Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 6 THƯỜNG NIÊN Năm C
Lc 6,17.20-26
1. Phúc cho người nghèo khó
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
So sánh với Bài giảng trên núi trong Matthêô (5:1-7.29), bài giảng trong Luca ngắn hơn và diễn ra trên một chỗ đất bằng và có rất nhiều điểm khác biệt khác (6:17. 20-26). Bốn mối phúc trong Luca nói đến những thiếu thốn cụ thể: nghèo nàn, đói khát, khóc lóc, và bị ghét bỏ. Đoạn 6:20-26 nằm trong văn mạch của diễn từ dành cho các môn đệ (6:17-49), vì họ vừa được qui tụ thành nhóm (6:12-16). Đoạn này có thể phân chia làm hai phần đối xứng nhau: 1 – Bốn mối phúc (6:20-23); 2 – Bốn lời chúc dữ (6:24-26).
Thính giả trực tiếp của bài giảng nầy là đám đông các môn đệ: “Ngước mắt lên nhìn các môn đệ, Người nói..” (6:20). Như thế, những gì Người sắp nói cho họ phải được hiểu trong tương quan làm môn đệ của Chúa Giêsu. Các mối phúc khác có thể tìm thấy rãi rác trong tin mừng Luca (1:45; 7:23; 10:23; 11:27.28; 12:37.43; 14:15; 23:29; Cv 20:35; ). “Phúc cho…” là từ diễn tả sự ca ngợi, qui chiếu về một điều may mắn chẳng hạn con mắt (Lc 10:23), cái dạ mẹ (23:29), tuy nhiên phần lớn qui chiếu về một người được sủng ái, chúc phúc, may mắn. Thiên Chúa là nguồn của mọi phúc lành ban cho họ (x. 1 Tt 6:15). Và “Khốn cho…” là tiếng ta thán diễn tả sự đau buồn hoặc than phiền hơn là một lời chúc dữ hoặc kết án.
Mối phúc thứ nhất là “Phúc cho người nghèo vì Nước Thiên Chúa thuộc về họ” (6:20); đối lại “Khốn cho người giàu vì họ đã được sự an ủi” (6:24). Luca không dùng chữ “nghèo trong tinh thần” như trong Matthêô (x. Mt 5:3). “Người nghèo” (ptōchos) theo nguyên ngữ chỉ một người sợ hãi vô cùng đến nỗi phải che dẩu mình. Họ thường lẩn tránh và không ở một nơi nào nhất định. Từ đó, chữ nầy chỉ đến người ăn xin, túng thiếu (x. Cv 4:34).
Thế nào là người nghèo? Luca không định nghĩa “người nghèo”, mà chỉ cho thấy cách hành động của người nghèo để được Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu là người nghèo vì Người đã “trở nên không” (kenoō) vì Chúa Cha (x. Phip 2:7), đến nỗi Người chẳng còn nơi để tựa đầu (9:58). Các môn đệ là nghèo vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Người (5:11; 18:28). Bà góa được gọi là nghèo không phải vì bà chỉ có hai xu, trong thực tế có thể bà giàu hơn người chỉ có một xu hoặc chẳng có gì hết, mà vì bà đã bỏ tất cả hai xu ấy vào hòm dâng cúng cho Thiên Chúa (21:3); trong khi người được Chúa Giêsu mời gọi bán của cải tất cả mà cho người nghèo được gọi là giàu và “có nhiều của cải”, là vì người ấy từ chối từ bỏ và “trở nên không” để có thể đi theo Người (18:22). Vậy người nghèo được đặt trong tương quan với Chúa Giêsu, chứ không phải với những gì họ đang có hoặc với người khác khi so sánh về tài sản.
Mối phúc thứ nhất nầy được kết cấu bằng hai mệnh đề, mà mệnh đề phụ có chức năng cắt nghĩa mệnh đề trước: không phải vì nghèo mà người môn đệ có phúc, nhưng vì họ được Nước Thiên Chúa như là kết quả của việc từ bỏ mọi sự. Động từ “là” ở thì hiện tại trong mệnh đề phụ muốn chỉ đây là một quả quyết, chứ không phải là một lời hứa. Điều nầy trở nên định luật cho những ai muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu là phải “từ bỏ những gì mình có” (14:33); trái lại, nếu không từ bỏ để trở nên nghèo như Người, không thể làm môn đệ của Người, như trường hợp người giàu có.
Đàng khác, chỉ khi nghèo mới để mình lệ thuộc hoàn toàn vào sự trợ giúp của người khác, đến bất cứ lúc nào và từ bất cứ hướng nào. Đặc điểm nổi bật của họ là đón nhận dễ dàng hơn người giàu. Họ dễ chấp nhận vào dự tiệc hơn bội phần những người giàu có đã được mời (x. 14:13.21). Và cũng cho đi cách dễ dàng và quảng đại hơn những người giàu. Xem xét sự quảng đại của bà goá (x. 21:3) và sự từ chối của người giàu có (18:22). Vậy, mối phúc của người nghèo là được Nước Thiên Chúa làm của mình, vì họ đã từ bỏ mọi sự để làm môn đệ của Chúa Giêsu; khác với những người giàu là tìm và hưởng những an ủi do sự giàu có mang lại (x. 6:24).
Câu 6:21 nói đến hai mối phúc “đói-no” và “khóc-cười” (6:21). Chúng được xem như là biểu hiện và hậu quả của cái nghèo. Luca liên kết cái nghèo với sự thiếu thốn thực phẩm: Lazarô vì nghèo nên không có gì để ăn (x. 16;21); trái lại, ông phú hộ thì tiệc tùng linh đình mỗi ngày (16:19). Luca xác định thời điểm hiện tại “bây giờ” (6:21[2x]) vừa để cho thấy là sự đau khổ của cái đói và khóc lóc chỉ là tạm thời chứ không trường cửu; đồng thời cho thấy sự tương phản của tình trạng hiện tại với điều sẽ đến khi Thiên Chúa can thiệp vào. Do đó, sự no đầy và vui cười của những người đang hưởng bây giờ cũng tạm thời; cái đói khát và khóc lóc sẽ đến ngay với họ (x. 6:24).
Những câu chuyện được ghi lại trong tin mừng Luca cho thấy những người đang khóc lóc là những người đang sầu khổ: bà góa thành Naim (7:13), ông Giairô (8:51-51), người đàn bà tội lỗi (7:38), Phêrô (22:62). Và chính khi họ đang khóc lóc, Chúa Giêsu can thiệp và biến đổi sự khóc lóc ấy thành tiếng cười khi thấy người con sống lại, hoặc biết tội lỗi đã được tha. Đối lại mối phúc nầy (6:24), Luca dùng thêm chữ “than khóc” (x. Mt 5:4; 9:15) bên cạnh chữ “khóc” để nhấn mạnh tình trạng trầm trọng đảo ngược của những người bây giờ đang vui cười. Động từ “no đầy” ở thể thụ động cho thấy chính Thiên Chúa là người làm hành động nầy. Đồng thời cả hai hành động “được no đầy” và “cười” đều ở thì tương lai, hướng về một sự can thiệp từ phía Thiên Chúa sẽ đến. Vậy, hai mối phúc nầy không xây dựng trên sự đói khát thể lý hoặc thiêng liêng và trên những đau buồn đang xảy ra (x. Mt 5:6), mà trên sự can thiệp quyền năng của Chúa Giêsu, “Người đã đổ đầy cho người đói những điều tốt lành” (1:53).
Sự chúc phúc bằng việc sở hữu Nước Thiên Chúa đã bắt đầu ngay bây giờ cho những ai trở nên nghèo như Chúa Giêsu: Maria (1:48), Simêôn (2:29), Phêrô (5:10), Lazarô (16:25) và ngay cả Con Người (22:69).
2. Các mối phúc, lời hứa thành hiện thực
(Suy niệm của Martin Lê Hoàng Vũ)
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh sử Luca thuật lại việc Chúa Giêsu công bố các mối phúc. Cả hai thánh sử Luca và Matthêu đều ghi lại bài giảng này, nhưng mỗi người lại có một lối viết riêng, rất độc đáo và có tính bổ sung cho nhau nhằm cung cấp cho các độc giả Kitô hữu những bài học cụ thể trong đời sống đức tin.
1. Các mối phúc theo Tin Mừng:
Các mối phúc của Tin Mừng thánh Luca ghi lại hướng trực tiếp đến những người nghèo, những hoàn cảnh đáng thương vì thiếu cơm ăn áo mặc, những người thấp cổ bé miệng bị xã hội bạc đãi, những nạn nhân của bất công. Họ lại được Thiên Chúa yêu thương, hứa ban hạnh phúc Nước Trời. Có thể nói Tin Mừng Luca là Tin Mừng của người nghèo, cái nhìn của Luca là suốt cuộc đời hoạt động của Chúa Giêsu, Ngài luôn ưu tiên dành chỗ cho người nghèo. Bên cạnh đó, các mối phúc theo Tin Mừng Mátthêu lại mang nặng tính luân lý hơn. Khi nói đến người nghèo, Matthêu cho thấy con người được vào Nước Trời không phải là những người ở trong tình trạng thiếu thốn phương tiện vật chất, nhưng lại do tình trạng sở hữu. Thánh sử Mátthêu nhấn mạnh đến những cơn đói khát tinh thần của con người, đói khát công lý, bác ái và hòa bình viên mãn.
