sợ mình trở nên “người đạo đức giả hình” theo bài Tin Mừng hôm nay chăng? Vấn đề vừa nêu càng trở nên gay cấn đối với thế hệ trẻ ngày nay là thế hệ đòi mọi người phải sống thực với mình. Cần phải thống nhất lại đời sống. Bên trong ăn khít với bên ngoài. Đó là những điều kiện phải có để người ta tin.
Nóng như lửa trở nên dịu hiền!
Vài điều suy nghĩ sau đây có thể là cần thiết:
(1) Chúng ta có gương của các thánh tông đồ, như thánh Phaolô rất ý thức về sự bất toàn của mình (Phi.3,12; 2Co 9,7) nhưng ngài vẫn tiếp tục thi hành bổn phận rao giảng. (2) Thực ra, người lo thừa tác vụ rao giảng chẳng bao giờ được quyền tự đắc cách chung hay cách riêng về đề tài mình trình bày. Ngược lại, phải nói rằng người đó giảng cho chính mình trước khi rao giảng cho người khác. (3) Ai không lo sửa mình thì sớm muộn sẽ bị anh em chỉnh. Chính thánh Phêrô đã bị tông đồ Phaolô chỉnh trong thư cho Ga-lát 2,11-14. (4)
Chư thánh nêu gương cho chúng ta về việc rao giảng chống lại những tật xấu mà chính các ngài phải đối phó. Thánh Phanxicô Salêsiô trước nóng như lửa sau trở nên con người hết sức dịu hiền. Thánh Inhaxiô Lôi-ô-la mở ra cả một lối sống khiêm nhường theo bề sâu trong Linh Thao khi chính ngài phải đối phó với tính kiêu căng cả thể. Riêng thánh Âu-tinh đã giảng về khiết tịnh sau khi chính ngài đã từ bỏ con đường đam mê xác thịt.
C.43-45: Cây tốt không sinh trái hư thối… Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau mới tránh được cái gọi là đạo đức giả hình, là điều mà Đức Giêsu luôn chống đối. Nuôi dưỡng ý xấu ở trong lòng sớm muộn sẽ phát sinh ra hành động xấu cũng như cây xấu sẽ sinh ra trái hu thối vậy.
Bật lên tia sáng ở cuối đường hầm
Trở lại câu chuyện cha Phêrô cứu sống con người thất vọng muốn tự huỷ mình. Khi cha Phêrô lên tiếng nói với người ấy “Anh đừng tự vẫn! Có quá nhiều người kém may mắn đang cần tôi giúp đỡ. Tôi cũng đang bệnh và tôi cần anh giúp một tay”, lời đó bật lên như một tia sáng ở cuối đường hâm. Lời cha Phêrô thực là trong suốt cho thấy giá trị sự sống của một con người đang sa xuống vực thẳm. Anh cần bước ra khỏi đó vì có nhiều người cần đến anh. Cha Phêrô thực đã thực thi lời Chúa vì biết tránh tình trạng người mù dắt người mù thì cả hai đều sa xuống hố (c.39); ngược lại người sáng mắt là kẻ có khả năng kéo người mù bước ra khỏi vực thẳm.
Cha Phêrô là con người thao thức, luôn cố công theo sát gót bước thầy chí thánh là Chúa Giêsu. Chào đời vào ngày 5.8.1912 tại thành phố Lyon nước Pháp trong một gia đình có 8 người con, mà cha Phêrô là người con thứ 5. Ở tuổi 19, cậu Phêrô đã gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn Ca-pu-xi-nô của thánh Phanxicô Á-xi-di và đã chịu chức linh mục ở tuổi 26. Nhưng vì sức khỏe không cho phép, nên cha đã sống đời linh mục triều. Cha luôn đứng về phía người nghèo và người bị áp bức. Tại nhà thờ chánh toà thành phố Gơ-nốp (Grenoble) cha đã từng bao che cho người Do Thái bị lính Quốc Xã của Hít-le bắt bớ. Năm 1949 cha thiết lập nên cộng đoàn E-mau để giúp những người nghèo và người vô gia cư tự lực cánh sinh. Cha là người có thể hiểu thấu lời Chúa dạy hôm nay là “Học trò không hơn thày, có học hết chữ cũng chỉ bằng thày mà thôi” (c.40).
Lòng có đầy thì miệng mới nói ra
Khi kêu gọi kẻ thất vọng đang tìm đường hủy diệt mạng sống mình, cha Phêrô đã tế nhị xin người đó giúp đỡ mình làm việc thiện để giúp đỡ những người khác không được may mắn trong cuộc sống. Làm như vậy là cha đã thực thi lời Chúa dạy ở cc.41-42. Quả thật, cha đã khéo léo khơi dậy lòng thương người nơi đương sự thay vì lên án đương sự. Vì chính cha luôn nuôi dưỡng lòng thương người nên miệng mới dễ dàng nói lên được điều tốt lành có sức cứu sống một người đang tìm cách tự hủy mình (c.45).
9. Bài giảng là hoa quả của trái tim
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Chúng ta sống trong thời đại kỳ diệu giống như Tivi, máy tính và những cuộc du hành không gian. Hàu như mỗi ngày, những điều kỳ diệu đều hé mở. Ai biết được những gì sẽ xảy ra kế đó? Và một trong những điều kỳ diệu lớn nhất mà chúng ta cảm nghiệm được mỗi ngày sống, cũng giống như là từ khi bình minh của nòi giống con người. Đó là sự kỳ diệu của ngôn ngữ. Quả thật nếu không có ngôn ngữ thì khó thấy được sự kỳ diệu của thời đại chúng ta có thể phát triển bởi vì sự cộng tác giữa những con người với nhau thì quá khó khăn, ngn làm cho mọi sự có thể ngay khi không thể.
Ngôn ngữ của con người không đơn giản được rút ra từ trên một ngàn năm qua do kinh nghiệm. Ngôn ngữ là một đặc ân của Thiên Chúa tuôn trào từ chân lý mà chúng ta đã được tạo dựng nên theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Điều đó nâng chúng ta lên như là hữu thể con người vượt trên những tạo vật khác và thật sự đã làm cho chúng ta nên giống Thiên Chúa. Từ đời đời chính Thiên Chúa đã là Ngôi Lời. Ngôi Lời mà chúng ta đã biết từ mạc khải Người Con thần linh của Cha. Ngài đã có từ nguyên thủy với Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Tất cả những lời nói của con người chúng ta thì không có vấn đề gì trong ngôn ngữ nhưng được thông dự vào trong Lời của Thiên Chúa.
Đặc ân ngôn ngữ của Thiên Chúa thì quý giá biết bao mà chúng ta không được coi thường. Những lời đến từ chúng ta như là hoa quả đến từ cây. Trái xấu thì đến từ cây xấu và sách Khôn ngoan ngày hôm nay đã cảnh cáo chúng ta rằng, những lỗi của con người đã xuất hiện khi hắn nói. Nói một cách khác, trái tốt thì đến từ cây tốt. Như thế Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng một người tốt sẽ sinh điều tốt, như từ điều tốt ở trong lòng của nó. Những từ ngữ của con người chúng ta sẽ là một diễn tả sự tốt lành của chúng ta.
Dĩ nhiên con người chúng ta được tự do sử dụng những đặc ân của Thiên Chúa theo điều đúng hoặc sai. Có lần chúng ta nói điều tốt nhưng lúc khác chúng ta lại nói điều xấu. Có lần chúng ta diễn tả sự kính trọng và tình yêu với những lời hay ý đẹp, nhưng lúc khác chúng ta lại tỏ ra mất kiên nhẫn và thù hận. Lúc này chúng ta nói sự thật, lúc khác chúng ta lại không nói sự thật.
Chúng ta có thể đồng ý rằng chúng ta không khinh thường những đặc ân của Thiên Chúa, cố gắng để sửa sai những từ ngữ của mình, nhưng sự thay đổi trái tim của chúng ta thì giống như cố gắng sinh sản ra những trái tốt từ cây xấu vậy. Chúng ta cần thay đổi bên trong của chúng ta. Đó là lý do vì sao mà Thiên Chúa muốn khi Ngài nói: “Mỗi người hãy nói từ sự phong nhiêu của lòng mình”.
Sự phong nhiêu nơi tâm hồn của chúng ta là gì? Với sự tốt lành nào mà tâm hồn đó đã được tràn đầy? Không có điều gì hơn sự tốt lành phong phú của Thiên Chúa. Vào mỗi ngày Chúa Nhật nơi Thánh Lễ chúng ta đã nghe những lời, những lời rất quan trọng, những lời phản ảnh Ngôi Lời lớn lao của Thiên Chúa. Chúng ta nghe những lời trong Thánh Kinh. Đức Kitô Ngôi Lời của Thiên Chúa đã nói với chúng ta khi những lời Thánh Kinh được tuyên bố trong phụng vụ. Từ những lời thánh này, chúng ta học được về Thiên Chúa và học được về chúng ta.