Tóm lại cả hai thánh sử đều muốn khẳng định rằng: Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo trong các mối phúc không phải là thiên đàng trong thế giới tương lai đang đến. Những thực tại Nước Trời được xem như là những giá trị bền vững như công bình, bác ái, liên đới. Đó là Nước Trời mà suốt cả cuộc đời người Kitô hữu luôn kiếm tìm và xây dựng.
2. Phúc cho người nghèo khó:
Đối với Chúa Giêsu, nghèo hay giàu không phải là cái tội. Của cải, danh vọng và chức quyền tự nó không có gì trái ngược với Tin Mừng. Nhưng Chúa Giêsu trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng luôn cảnh cáo những thái độ làm cho con người trở thành nô lệ. Một cuộc sống nghèo túng có thể là cạm bẫy, những sinh hoạt hằng ngày có thể biến con người thành ngu dại, chỉ biết nhìn thấy miếng cơm manh áo mà quên đi ý nghĩa cùng đích của đời người. Một cuộc sống thiếu thốn vật chất dễ nảy sinh những tật xấu như chúng ta thường nói với nhau “Bần cùng sinh đạo tặc”.
Ngoài ra, sự giàu có cũng có thể là sợi dây trói buộc lòng quảng đại của con người, phát sinh tính ích kỷ và biến cuộc sống trở thành khép kín. Khi công bố các mối phúc Chúa Giêsu không khuyến khích một thái độ sống vô lo, thiếu trách nhiệm hay phó mặc cuộc đời cho số phận may rủi. Vì đó cũng không phải là thái độ đích thực mà Tin Mừng muốn dạy chúng ta.
Trong bài đọc 1 hôm nay, qua miệng Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Thiên Chúa muốn nói rằng: Ai cũng cần phải lớn lên trong trách nhiệm và tự do. Nhưng không vì thế mà chúng ta chối bỏ sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa. Hơn bất cứ ai, Ngài chính là điểm tựa vững chãi của đời người. Bởi đó chúng ta đừng đi tìm kiếm điều gì khác ngoài Ngài, đừng cậy dựa vào sức riêng của mình mà rời xa Thiên Chúa. Chính khi biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa, con người sẽ tìm được hạnh phúc đích thực. Đó là bí quyết hạnh phúc Chúa muốn truyền lại cho mỗi người Kitô hữu hôm nay.
Tất cả chúng ta điều là những người nghèo của Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa là Đấng giàu sang phú quí vô cùng, chúng ta đâu có gì để mà tự hào khoe khoang, nếu chúng ta có gì cũng đều là của Chúa ban cho mà thôi. Chính vì thế chúng ta hãy tin tưởng ở Chúa, hãy tìm đến với Ngài để được Ngài ban cho hạnh phúc. Thực tế cho thấy, ngày nay trong khi con người đi tìm kiếm lợi lộc trần thế họ dễ có nguy cơ tách cuộc đời mình ra khỏi Chúa và chỉ phụ thuộc vào vật chất. Suốt cả cuộc đời con người luôn tìm kiếm giàu sang, danh tiếng, chức quyền nhưng họ đâu có biết đi tìm chính Thiên Chúa là nguồn mạch của tất cả mọi sự.
3. Nước Trời, nước tình yêu:
Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu đã sống nghèo, Ngài đứng về phía những người nghèo, tuy nhiên Ngài không lấy việc san bằng xã hội làm mục tiêu tranh đấu. Ngài chỉ luôn nhắc nhở con người rằng: Giá trị đích thực của mỗi người không phải là những gì nó có mà là do cái nó là, có nghĩa là chỉ có tình yêu mới làm nên giá trị đích thực của con người mà thôi.
Theo các mối phúc của Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu không hứa hẹn một thiên đàng ngay tại trần thế này, Ngài cũng không loan báo một Nước Trời xa lạ với trần thế. Thực ra Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo thiết yếu là nước tình yêu, nước của liên đới và chia sẻ.
Chính khi biết sống yêu thương, công bình, bác ái trong đời sống chúng ta mới hiểu được Nước Trời là gì. Khi biết tận hưởng niềm hân hoan, hòa bình chúng ta mới khám phá ra thế nào là niềm hạnh phúc đích thực. Và khi được quyền sống, được quyền thể hiện và phát triển phẩm giá của mình một cách trọn vẹn nhất thì chính lúc đó các mối phúc Thiên Chúa ban, qua Chúa Giêsu sẽ trở thành hiện thực.
Như vậy các mối phúc không phải là một lời hứa hão, không phải là chuyện ảo tưởng, viễn vông,nhưng là một sự thật hiển nhiên, điều sẽ đến với mỗi người, rất gần gũi với chúng ta, bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em”.
Lạy Chúa Giêsu. Khi công bố các mối phúc Chúa hứa ban Nước Trời cho những người nghèo khó, Chúa mời gọi chúng con sống tinh thần khó nghèo là biết tận dụng những gì Chúa ban để sinh lợi ích cho mọi người, chứ không bo bo giữ cho riêng mình. Xin cho chúng con biết yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo, những người đang cần chúng con giúp đỡ, những nạn nhân của bất công xã hội để chúng con được Chúa yêu thương chúc phúc và hừa ban Nước Trời. Amen.
3. Ai là người hạnh phúc?
(Suy niệm của T.s. Trần Quang Huy Khanh)
Thiên Chúa dựng nên con người và muốn cho con người được hạnh phúc. Không những hạnh phúc ở đời này mà con hạnh phúc đời sau nữa. Đó là mục đích sự xuất hiện của con người trên cõi trần này. Chúng ta dám khẳng định điều này, vì Chúa chính là người cha nhân lành. Ngài dậy chúng ta kêu cầu với Ngài: “Lậy Cha chúng con ở trên trời”. Và điều này làm cho chúng ta an tâm. Chúng ta không thể gọi Ngài là cha được, nếu như Ngài không nhân lành. Quỷ thần – cha của gian đối, khốn nạn, và bất hạnh – chỉ được chúng ta nhắc đến như một thụ tạo ghê sợ và khốn nạn: “Đồ quỷ sứ!” Không ai gọi quỷ thần là cha mình bao giờ.
Như vậy hành trình con người là một cuộc sống có yếu tố và hoàn cảnh hạnh phúc. Và cuộc đời con người cũng là những chuỗi ngày vừa tìm cầu, vừa sống trong hạnh phúc. Nhưng rồi tại sao phần đông nhân loại vẫn không có hạnh phúc và hạnh phúc vẫn là một cái gì hoang tưởng, vượt khỏi tầm tay của nhiều người?! Thưa vì quan niệm về hạnh phúc của con người khác với quan niệm về hạnh phúc của Thượng Đế. Hạnh phúc của ngài là: nghèo khó, đói khát, khóc lóc, bị bắt bớ, trù dập, và chối bỏ. Ngài nói:
“Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi sẽ hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời”(Luc 6: 20-23).
Còn hạnh phúc đối với con người thì sao? Giầu có dư giả, ăn nhậu phủ phê, cười nói thoải mái, và được người đời trọng dụng, ca tụng. Nhưng khổ nỗi, những cái đó lại là những cái xem như Chúa không mấy ưa thích:
“Khốn cho các ngươi là những người giầu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là những kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu, khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả” (Lc 6:24-26).
Như vậy có nghĩa là gì? Tại sao Thiên Chúa cứ làm ngược lại những gì con người ưa thích và tìm kiếm? Tại sao nghèo mà là hạnh phúc và giầu thì bất hạnh. Tại thiếu ăn, thiếu mặc là hạnh phúc, mà dư ăn, dư mặc lại là bất hạnh. Tại sao khóc lóc, buồn rầu là hạnh phúc, mà vui vẻ thoải mái là bất hạnh. Và tại sao bị người khác chê bai, chà đạp là hạnh phúc, còn được người đời trọng vọng, sùng bái lại là bất hạnh???
Câu trả lời là vì Chúa muốn con người được hạnh phúc thật sự và hạnh phúc đời đời. Còn con người lại muốn hạnh phúc giả tạo, hạnh phúc nhất thời. Đó là lý do cha con bất đồng. Và đó là lý do cha con không hòa thuận được với nhau. Cũng như người cha trần thế muốn con mình tìm hạnh phúc qua việc học hỏi, trau dồi kiến thức và nghề nghiệp. Vì đấy là con đường mở ra cho tương lai con cái. Và đấy là một thứ đầu tư tốt nhất vào tương lai. Ngược lại, đa số con cái lại muốn tìm hạnh phúc bằng rong chơi, lãng phí tuổi trẻ, và bằng những giây phút thỏai mái hiện tại. Sự khác biệt và bất đồng là ở đó.
Ngoài ra, nếu để ý và suy ngắm cẩn thận chúng ta không thấy Thiên Chúa vô lý và khắt khe khi lên án những cái mà con người cho là hạnh phúc mà lại chúc phúc cho những cái mà con người cho là bất hạnh. Thiên Chúa biết rõ, nếu không có những thử thách đó, con người sẽ không bao giờ nghĩ đến đời đời, và nghĩ đến hạnh phúc bất diệt trên quê trời. Ngược lại, con người sẽ bị chôn bám vào thế gian này, bị ràng buộc với những cái mau qua, chóng hết, để rồi lãng phí thời giờ và cơ hội để tạo cho mình một đời sống hạnh phúc thật.
Thật vậy, Thiên Chúa đâu có ngớ ngẩn đến nỗi cho rằng nghèo hèn, đói khát, khóc than, và bị chê ghét là những hạnh phúc bao giờ. Và ngài cũng đâu khờ khạo đến độ coi nghèo khổ, đói rách, đau thương và bị trù dập là những niềm hạnh phúc đâu! Phải đi sâu vào cái ý nghĩa thâm thúy của lời ngài, và cái tâm tình của ngài mới khám phá ra được ý nghĩa và những niềm vui hạnh phúc cũng như bất hạnh ấy.
Ngài khẳng định người nghèo sẽ được hạnh phúc và kẻ giầu sẽ bất hạnh. Trước hết, cái nghèo ở đây không hẳn là nghèo tiền của vật chất, mà là một tâm hồn khiêm tốn, đơn sở và bình dị. Một tâm hồn luôn luôn sẵn sàng như một biển sâu để tình yêu của ngài đổ tràn đầy. Sự nghèo nàn này hiển nhiên đem con người lại gần đến Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Ngược lại, sự giầu có mà ngài đề cập đến lại chính là sự giầu có của trần gian, một thứ giầu có làm mê mẩn và chôn bám lòng người vào vật chất. Nó là sự giầu có khiến con người quên mất Thiên Chúa là suối nguồn hạnh phúc thật. Những cuộc tranh chấp, chộp giật táng tận lương tâm đưa đến chém giết, thủ tiêu nhau của những kẻ tham nhũng, lường gạt, tham lam mới thấy rằng sự nghèo, sự đói khát chưa hẳn là một bất hạnh. Họ đã trở thành những kẻ thiếu thốn tình yêu và thiếu thốn lòng nhân ái. Giầu như vậy chưa phải là hạnh phúc.
Ngài nói người đói khát hạnh phúc và người no thỏa bất hạnh. Đây cũng là một lối so sánh giữa cái đói khát công chính, đói khát thánh thiện, với cái no thỏa phủ phê của cơm bánh, của dục vọng và đam mê. Một bên đem lại cho lòng người sự nhẹ nhàng, thanh thoát và bay bổng, một bên kéo ghì con người xuống vũng bùn nhơ nhớp của bản năng và của thế giới mau qua. Đói chân lý, đói điều thiện hảo, đói công bằng, đói tình thương là cái đói hạnh phúc. No cơm bánh, no rượu chè, no dục vọng là thứ no làm mờ lòa con mắt tâm linh. No như vậy không hẳn là cái no đem con người đến hạnh phúc.
Ngài chúc phúc cho những người đang phải khóc thương, và nguyền rủa những kẻ giờ đây đang cười nói vui vẻ. Khóc than, thống hối về tội lỗi của riêng mình và của nhân loại là sự khóc thương đem đến nguồn an ủi thiêng liêng. Khóc thương cho số phận con người lạc xa chân thiện mỹ là một sự khóc thương mở rộng chân trời hạnh phúc. Ngược lại, cười nói, sung sướng trên sự đau khổ của anh chị em mình là những nụ cười man rợ, những thái độ đáng nguyền rủa không những trước mặt Thiên Chúa mà còn ngay cả với con người. Làm sao ta có thể vui vẻ, hạnh phúc, và vui cười khi hành khổ, xúc phạm, và chà đạp nhân phẩm và thể xác anh chị em mình được! Làm sao một người mẹ, một người cha lại có thể vui cười hả hê khi đang tâm giết chết một đứa con trong bụng mình! Làm sao một người y sỹ lại có thể cười vui hả hê nhận đồng tiền thù lao vì đã phá thai cho một người! Làm sao một người lại có thể vui sướng, cười nói khi thu về những đồng tiền do việc cung cấp ma túy, hoặc cướp giật của người khác! Đấy chẳng phải là những nụ cười, những tiếng cười vô phúc và đáng nguyền rủa lắm sao.
Và sau cùng, phúc cho những ai bị bắt bớ, bị chà đạp, và bị trù dập. Sao Chúa lại cho những cái khốn nạn mà ai cũng sợ hãi này là hạnh phúc. Và sao ngài lại từ chối và coi rẻ sự vinh quang phú quý và danh vọng đời này vậy? Hẳn là ngài có lý do. Để được coi là có công lênh và đáng thưởng, nhất là phần thưởng của Nước Trời, đương nhiên phải có chiến đấu, phải có cơ hội lập công. Và đây là những dịp mà ngài mở ra để con người có thể chiếm hữu được phần thưởng ấy.
Ngược lại, những kẻ ngày đêm tìm kiếm vinh quang trần thế, họ cũng phải đau khổ, và vất vả lắm thế nên đâu còn giờ mà nghĩ đến hạnh phúc vĩnh cửu. Mà có nghĩ tới, chưa chắc họ dám đánh đổi cái mà họ đang có với cái mà Thiên Chúa hứa sẽ ban cho họ. Những kẻ đang nắm quyền chà đạp tự do, chà đạp nhân phẩm và chà đạp nhân quyền tại Việt Nam và một số quốc gia độc tài khác trên thế giới cũng vất vả và gian truân lắm, nhưng đó là cái giá mà họ mua lấy sự giầu sang, quyền lực trần thế. Sẵn lòng mất Thiên Đàng, mất phúc được làm con Chúa, mất đời đời vì một chút vinh quang chóng qua như vậy có phải là một bất hạnh lớn lao không?!!!
“Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương” (x. Luc 6: 20-23). Nếu vậy, bạn và tôi quả thật là những người hạnh phúc nhất đời. Chúng ta có đủ những lý do để được hạnh phúc. Chúng ta đang sống trong môi trường hạnh phúc. Bởi vì chúng ta là những người nghèo, những kẻ giờ đây đang sống trong cảnh đói, khát, lầm than. Hãy vui mừng và ngẩn đầu lên, vì Chúa đã chúc phúc cho chúng ta rồi. Chính ngài cũng đã sống và chấp nhận như vậy từ hang Bêlêm đến nhà Nagiaréth và trên thập giá ở núi Sọ.
4. Chú giải của Noel Quesson
Ngày hôm nay chúng ta suy niệm về “các mối phúc thật theo thánh Luca”: Chúng ta biết nhiều hơn về các mối phúc thật của thánh Matthêu, vẫn được hát trong ngày lễ Các Thánh. Nhung vì chúng ta có một Lời Chúa được truyền lại bởi hai truyền thống khác nhau, chúng ta hãy thử lắng nghe bản văn hoàn toàn đặc biệt của Luca. Ở đấy, có một thứ liệu quả của kỹ thuật âm thanh lập thể bởi hai cái loa khác nhau.
Các mối phúc thật theo Thánh Matthêu (5,1):
Bài giảng trên Núi…
Bao gồm chín “mối phúc thật…”
Nhấn mạnh đến sự “nghèo khó tâm linh”, sự đói khát công lý sự đau khổ nội tâm…
Các mối phúc thật của Thánh Luca (6,20):
Bài giảng ở chỗ đất bằng.
Bao gồm “bốn” mối phúc thật và bốn mối hoạ.
Nói về những người nghèo đói thật, bụng đói thật sự và khóc chảy nước mắt.
Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn
Như Môsê (Xh 19,21), Đức Giêsu xuống từ một ngọn núi nơi Người đã gặp Thiên Chúa. Vâng, trước khi nói với chúng ta điều Người sẽ nói, Đức Giêsu đã “qua một đêm cầu nguyện Thiên Chúa” (Lc 6,12). Thiên Chúa không nhìn sự vật như chúng ta. Đức Giêsu đã dùng cái nhìn của Thiên Chúa trong Thiên Chúa… trong một sự cầu nguyện kéo dài! Đối với chúng ta, hạnh phúc là một vấn đề của may mắn, sức khoẻ, tiền bạc, sự thành công. Chúng ta sắp nghe từ miệng của Đức Giêsu rằng, đối với Thiên Chúa, hạnh phúc là một vấn đề chọn lựa: Người ta quyết định mình được hạnh phúc! Phúc cho những người khốn khổ, Đức Giêsu sẽ nói như thế. Bạn có thể hạnh phúc, dù nghèo, dù đói, dù bị lăng nhục. Nghịch lý chăng: ảo tưởng phi thực chăng? Chúng ta hãy lắng nghe Đức Giêsu.
Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”
Ở đây trong tiếng Hy Lạp có từ: “makarioi” dịch từ một tiếng Do Thái thường gặp trong Kinh Thánh, đó là từ đầu tiên của Thánh Vịnh đầu tiên “asheri”… Đó là một từ ở số nhiều muốn diễn tả một niềm vui tràn đầy, mà ông Chouraqui vốn nhạy cảm với ngôn ngữ của mình, đã dịch bằng chữ “hoan hỉ”!
Khi loan báo niềm hạnh phúc, hoan hỉ cho những người khốn khó ở trần gian này, Đức Giêsu đáp lại sự chờ đợi lớn lao của họ.
Những người có mặt ngày hôm đó, trước mặt Người quả thật là những người’ “làm nghề mọn”, những “người bệnh tật” những người nghèo bị các thần ô uế “quấy nhiễu” (Lc 6,18). Sinh vật kỳ quặc! Con người đó không bao giờ thoả mãn với những khoái cảm xác thịt, cũng không bao giờ chịu được những đau khổ thân xác! Tại sao con vật ấy, khác với những sinh vật khác, biết mình giới hạn, tương đối và hữu hạn… vẫn giữ trong lòng mình khát vọng vô cùng về tuyệt đối? Tại sao lại muốn được hạnh phúc? Tại sao có khát vọng thánh thiêng ấy?
Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang khóc…
Matthêu đã tâm linh hoá khi diễn tả: “phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó!”
Còn Luca thì nói về những người nghèo thật sự, đói khát thật sự, đau khổ thực sự trong thân xác. Trạng ngữ “bây giờ” mà Luca xác định rất có ý nghĩa. Luca gợi ý rằng sẽ có một sự đảo lộn tình thế: anh em bây giờ đang khóc, anh em sẽ cười!
Người ta sẽ còn bàn cãi lâu dài để biết đích xác Đức Giêsu đã nói điều gì… và để biết trong hai bản văn của: Matthêu và của Luca bản văn nào là chính thức hơn. Thật ra, tại sao Đức Giêsu đã không nói cả hai điều đó… ngày hôm đó… hay trong nhiều lần khác?
Nếu người ta đọc toàn bộ Tin Mừng, thì dẫu sao chính cách giải thích của Luca xem ra gần với tư tưởng sâu xa của Đức Kitô hơn.. Đức Giêsu là Đấng “Mêsia của người nghèo”. Chính Người đã sống khó nghèo; nhiều lần Người đã cho thấy Người thích hướng về phía nào”. Dĩ nhiên, Người đã hiệp thông trong thân xác và trong cảm thức con người với điều kiện khắc nghiệt của những ai thiếu thốn. Khi chia sẻ thân phận của họ từ lúc nằm trong máng cỏ cho đến lúc bị đóng đinh, “không có một viên đá để kê đầu!”, Người đã cảm thấy một trái tim huynh đệ đang đập vì họ. Là Đấng Mêsia của người nghèo bị Do Thái giáo của giới trí thức Giêrusalem khinh bỉ, Đức Giêsu đã đau khổ như những “người phận nhỏ” và “cùng với họ” bị những “người có của” lăng nhục, khinh khi. Oi! sự khinh miệt đáng sợ ấy thường là vô thức đối với sự nghèo khó. Từ phía những kẻ no nê và cười ngạo nghễ. Vậy Đức Giêsu hứa hẹn gì với những người nghèo ấy?
Nước Thiên Chúa là của anh em… Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng… anh em sẽ được vui cười.
Vậy thì, những kẻ khốn khổ có thể được “hạnh phúc” như thế nào?
Bởi vì, Đức Giêsu đã nói: “Nước Thiên Chúa là của họ”. Sự khẳng định này là truyền thống, trong toàn bộ Kinh Thánh. Tương tự như thế, Giêrêmia (17,5-8) trong bài đọc mà chúng ta nghe hôm nay nói với chúng ta cùng một chân lý: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa… Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân “.
Nguy cơ to lớn của sự giàu sang chính là tạo ra sự thoả thích hoang tưởng. Người nào tự mãn với của cải trần thế dần dà sẽ nghĩ rằng mình có thể bỏ qua Thiên Chúa…Trái lại, người nghèo vốn không: có chỗ nương tựa nơi con người, vì thế được mời gọi hướng về Thiên Chúa. Chính sự giàu có đặt người giàu vào sự nguy hiểm, khi cất đi khối người ấy mọi “sự đói khát Thiên Chúa”, người ấy bị giam hãm trong “căn phòng đóng kín” của những hạnh phúc nhỏ bé phàm tục của mình. Bất hạnh của những người giàu chính là họ đặt cuộc quá thấp và quên rằng chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy khát vọng hạnh phúc vô cùng trong mỗi con người. Ngườí giàu có tự mãn bị tiền bạc của mình đánh lừa. Đức Giêsu sẽ nói về “tiền bạc, đánh. lừa” (Lc 16,9). Chúng ta sẽ nói gì về một người’ đánh cá ba con ngựa, lại dứt khoát đặt cuộc cho một con ngựa chắc chắn không bao giờ vượt qua mức đến? Vả lại, điều chắc chắn là trương mục trong ngân hàng sẽ không vượt qua “mức” vĩnh cửu. Sự giàu sang hứa hẹn hạnh phúc là một “điều dối trá”. Hạnh phúc duy nhất, chung cuộc quyết định, tuyệt đối, chính là Tình Yêu, chính là Thiên Chúa! Đó là Nước Thiên Chúa.
Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa.
Vậy thì, ai là nhân vật chủ chốt? Con Người… mà người nghèo sẽ có thể thiết lập tương quan? Thiên Chúa táo bạo biết bao trong Đức Giêu Nadarét ấy, trong người nghèo ấy vốn còn là một bí ẩn.
Câu này, cũng như nhiều câu khác trong Tin Mừng, cho thấy rằng nghèo khó hoặc khốn khổ không đủ đề có được “hạnh phúc của Thiên Chúa”. ‘Trái lại, cũng có khi sự đau khổ làm người ta chai cứng và chống lại Thiên Chúa. Giữa cơn thử thách, để đạt đến hành phúc mà: Đức Giêsu đã hứa, phải hiểu biết là đón nhận thử thách ấy trong chính ánh sáng của Đức Giêsu, Còn Người sư hiệp thông với Đức Giêsu là suối nguồn của mềm hân hoan. Lạy Chúa, xin hãy biến đổi những “thử thách” của con thành sự hân hoan” với Chúa.
Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế.
Đức Giêu không giải thích vấn đề sự ác, Đức Giêsu không biện minh cho sự đau khổ. Trong toàn bộ Tin Mừng, Người luôn chiến đấu chống lại đau khổ, Người chữa lành, an ủi, tha thứ. Nhưng ở đây, Người khẳng định, với sự bình thản và mạnh mẽ rằng đau khổ có thể trở thành nơi xuất hiện một niềm vui mầu nhiệm. Một sự “nhảy múa vui mừng”. Ai có tai để nghe phải hiểu. Vả lại, chúng ta hãy nhận ra sự tinh tế của tư tưởng ấy: Niềm vui được hứa chỉ khai mở trọn vẹn trong nước Trời… tuy nhiên nó đã được bắt đầu từ cái ngày người ta đau khổ.’Đức Tin là một sự tham dự trước vào Thiên Đàng, vào đời sống vĩnh cửu.
Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi!
Khác với Matthêu, Luca đặt vào trong miệng của Đức Giêsu bốn câu hoàn toàn đối lại…bốn mối phúc thật. Ở trên là đôi khi người ta gọi là các mối hoạ. Tuy nhiên người ta khó mà tưởng tượng các mối hoạ trong lòng của Đấng đã đến, để cứu chữa chứ không phải để chuộc tội. Trong bản văn tiếng Hy Lạp, không có các mối hoạ (Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có!”)… cũng không có sự lên án (Hỡi những kẻ giàu có? Một bất hạnh sẽ đến với các người!”)… nhưng chỉ là một thứ xác nhận một lời than thở: “A, giàu có khốn khổ biết bao!” Từ ngữ mà chúng ta dịch là khốn cho… “‘ không phải là một tính từ nhưng là một từ thán diễn tả sự đau xót: than ôi! các ngươi là những người giàu có!” ‘Vâng, Đức Giêsu trong một tiếng kêu đau đớn, than thở cho những kẻ giàu có: Tai hại cho họ biết bao nếu họ nhắm mắt trước những giá trị chân chính, những giá trị “vượt qua lằn mức”! Đáng buồn biết bao khi một Người đặt niềm tin của mình vào cái nay còn mai mất!
Hãy coi chừng! Hãy coi chừng! Lời cảnh báo ấy không phải chỉ dành cho những người khác. Tôi là kẻ giàu có ấy thường xuyên có nguy cơ quên đi điều chủ yếu.
Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói! Khốn cho các người, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than!
Đức Giêsu thật sự loan báo một sự lật ngược tình thế: Hình ảnh trong bản văn Hy Lạp còn mạnh hơn nhiều: ôi khốn khổ cho các người là những kẻ no nê! Than ôi! các ngươi là những kẻ no căng bụng!
Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.