Thí dụ trong bài đọc thứ hai của Thánh Phaolô ngày hôm nay đã nói với chúng ta về giá trị lớn lao như là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta rất giá trị trong đôi mắt của Thiên Chúa, cái chết thì không phải là tận cùng của chúng ta, sự chết đã được Đức Kitô chế ngự, Thánh Phaolô đã tuyên bố chân lý này để cho tâm hồn của chúng ta được tràn đầy sự tốt lành của Thiên Chúa, nhưng ngài cũng trình bày cho chúng ta là lời nói của chúng ta phải tuôn trào một sự hiểu biết về sự nhân lành đó. Ngài cũng nói thêm sự tuôn trào đó sẽ có giá trị phát xuất từ tâm hồn của chúng ta: “Hãy cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
Nếu tâm hồn của chúng ta được tràn đầy sự nhân lành của Thiên Chúa và những lời của chúng ta được tràn đầy sự nhân lành. Chúng ta sẽ không dùng những lời xấu nhưng là những lời tốt. Chúng ta sẽ làm tốt nếu mọi người nghe chúng ta nói có thể cảm nhận rằng chúng ta nói như Đức Giêsu Kitô đã nói xưa kia trên mặt đất này. Tiếp đó, đối với lời nói của chúng ta, chúng ta có thể đáp cách đúng đắn rằng: “Hãy cảm tạ Thiên Chúa”.
10. Sống những gì Chúa muốn
Những lời trong Bài Tin Mừng hôm nay dường như Chúa muốn nhắm tới các thầy dạy trong đạo Do Thái thời Ngài, tuy nhiên chúng ta cũng có thể tìm ra được một vài áp dụng cho chính chúng ta.
1. Chúa muốn nói rằng muốn hướng đẫn, muốn dạy dỗ người khác thì trước hết phải “biết” điều mình hướng dẫn, mình dạy trước. Vì “mù dắt mù, thì cả hai sẽ lăn cù xuống hố” (Lc 6,39). Mình có biết, có sáng mắt thì mới thấy đường mà hướng dẫn anh em mình.
Bởi thế, điều kiện để được trở thành người hướng dẫn kẻ khác là phải biết mình. Và cách để giúp mình biết mình trước, tốt nhất là phải học và biết lắng nghe, nhất là lắng nghe những người không ưa mình nói về mình.
Một ông vua kia được viên quan cận thần báo cho một tin khẩn như sau:
– Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bịnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta sẽ được yên thân hơn.
Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:
– Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất nước đến chữa trị cho người bệnh đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống kẻ đó.
Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:
– Thưa ngài, người này là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó sống.
Nhà vua trả lời:
– Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải lo cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như vậy hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.
Chúng ta thường có khuynh hướng thích được khen thưởng hơn là biết lắng nghe những lời thành thật giúp chúng ta thanh luyện khỏi những điều tiêu cực, nhất là khi chúng ta có chút ít quyền hành. Bởi thế, muốn biết rõ về mình nhiều hơn, chúng ta lại càng cần phải có những kẻ can đảm, dám nói cho chúng ta biết những sự thật, điều lầm lỗi của chúng ta, để biết sửa chữa và giúp mình vươn lên.
2. Tiếp đến, Chúa bảo muốn cho lời dạy của mình có sức quyến rũ và thuyết phục được người khác thì phải sống những điều mình dạy trước đã. “Sao anh lại có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?- Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!”(Lc 6,42)
Trong Tin Mừng chúng ta thấy, khi Chúa muốn dạy điều gì, thì Chúa đã làm trước.
Các việc ở đời cũng vậy.
Cha mẹ muốn con cái siêng năng đạo đức, thì chính cha mẹ hãy siêng năng đạo đức trước. “Chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người” thì không được.
Nói tới đây tôi nhớ tới một câu truyện có thật. Truyện thế này:
Năm 16 tuổi, Albert Einstein thường thích làm bạn với những đứa trẻ chỉ thích ham chơi chứ không thích học hành. Vì thế mà việc học hành của cậu ngày càng kém, thậm chí nhiều lần còn phải thi lại.
Một buổi sáng chủ nhật nọ, Einstein chuẩn bị cần câu để đi câu với bọn trẻ đó thì bị bố ngăn lại và nói:
– Con trai, suốt ngày bố thấy con chỉ biết ham chơi, lại còn vài môn phải thi lại. Bố mẹ rất lo cho tương lai của con.
Einstein thản nhiên đáp lại bố:
– Chẳng có gì đáng lo cả bố ạ. Bố thấy đấy, nhiều đứa cũng phải thi lại, đâu phải vì chúng suốt ngày đi chơi?