Từ tưởng của Đức Giêsu, cũng như mọi tư tưởng Kinh Thánh và Do Thái là một tư tưởng tuyệt đối, bằng song luận: “hoặc là… hoặc là…” Qua các phản đề đối chiếu này. Có một sự đối lập không thể thoả hiệp được giữa Nước Thiên Chúa và tiền bạc. Người ta không thể cùng lúc phục vụ Thiên Chúa và Mam-mon! (Lc 16,13). Đức Maria đã hát trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat): “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng”.
Chúng ta có tiếp tục để mình bị ảo ảnh đánh lừa không? Chúng ta hãy bước theo Đức Giêsu. “Người vốn giàu sang phú quý, như đã tự ý trở nên nghèo khó” (2 Cr 8,9). Lạy Chúa Giêsu, Ngài là Đấng Nghèo Khó, Vinh quang đời đời của Thiên Chúa trong Ngài.
5. Chú giải của Fiches Dominicales
TÌM ĐÂU RA HẠNH PHÚC THẬT?
LÒNG NGƯỜI CHỈ TOẠI NGUYỆN KHI BƯỚC THEO ĐỨC GIÊSU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đường dẫn đến hạnh phúc thật
Chỉ có Mátthêu và Luca tường thuật lại các mối phúc. Tuy hai ông có lẽ cùng truy cứu chung một nguồn, nhưng mỗi người lại khai thác dữ liệu một cách độc đáo, khiến cho hai bản viết, bên cạnh những nét tương đồng rõ rệt, vẫn có những dị biệt tỏ tường về nội dung và con số các mối phúc cũng như về cấu trúc, thể văn và ý hướng.
– Nội dung các mối phúc theo thánh Luca rất khác với nội dung Bài giảng trên Núi của thánh Mátthêu.
Đức Giêsu lên núi, nơi “ Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”, trước khi chọn lấy mười hai ông trong số các môn đệ, mà người gọi họ là “tông đồ” nghĩa là kẻ được sai đi. Giờ đây Người đóng vai một Môsê mới, “xuống núi”, mang theo sứ điệp của Thiên Chúa và “dừng lại ở một chỗ đất bằng”, đối diện với “đông đảo môn đệ của Người” là đoàn lũ “dân chúng”, tiêu biểu cho những con người đến từ “khắp miền Giuđê, Giêrusalem” lẫn lộn với những người từ những miền dân ngoại thuộc “miền duyên hải Tyrô là Siđôn”. Những lời Người sắp tuyên bố là các mối phúc, được dành cho hết mọi người, vì chỉ có mình Người mới có thể thoả mãn được khát vọng hạnh phúc của con người. Cộng đoàn các môn đệ của Người, một khi đã lãnh hội và sống các mối phúc ấy sẽ phải làm chứng về các mối phúc ấy cho mọi người.
– Con số các mối phúc trong Matthêu là chín. Còn trong Luca chỉ có bốn. Điểm khác biệt nữa là: Luca cho thêm vào bốn “mối hoạ” đặt rất song hành với bốn “mối phúc”; đây không phải là những lời nguyền rủa, mà chỉ là những lời thiết tha kêu gọi những “người bất hạnh” ăn năn hối cải khi họ lỡ bước lao mình vào con đường sa đoạ.
Sau cùng, thể văn và ý hướng của các mối phúc này đều rất khác nhau. Thánh Matthêu trình bày các mối phúc ấy ở ngôi thứ ba số nhiều và nhắm những thái độ nội tâm: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó….” Còn Luca lại diễn tả ở ngôi thứ hai số nhiều và chỉ ra những loại người trong xã hội, mà “bây giờ” đang thực sự phải nghèo khổ, phải đói, phải khóc bị nguyền rủa hay bị ngược đãi: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói…” Nếu mối phúc thứ hai hay thứ ba loan báo một sự đảo ngược hoàn cảnh hoàn toàn thì tuyệt nhiên không phải có ý khuyến khích đương sự chịu đựng, luồn cúi vì hy vọng ở thế giới bên kia. Mối phúc thứ nhất và cuối cùng nói ở thì hiện tại: “Nước Thiên Chúa là của anh em”, “vì này đây, phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”; những mối phúc ấy tỏ cho biết rằng triều đại cứu thế đang được khai mở trong con người Đức Giêsu.
2. Meynet viết: “Nước Thiên Chúa, không phải đợi tới ngày tận thế, Nước ấy đang ở đây ngay hôm nay cho ai biết chọn lựa nước ấy… Cũng giống như Nước Chúa, thiên đàng (trời) không phải đợi mai sau mới có, thiên đàng là đây, ngay bây giờ, chứ không phải tìm kiếm ở nơi đâu khác; thiên đàng thuộc về một trật tự khác, trật tự của Thiên Chúa chứ không phải của loài người” (“L’evangile se lon saint Luc. Phân tích tu từ”, Cerf, trg 79).
3. Theo chân Đức Giêsu:
“Các mối phúc-mối hoạ” là mạc khải có tính tiên tri thúc giục ta hoán cải những quan niệm phàm trần của ta về hạnh phúc, nghèo đói và than khóc, theo ánh sáng của mầu nhiệm được tỏ ra ở đây: mầu nhiệm về Thiên Chúa muốn tỏ mình cho người ta chiêm ngưỡng Người trong mầu nhiệm Đức Giêsu, nơi Người mầu nhiệm về con người được soi sáng.
– Ở đây, người ta khám phá ra mầu nhiệm về Thiên Chúa đầy lòng xót thương những kẻ nghèo khổ. Ph. Bossuyt và J. Radermakers còn giải thích: Thực vậy, những người này, được tuyên bố là “người hạnh phúc”, bởi vì Thiên Chúa quan tâm tới họ. Vì người quan tâm tới họ, không phải vì họ có công trạng gì, nhưng vì chính hoàn cảnh của họ: nghèo khổ, phải đói, phải khóc, bị ngược đãi… Đây chính là mầu nhiệm khơi nguồn cho hiến chương Nước Trời vậy (Sđd, trg 241)
– Ở đây chúng ta cũng được đưa vào chính trung tâm mầu niệm Đức Giêsu mà ngay từ bài giảng khai mạc ở hội đường Nadarét Người đã hé mở cho thấy trước số phận Con người sẽ phải chịu: số phận một người bị hiểu lầm, bị chối bỏ.
Hai tác giả trên tiếp tục: “Vì vậy, chân lý của Thiên Chúa về các mối phúc, không tỏ ra tách biệt với số phận của con người. Hơn nữa chân lý ấy còn có một nền tảng vững chắc là tin vào lòng trung tín của Thiên Chúa như vẫn được biểu lộ ra trong con người Đức Giêsu. Những kẻ nghèo khổ, đói khát, khóc than là những người có phúc, bởi lẽ, trong Đức Giêsu, Thiên Chúa đã hành động quyết liệt để bênh vực họ, khi con Người sống lại từ trong kẻ chết. Người là đang thực hiện niềm hy vọng của họ” (Sđd, trg 242).
– Sau cùng, người ta thấy vén lên ở đây mầu nhiệm về con người, một sinh vật có một trang sử để sống, được kêu gọi để tự do lựa chọn, được mời gọi sống theo khuôn mẫu của Chúa được bày tỏ ra nơi Đức Giêsu Kitô, Con của Người. Tóm lại là dám nối gót theo chân Đức Giêsu chết và phục sinh.
BÀI ĐỌC THÊM.
1. “Đức Giêsu đã làm đảo lộn quan niệm về hạnh phúc cách khác thường”
Chẳng có gì là ngạc nhiên, khi thấy Đức Giêsu, Lời Thiên Chúa hoá thân, tự giới thiệu và khẳng định mình là “đường, sự thật là sự sống”. Ngay cả trước khi được gọi là Kitô hữu, những ai đã đặt lòng tin cậy nơi Đức Giêsu đều được gọi là “Người môn đệ của Đường”. Người là con đường tốt, là sự chọn lựa đúng cho ta, là đầu tư ngắn hạn và dài hạn rất tốt, vì thế mà thánh Phaolô mới nói rõ: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô, chỉ để mưu ích cho cuộc sống này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”.
Thực ra khi tuyên bố về các mối phúc, Đức Giêsu đã đảo ngược bậc thang truyền thống về các giá trị là đặc biệt làm đảo lộn cả quan niệm về hạnh phúc. Vậy mà thánh Luca vẫn không do dự giới thiệu các mối phúc ấy với các tín hữu ở thế kỷ đầu vốn đã phải gian nan vì bị ngờ vực, khinh bỉ và bách hại. Không chỉ coi đây là một lời hứa hay là quy tắc sống, phải chăng Luca còn muốn phác hoạ chân dung những con người bé mọn kia, họ đã nhờ Đức Kitô mà thay đổi hẳn ý nghĩa cuộc đời của họ? Kìa, những con người ấy cảm thấy hạnh phúc ngay trong những hoàn cảnh mà ta cho là không có mảy may khả năng nào để mà hạnh phúc và vui sướng được. Vậy mà đó lại là kinh nghiệm và chứng từ của những người nam cũng như nữ chịu để cho Thần Khí tác động và hướng dẫn, đặt niềm tin tưởng vào Người và đi theo con Đường của Người.
2. “Nguồn đích thực của tự do và hạnh phúc”
Có những người đặt tất cả hy vọng và dùng hết sức lực của mình để đạt cho được tự do và hạnh phúc bao lâu còn sống ở đời này: họ chẳng hy vọng gì ở thế giới bên kia.
Người khác đã có được niềm tin chắc chắn rằng cuộc sống trần gian chỉ là điểm xuất phát, là một chuyến đi hay là một cuộc tập nghề và cuộc sống ấy sẽ được viên mãn ở thế giới bên kia, sau khi chết. Vì thế không nhất thiết phải khinh chê những vui sướng phàm trần. Họ coi những vui sướng trần gian kia vừa mong manh vừa giới hạn nên chỉ là hình ảnh mờ nhạt tượng trưng cho cái được hứa cho con người. Hầu hết các tôn giáo đều ấp ủ niềm xác tín này.
Ngay từ Cựu ước, Thiên Chúa đã được khẳng định là cội nguồn hạnh phúc đích thực và duy nhất: người công chính là kẻ “bước đi với Chúa”. Trong quan niệm cổ xưa của Kinh Thánh, hạnh phúc ấy được thực hiện ngay ở đời này khi Thiên Chúa ban ân huệ cho ngươi trung tín như được sống lâu, đông con nhiều cháu, khoẻ mạnh, giàu có… Thế nhưng vẫn có những người công chính phải khốn khổ, bị khinh chê, bị bách hại: những người đó, Thiên Chúa hứa cho họ một sự đền bù mà bản chất thế nào thì còn bị che khuất.
Chính nhờ giáo huấn của Đức Kitô mà ta được biết rõ bản chất của hạnh phúc Thiên Chúa hứa ban cho con người, hạnh phúc của một tình yêu trọn vẹn, tuyệt đối, hoàn hảo: đó cũng chính là tình yêu hiệp nhất của Ba Ngôi trong tương quan với nhau.
Thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ, như bị chi phối hoàn toàn bởi một thứ tiếng lòng thổn thức “Thiên Chúa là tình Yêu”, thường diễn tả và quảng diễn lời mời gọi này của Thiên Chúa gởi đến cho con người: “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa là Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống tình yêu cốt ở điều này không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta. Thiên Chúa đã ban sự sống đời đời, và sự sống này ở trong Con của Người”.
Vậy con đường mà Người con ấy là Đức Giêsu Kitô đề nghị cho con người để đạt được sự sống và tình yêu sung mãn (sự sống và tình yêu luôn liên kết với nhau) được diễn tả đặc biệt trong đoạn Phúc âm nổi tiếng thường được biết dưới cái tên là Bài Giảng Trên Núi hay đúng hơn, là bài giảng về Các Mối Phúc Thật (phúc ở đây là hạnh phúc thật).
Thực ra, người ta có thể hiểu các mối phúc mà các Phúc âm Mátthêu (5,3-11) và Luca (6,20tt) trình bày, là phần dẫn nhập vào luân lý Kitô giáo, một nền luân lý chủ trương hạnh phúc là vì Thiên Chúa muốn cho con người được hạnh phúc, ngoài ra các mối phúc vừa đưa ra một lời hứa, vừa là con đường đưa đến hạnh phúc.
Lời hứa ban hạnh phúc bắt đầu được thực hiện ngay từ hôm nay, vì rằng thứ hạnh phúc Chúa ban cho con người đây, tiên vàn không phải là kết quả ở sức riêng của con người, nhưng là sự cởi mở đón nhận ân huệ của Thiên Chúa, ân huệ mà Chúa ban cho hết thảy mỗi người là được hiệp thông sự sống với Người. Sống luân lý theo Kitô giáo là đáp lại ân sủng của Chúa một cách tự do tự nguyện.
Con đường hạnh phúc là một lược đồ gợi ra những thái độ nội tâm phải sống (tâm hồn nghèo khó, dợn sơ, tin tưởng), những cách xứ sự đối với tha nhân (lòng thương xót, ý muốn hoà bình), những hoàn cảnh khó khăn phải đối phó (những thử thách về tâm hồn và vật chất, những sự bắt bớ). Tất cả những điều này đều hoà hợp chặt chẽ trong bản thân Đức Giêsu, Đấng được coi như thực hiện trọn vẹn nơi mình khát vọng hạnh phúc. Chính Người đã muốn sống cách hoàn hảo tinh thần của Mối Phúc trong cuộc sống của mình và đến cả trong cái chết của Người nữa.
Nếu như các mối phúc dẫn nhập vào một luân lý chủ trương hạnh phúc, thì không phải vì luân lý ấy có những lời khuyên thực hành rõ rệt, hoặc đòi hỏi phải tự mình cố gắng mới được nhưng luân lý ấy chỉ muốn đưa ra cho người ta một ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, ân huệ được hiệp thông trong sự sống và hoan lạc với Người. Ân huệ này, người ta sẽ bắt đầu tiếp nhận bằng cách ngày qua ngày sống hai giới luật về tình yêu của Chúa là yêu Chúa và yêu người. Giống như con đường hạnh phúc mà Đức Giêsu đã khởi sự và đi trước vậy.
Với người tín hữu, hãy hành động như Thiên Chúa, luôn sáng tạo và có sáng kiến như Người, biết hiến thân như Đức Kitô, đó là suối nguồn đích thực của tự do và hạnh phúc.
6. Hạnh phúc
Giữa lúc mọi nơi trong xã hội đang đẩy mạnh chương trình “Xoá đói giảm nghèo”, đồng thời báo chí không ngớt ca ngợi những tấm lòng của những nhà hảo tâm, giàu có đã rộng tay giúp đỡ cho những người khổ đau bệnh tật, nghèo khó bất hạnh. Thế mà Tin Mừng lại đưa ra một điều dường như nghịch lý: “Phúc cho kẻ đói khát, phúc cho kẻ nghèo khổ,… và khốn cho kẻ giàu có, no đủ…”. Vậy, phải chăng những người nghèo là người hạnh phúc, còn những người giàu có sẽ là người bất hạnh? Thế thì, vấn đề được đặt ra ở đây là: ai mới thật là người hạnh phúc, và phải sống thế nào để được hạnh phúc?
Những cơ nguy của người giàu có.
Với những lời có vẻ như lời nguyền rủa: khốn cho các ngươi là những người giàu có, no đủ… Chúng ta cần hiểu, đây là một lối văn thường gặp trong Cựu ước, các lời này không phải là những lời nguyền rủa hay lên án nhưng là những lời có ý ngăn đe thương hại.
Tại sao Chúa Giêsu lại ngăn đe thương hại những người giàu có, no đủ?
Ai cũng đi tìm hạnh phúc, đó là vấn đề cơ bản của cuộc sống con người. Thế nhưng, bi kịch của con người mọi thời khi cho rằng càng có nhiều tiền của, tiện nghi, quyền lực, danh vọng thì càng được hạnh phúc. Đây cũng là bi kịch của xã hội thời Chúa Giêsu, và cũng là bi kịch cho thời đại chúng ta.
Thật vậy, trong xã hội tiêu thụ ngày nay, nghệ thuật quảng cáo đạt đến mức thặng thừa đã đẩy người tiêu thụ từ trẻ em cho đến người lớn đến với những nhu cầu vật chất giả tạo. Người ta thi nhau mua sắm, càng mua càng thấy thiếu, càng sắm càng thấy chưa đủ. Người ta trở thành nô lệ cho nhu cầu tiêu dùng của mình, nô lệ cho tiện nghi máy móc, hưởng thụ. Thử hỏi như thế thì làm sao mà có được sự tự do và hạnh phúc thật?
Cũng trong xã hội tiêu thụ này, có không ít người xem sự giàu có, thành đạt, nổi tiếng, là cứu cánh duy nhất của cuộc đời, đến nỗi họ sẵn sàng chà đạp lên tất cả đạo đức luân lý, để đạt cho kỳ được điều họ muốn. Biết bao người đã ngã gục trước đồng tiền, tiền của kiếm được cách bất chính thì cũng được sử dụng một cách bất hảo, đem đổ vào các cuộc vui chơi sa đoạ trác táng… Họ phè phỡn ăn chơi, no nê, vui thú, trong khi có biết bao người vì họ mà phải tán gia bại sản. Và bên cạnh họ, còn biết bao người đói khổ, chỉ cần một lần tiêu xài của họ cũng có thể nuôi sống biết bao người trong nhiều tháng.
Bởi đó, Chúa Giêsu đã ngăn đe những người giàu có khi họ lấy của cải vật chất làm cứu cánh thay vì chỉ là phương tiện sử dụng trong cuộc sống hằng ngày. Họ chỉ cậy dựa vào quyền lực trần thế như lời ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc 1 đã cảnh báo: “Khốn cho kẻ tin tưởng vào người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ xa Chúa”.
Những cơ may của người nghèo khó.
Đối với những người nghèo khó, đói khát, thái độ của Chúa Giêsu đối với họ như thế nào? Phải chăng Chúa Giêsu đã rao giảng một điều nghịch lý khi cho đói, nghèo… là phúc?