Bố ân cần nói với Einstein:
– Con trai, con không được nghĩ như thế. Bố kể cho con nghe một câu chuyện ngụ ngôn nhé. Có hai chú mèo nhỏ chơi đùa cạnh ống khói. Vì không cẩn thận nên cả hai đều rơi xuống ống khói, khó khăn lắm chúng mới bò ra ngoài được. Hai chú mèo nhìn nhau, một chú mèo mặt nhem nhuốc bụi khói, còn chú mèo kia thì rất sạch sẽ. Chú mèo sạch sẽ nhìn chú mèo mặt dính đầy khói, tưởng rằng mặt mình cũng bẩn nên vội vàng chạy đi rửa mặt. Còn chú mèo mặt dínhđầy bụi kia tưởng mặt mình sạch nên chạy đến chỗ khác chơi. Những con vật khác nhìn thấy nó đều bỏ chạy tán loạn, tưởng rằng nhìn thấy yêu quái. Con trai, chúng ta không nên coi người khác là chiếc gương của mình, chỉ có mình mới là chiếc gương cho chính mình thôi.
Sau khi nghe bố kể câu chuyện, Einstein xấu hổ đặt cần câu xuống, quay về phòng học.
Vâng! Muốn cho lời nói có uy, có nghĩa là có sức thuyết phục thì ta phải sống trước.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp cho mỗi người biết sống những gì Chúa muốn, để chúng ta có thể nên những chứng nhân cho Ngài giữa cuộc sống hôm nay. Amen.
11. Chú giải của Fiches Dominicales
NHÌN VÀ HÀNH ĐỘNG NHƯ MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC CỦA ĐỨC GIÊSU
** VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một cái nhìn sáng suốt và ân cần,
Hai tuần trước, với “các mối phúc” “những lời than” ta khai mào điện từ trong bình nguyên. Chúa nhật tuần rồi, ta tiếp tục với giáo huấn về tình yêu không giới hạn, tình yêu, như Chúa Cha giàu lòng thương xót, đến độ yêu thương cả kẻ thù Hôm nay, ta sẽ đọc đoạn kết gồm 4 câu riêng rẽ của Đức Giêsu mà Luca tập hợp lại do liên ý, rồi xếp chúng vào mục “các dụ ngôn”.
Ba câu đầu nói về cái nhìn. Cái nhìn phải sáng suốt và trước tiên phải nhìn vào chính mình. Với tha nhân, cái nhìn phải ân cần.
Đó là những lời “chỉ nam” cho đời sống cộng đoàn. Vì đôi khi cộng đoàn trở nên mù quáng, lôi kéo những người khác sa ngã theo. Những lời đó cũng có thể nói cho các môn đệ, lúc nào cũng vội vàng xét đoán và chỉ trích người khác hơn là sửa đổi chính mình. Sẽ sai lầm nếu muốn trở nên nhân chứng của lòng xót thương mà lại có trái tim và ánh mắt không thương xót.
Hugues Cousin viết: “Sống đức tin là một cuộc chuẩn bị lâu dài để nên hoàn thiện” (“được đào tạo chu đáo “) theo câu ai cũng có thể hoán cải, thay đổi lối sống. Ước gì mọi người đều được đào tạo trong trường học Đức Giêsu để lòng thương cảm đối với người tội lỗi sẽ khiến họ có khả năng hướng dẫn người khác: Thật là giả hình đóng kín, khi ca tụng một con đường (chính trực mà bản thân không theo. Chỉ có sự hoán cải không ngừng nghỉ mới đưa tới nếp sống chân thực, giúp thoát khỏi cảnh mù tối và cho phép ta sửa lỗi người khác” (L’Evangile de Luc”, Ccntunon, trg 98).
2. Một hành động thấm đẫm Tin Mừng:
Câu cuối cùng đề cập đến hành động của Kitô hữu: như ta biết “cây” nhờ “quả”, cũng thế hành vị và lời nói bộc lộ cho thấy trái tim người Kitô hữu có thực sự thấm nhuần Tin Mừng không. Louis Monloubou bình luận rất xác đáng rằng: “Vì con người hành động theo bản chất của mình; dù giả dối, hành vi và lời nói cũng phản chiếu chính xác những gì sâu xa trong đáy lòng anh ta. Ai không có tinh thần Tin Mừng không thể nói ra những lời lẽ mang âm hưởng Tin Mừng”. (“L’Evangile de Luc”, Salvator, tr. 149).
** BÀI ĐỌC THÊM:
1. Ánh mắt Đức Giêsu.