Khi tuyên bố: phúc cho kẻ nghèo khó, đói khát, khóc lóc, bị bách hại… Chúa Giêsu không giảng dạy một điều nghịch lý, và Ngài cũng không chủ trương bần cùng hoá thế giới này. Khi tuyên bố: phúc cho kẻ nghèo khó, đói khát, khóc lóc, bị bách hại; Chúa Giêsu đã xác định cho con người một bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống.
Chính mối phúc cuối cùng cho thấy chìa khoá của câu trả lời: nghèo đói, khóc lóc, bị ganh ghét, xỉ vả vì Con Người, và cũng câu này cho biết chính các ngôn sứ cũng từng bị đối xử như thế. Vậy, có thể hiểu những người nghèo đói, khóc lóc được Thiên Chúa chúc phúc ở đây chính là những người mà tiên tri Giêrêmia đã loan báo: “Phúc thay cho những người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ”.
Bởi đó, những người nghèo khó mà Tin Mừng nhắc đến hôm nay không chỉ thuần tuý là những người thiếu cơm ăn áo mặc, nhưng là những người nghèo theo nghĩa biết tín thác cuộc đời mình trong tay Thiên Chúa, biết cậy dựa vào Chúa, lấy Chúa làm cứu cánh của cuộc đời mình. Như thế, họ sẽ trở thành những người có Thiên Chúa làm gia nghiệp, và họ sẽ là những người hạnh phúc thực sự, cho dẫu họ có là người nghèo đích thực.
Những cơ hội cho con người hôm nay.
Trong cuộc sống thực tại hôm nay, mỗi người đều phải vất vả với việc làm ra của cải để nuôi sống bản thân và gia đình. Nhưng lời Chúa hôm nay, đòi hỏi mỗi người làm sao một đàng vừa chu toàn trách nhiệm với gia đình, nhưng đàng khác vẫn sống niềm cậy trông vào Thiên Chúa.
Khi sống trọn vẹn niềm cậy trông vào Thiên Chúa, khi càng lệ thuộc vào Ngài, chúng ta càng cảm thấy tự do đối với của cải, vật chất nơi thế trần này. Khi đó, dù phải vất vả với cuộc sống, chúng ta sẽ sẵn sàng quan tâm đến những người chung quanh, nhất là những người nghèo thật sự, những người nghèo vật chất, nghèo tinh thần, nghèo học vấn… nhằm chia sẻ, những gì có thể được cho những người anh chị em cùng con một Cha trên trời.
Trong những năm qua, chúng ta thường nghe nói đến mẹ Têrêxa Calcutta, một người chỉ biết sống cho người khác: Khi còn tại thế, mẹ không thiếu tiền của, nhưng mẹ vẫn sống như một “người nghèo khó của Thiên Chúa”. Với chiếc xe hơi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tặng ở Bombay, mẹ đã bán để lấy tiền xây dựng một trung tâm lớn cho bệnh nhân phong. Với số tiền nhận từ giải Hoà Bình Gioan XXIII của Vatican, mẹ đã thiết lập một trung tâm phục hồi chức năng cho người cùi. Với số tiền nhận từ giải Nobel Hoà Bình mẹ đã xây nhà cho những người nghèo.
Mẹ Têrêxa đã tận hiến cuộc đời mình cho những người nghèo và tất cả những gì của mẹ đều thuộc về những người nghèo đói,khổ đau, vì mẹ luôn gắn kết cuộc đời mình với Đức Kitô, tín thác cuộc đời mẹ trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa. Mẹ đã lấy Thiên Chúa làm cứu cánh và cùng đích của cuộc đời mẹ.
Tóm lại, cho dù là người giàu sang hay người đói khổ, vẫn có thể trở thành “người nghèo của Thiên Chúa”, thành “người không vật sở hữu”, cho đi tất cả vì yêu mến và tín thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, lấy Chúa làm niềm cậy trông là niềm hạnh phúc. Xin cho mỗi chúng ta cho dẫu có là người nghèo khó, vất vả, khổ đau hay là người giàu có, biết lấy Chúa là niềm cậy trông, là niềm hạnh phúc.
7. Những mối phúc và những mối hoạ đích thực
(JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có thấy những mối phúc và hoạ đích thực bài Tin Mừng này có liên hệ đến luật nhân quả không? Bạn hiểu thế nào về luật nhân quả?
2. Nếu chỉ có đời sống trần gian này là duy nhất, thì bài Tin Mừng trên có còn đúng không? Nếu còn có đời sống vĩnh cửu nữa thì sao?
Suy tư gợi ý:
1. Luật nhân quả trong vũ trụ, trong cuộc đời trần gian
Bài Tin Mừng hôm nay nói lên tương quan nhân quả mang tính tất yếu giữa quá khứ và hiện tại, giữa hiện tại và tương lai, hay giữa thời trước và thời sau. Tương quan đó diễn tiến theo những định luật cố định đã được Thiên Chúa thiết lập trong vũ trụ. Những định luật đó có thể tóm lại trong những mệnh đề sau đây: Có gieo mới có gặt; Gieo nhân nào gặt quả nấy; Gieo ít thì gặt ít, gieo nhiều thì gặt nhiều; Từ lúc gieo đến lúc gặt đòi hỏi phải có thời gian, và phải vất vả bỏ công sức ra.
2. Giải thích luật nhân quả
– Có gieo mới có gặt: Không sự việc nào xảy ra trong cuộc đời mà không có nguyên nhân. Thấy một cây rợp bóng mát bên vệ đường, không ai nghĩ rằng tự nhiên nó mọc lên, mà nghĩ rằng phải có người trồng nó. Hay ít ra là có một con chim nào đó đã gieo hạt ở đấy… Hạnh phúc hay đau khổ ta được hưởng hay phải chịu đều có nguyên nhân do chính ta – đôi khi do ai đó – tạo ra trước đó. Và những gì ta đang có hoặc đang làm đều là nguyên nhân phát sinh hiệu quả trong tương lai. Sách Giảng Viên viết: “Kẻ không gieo chẳng bao giờ gặt” (Gv 11,4).
– Gieo nhân nào gặt quả nấy: Nhìn cây cam, ta chắc chắn nó phải mọc lên từ hạt cam, không thể từ một hạt khác được. Nghĩa là thấy nhân thì biết quả, và nhìn quả thì biết nhân: “Cứ xem người ta sinh ra quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt” (Mt 7,16-18). Cũng vậy, hành động tốt ắt phải đem lại hạnh phúc, và hành động xấu ắt phải dẫn đến đau khổ. Sự tương ứng này đạo Phật gọi là “nghiệp báo”. Thánh Kinh viết: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy” (Gl 6,7); “Gieo gió thì phải gặt bão” (Hs 8,7; x. G 4,8);
– “Gieo ít thì gặt ít, gieo nhiều thì gặt nhiều” (2Cr 9,6): Nhân và quả không chỉ tương ứng về chất, mà còn về lượng nữa. Gieo một hạt thì chỉ được một cây, gieo trăm hạt thì được cả trăm cây.
– Từ lúc gieo đến lúc gặt đòi hỏi phải có thời gian: Thời gian là một yếu tố quan trọng để hạt phát triển thành cây, và để cây ra trái. Thời gian đó lâu hay mau tuỳ từng loại cây. Cây ngô chỉ cần trồng 3 tháng là ra trái, nhưng cây sầu riêng thì phải mất 7 đến 10 năm. Không thể thúc cây mọc nhanh hơn hay giục hoa kết trái sớm hơn. Kết quả của việc lành nhiều khi phải 5, 10 năm sau mới hưởng được. Cũng như hậu quả của một hành động xấu phải 3, 4 năm hay cả chục năm sau mới thấy được. Do đó, nhiều khi phải chờ đợi kết quả, hoặc đừng tưởng sẽ tránh được hậu quả. Rất nhiều trường hợp hành động ở đời này, nhưng đến đời sau mới sinh kết quả hay hậu quả.
– … và phải vất vả bỏ công sức ra: Để cây lúa mọc lên và sinh ra hạt lúa, người nông dân phải cày bừa, gieo hạt, làm cỏ, dẫn nước, trừ sâu, bón phân, rồi gặt, đập lúa và xay lúa. Bao công lao và mồ hôi phải đổ ra: “Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” (Ca dao). Nhưng công lao và mồ hôi ấy nếu chính đáng sẽ đổi thành vui mừng và hạnh phúc: “Gieo trong đau thương sẽ gặt giữa vui mừng” (Tv 126,5-6).
Ai cũng sợ khổ và muốn được hạnh phúc. Nhưng người khôn thì tránh được khổ và tạo được hạnh phúc, còn người dại tuy muốn tránh khổ nhưng vẫn vướng đau khổ và không tìm thấy hạnh phúc. Vì «người khôn sợ nhân, người dại sợ quả». Muốn tránh khổ thì phải tránh từ nhân. Cứ tạo nhân khổ thì khi quả khổ đến làm sao tránh được? Muốn được phúc thì phải tạo phúc từ nhân. Nếu tạo nhân phúc thì dù chẳng mong cầu, quả phúc vẫn đến.