(Mgr. L. Daloz, trong “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”, DDB, trg 50-51)
Anh mắt Đức Giêsu nhìn khác ta và Người mong ánh mắt ta cũng được đổi mới: sao cho ánh mắt ấy không phải là ánh mắt đui mù dẫn người khác sa vào hố sâu. Sao cho ánh mắt ta không bị cây xà che kín nhưng được sáng tỏ. Anh mắt Đức Giêsu, ánh mắt Thiên Chúa nhìn vào thực tế hiện hữu của ta, vào sự thực của nếp sống ta, là một ánh mắt khích lệ, khơi gợi, hoạt động. Lời lẽ mà ánh mắt ấy phiên dịch không chỉ là những chỉ dẫn cho trí khôn, nhưng đã trở nên lời lẽ động viên. Lời ấy dẫn đến hành động và xây dựng một đời sống mới trên nền đá vừng chắc. Khi nhìn ai, Người thấy trong đó hình ảnh Thiên Chúa, Cha của Người, Người thấy những đứa con. Người tỏ cho họ biết họ là ai và phải sống như thế nào để trở nên những người con đích thực của Cha”.
2. Những người thực sự kiến tạo một thế giới mới.
(“Sách lễ các Chúa nhật Emmaus”, trg l012).
Ai chẳng mong muốn kiến tạo một thế giới mới chan hòa mình yêu và bình an?
Nhưng rất nhiều khi, hành động vì thế giới của ta bắt đầu bằng phê phán kẻ khác.
Thế là ta đã tự động chiếm chỗ của Thiên Chúa phán xử. Làm thế, ta chỉ chà đạp những người chung quanh và loại mình ra ngoài cuộc chơi mà thôi. Cứ nghĩ mình ngay tình, cứ tưởng mình hành động cho việc thiện ích, ta tiếp tục gây chia rẽ.
Khi tố cáo giới chức quyền Do Thái, những kẻ thực sự phản chứng do thái độ của họ, Đức Giêsu kết án xu hướng bản năng của mọi người. Chúng ta ai mà chẳng kết án tha nhân, khi cứ tự coi chân lý của riêng mình như là Chân Lý viết hoa. Như thế ta chỉ là những tiên tri giả, phá huỷ thế giới mới mà ta tự hào là góp tay kiến tạo.
3. “Lời lẽ và con tim”.
(Mgr. L. Daloz, trong “Nước Trời đã đến gần” DDB. 1994, trg 182- 183).
“Điều nói ngoài miệng, tràn ra từ tâm hồn…”
Nhiều lần, Đức Giêsu đã phải lên tiếng về tầm quan trọng của lời nói.
Đức Giêsu mời ta khám phá lại nguồn cội của lời nói. Thật hữu ích khi nghe Người, nhất là trong thời buổi mà người ta dễ dãi cho rằng lời nói bay đi. Tìm lại tính chất nghiêm trọng của lời nói, nội dung và hệ quả của nó, là góp phần vào việc sám hối của Kitô hữu. Ngày nay lời nói thường hối hết mau qua. Đức Giêsu tái lập trách nhiệm của con người với lời nói. Người truy nguyên lời nói từ trái tim. Lời nói mang dấu ấn của người nói. Lời nói chứa chất những ý hướng và tình cảm của người nói, ngay cả khi lời nói trung dung hoặc diễn tả dưới hình thức thật khách quan: luật Rôma, luật Napôlêon đều mang dấu ấn tinh thần của thời đại họ sống và quan niệm của những nhà làm luật!… Tin Mừng soi sáng mọi hoàn cảnh, kể cả những hoàn cảnh hiện thực nhất. Lối so sánh mà Đức Giêsu sử dụng thật mạnh mẽ: so sánh cây và quả. So sánh mạnh mẽ và rất ý nghĩa, vì quả lớn lên nhờ nhựa cây nên quả chứa đựng nhiều phẩm chất cũng như những khiếm khuyết của cây…
Cũng vậy, lời lẽ không chỉ bên ngoài con người. Lời nói chính là sự bộc bạch của tâm hồn: “Và lòng có đầy miệng mới thốt ra”. Lời nói cho biết con người, và những gì họ chất chứa trong lòng. Lời nói chứa đầy những tư tưởng, tình cảm, đam mê của người nói. Như thường lệ, Đức Giêsu kéo ta chú ý đến nội tâm con người. Người đi đến tận thâm tâm con người. Chẳng có luật lệ bên ngoài để xét xử lời nói. Chính lời nói biểu lộ phẩm chất, con người của họ. “Người tốt rút ra từ kho tàng tốt lành của mình những điều tối dẹp. Người xấu, rút ra từ kho tàng xấu xa của mình những điều xấu xa”. Lời nói bộc bạch loại kho tàng mà người nói cất giấu trong mình.