3. Luật nhân quả với các mối phúc thật và các mối hoạ thật
Chúng ta dễ hiểu đoạn Tin Mừng hôm nay khi đối chiếu nó với luật nhân quả và niềm tin vào đời sống vĩnh cửu sau cuộc sống ngắn ngủi này. Minh hoạ sau đây cũng giúp ta hiểu đoạn Tin Mừng trên sâu xa hơn.
Trên thế giới, có rất nhiều người đang phải sống trong những chế độ độc tài, thiếu nhân quyền và tự do cần thiết. Họ cảm thấy khó sống nên quyết tâm đi tị nạn, nghĩa là di chuyển với bất cứ giá nào đến những vùng đất tự do để cuộc sống thoải mái hơn. Những người có ý định đi tị nạn này có hai cách suy nghĩ và hai cách sống khi còn ở vùng đất cũ mà họ muốn rời bỏ:
Cách 1: Từ khi có ý định đi tị nạn, họ coi cuộc sống của họ tại vùng đất họ đang sống như cuộc sống tạm bợ, và coi cuộc sống họ sẽ sống tại vùng đất tự do mới là cuộc sống đích thực và lâu dài của họ. Vì thế, nhiều người đến tuổi lập gia đình đã không dấn thân vào tình yêu để không bị cản trở cho việc dời đổi chỗ ở. Nhiều người bị thiếu thốn nghèo khổ nhưng đã từ chối những chỗ làm có lương bổng rất lớn để khỏi bị ràng buộc vào hợp đồng khi cần phải ra đi. Nhiều người rất giàu có, thay vì mua sắm nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ sang trọng như những người giàu có khác, thì lại chấp nhận sống nghèo khổ để có thể dành tiền hầu có thể sử dụng trong cuộc sống mới. Tóm lại, tại vùng đất cũ, họ sống một cách đơn sơ, khó nghèo, làm những nghề tạm bợ để «lấy ngắn nuôi dài», tạm ngưng tiến hành tất cả những chuyện quan trọng trong cuộc đời. Tất cả đều để chuẩn bị cho cuộc sống sau này tại vùng đất tự do.
Cách 2: Mặc dù có ý định đi tị nạn, nhưng những người theo cách này chẳng chuẩn bị gì cho cuộc sống sắp tới. Khi còn sống tại vùng đất mà họ sẽ rời bỏ, họ sống như thể họ sẽ sống ở đấy vĩnh viễn. Vì thế, họ mua sắm nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ như bao người không có ý định tị nạn. Họ tiếp tục tính toán những chuyện lâu dài như dấn thân vào tình yêu hôn nhân, hợp đồng làm ăn lâu dài với nhiều người, v.v… Đến khi được phép ra đi, họ không kịp bán ruộng vườn, nhà cửa, xe cộ, nên phải bỏ lại tất cả. Tình yêu hôn nhân của họ đang tiến hành bỗng dở dang: đi thì đành phải chia tay với người yêu và thành kẻ bội tình, mà muốn chung tình thì phải bỏ ý định đi tị nạn… Các hợp đồng lâu dài bỗng nhiên bị cắt ngang và phải bồi thường (nếu không trả trước khi ra đi thì khi qua vùng đất mới cũng phải trả)… Vì thế, khi đến vùng đất tự do, họ không còn gì, mà nợ nần thì chồng chất.
Giữa hai cách ấy, cách nào khôn ngoan hơn? Khi còn ở vùng đất cũ, những người theo cách 1 phải sống thiếu thốn, khó khăn, đang khi những người theo cách 2 thì sống rất đầy đủ, ung dung. Nhưng khi sang đến vùng đất mới thì ngược lại, người theo cách 1 có một tương lai tươi sáng, còn người theo cách 2 có một tương lai đen tối. Vậy thì sự khó khăn thiếu thốn của những người theo cách 1 ở vùng đất cũ là hoạ hay là phúc? Và sự đầy đủ, ung dung của những người theo cách 2 ở vùng đất cũ là phúc hay là hoạ?
Cuộc đời ta đang sống tại trần gian – mà theo Thánh Kinh thì thủ lãnh của nó là ma quỉ (x. Ga 12,31; 14,30; 16,11; Ep 2,2) – đầy những bất trắc, đau khổ và đầy hạn chế… có khác gì cuộc sống khó khăn dưới một chế độ độc tài. Nhưng cũng theo Thánh Kinh, chúng ta còn có một cuộc sống khác lâu dài hơn, hạnh phúc hơn, tự do hơn rất nhiều ở bên kia cõi chết; đó là đời sau hay cuộc sống vĩnh cửu. Cuộc sống cơ cực đời này kéo dài nhiều lắm khoảng 100 năm, còn cuộc sống hạnh phúc kia kéo dài vô tận. Người Kitô hữu tuy sống ở trần gian, tuy tích cực xây dựng cuộc sống ở trần gian, nhưng tâm hồn luôn ngưỡng vọng về cuộc sống hạnh phúc đời sau. Có hai cách sống ở đời này, tương tự như cách 1 và 2 trong minh hoạ trên.
Mỗi người chúng ta đang sống theo cách nào? Những gì bất lợi cho cuộc sống đời sau, dù nó có đem lại lợi lộc vô vàn ở đời này, cũng là những mối hoạ. Còn những gì thuận lợi cho cuộc sống đời sau, dù có đem lại nhiều bất lợi cho cuộc sống đời này, cũng là những mối phúc. Đặt vấn đề như thế, chúng ta sẽ dễ hiểu được đâu là những mối phúc đích thực, đâu là những mối hoạ đích thực khi ở trần gian này. Nhờ đó ta mới hiểu được những câu nói có vẻ như nghịch lý của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng trên.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con biết luật nhân quả là gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Nếu con gieo nhân thuộc trần gian, con sẽ gặt được những gì thuộc trần gian. Nếu con gieo nhân thuộc vĩnh cửu, con sẽ gặt được những gì thuộc vĩnh cửu. Khi còn ở trần gian, nếu con chỉ gieo nhân thuộc trần gian, thì khi bước sang đời sống vĩnh cửu, con hoàn toàn trắng tay. Nếu ở đời này, con gieo nhân cho đời sau, thì đời sau con sẽ giàu có, nhưng đời này con phải chấp nhận cuộc sống chỉ tạm đủ với những gì tình thương quan phòng của Cha ban cho con. Xin cho con nhận ra đâu là cách gieo nhân khôn ngoan nhất, đem lại lợi ích cho con nhất.
8. Những mối phúc đích thực
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi ngạc nhiên và sửng sốt khi Chúa Giêsu chúc phúc cho những người nghèo đói, khóc than, bị oán ghét, bị khai trừ, sỉ nhục và đi kèm theo là những lời nguyền rủa những người giàu có, no nê, phè phỡn, vui cười, được mọi người ca tụng. Chúng ta có thể nhận ra những nghịch lý, những đối chọi giữa người giàu, kẻ nghèo, giữa những người đói khát và những người no nê. Đây là hai giai cấp trong xã hội giữa giàu và nghèo mà Tin Mừng mô tả để người môn đệ Chúa chọn lựa.
Có một nghịch lý rất cơ bản mà Tin Mừng gợi lên, đó là Chúa luôn chúc phúc cho những người nghèo khó không ham lợi lộc thế gian, biết cam với số phận, biết bám chặt vào Chúa. Đối với những người này, Chúa luôn hướng họ tới một niềm hy vọng hạnh phúc tương lai. Chúa cũng không lên án những người giàu có biết chia sẻ, biết cảm thông với người khác. Chúa chỉ lên án những hạng giàu có như ông phú hộ giàu không biết quan tâm, không thương xót. Những người giàu có biết chia sẻ sẽ được hạnh phúc cả đời này, lẫn đời sau bởi vì họ biết trao ban, cảm thông và sẻ chia.
Chúa không lên án của cải nói chung, nhưng lên án cách đặc biệt cách sử dụng tiền của. Vâng, của cải có thể tốt nhưng cũng có thể xấu. Tiền bạc là con dao hai lưỡi: nó có thể sử dụng vào việc tốt cũng như việc xấu. Chúa lên án những người giàu chỉ khư khư bám lấy của cải và chỉ thiển cận nhìn thấy cái nẫm, cái kho tàng của mình thôi. Họ để cho tiền của nhận chìm họ trong những sự việc hào nhoáng bề ngoài, những sự mau qua của trần thế này. Họ không hiểu cái mau qua và cùng đích của đời sống, của con người. Họ quên đi cùng đích hay mục đích của con người là “ Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người “ (Mt 6, 33 ). Chính vì thế mà họ đã chỉ tìm phương tiện, và để cùng đích tan biến trong phương tiện.Chúa chỉ lên án hạng giàu sang nhưng sống ích kỷ, sống bo bo với con người của mình. Họ sống theo chủ nghĩa cá nhân và quên đi họ còn mắc nợ nhiều người bởi vì đời sống con người là một sự liên đới không thể tách rời.
Chúng ta sống có nợ với nhau, chúng ta nợ ấy cho kẻ đói ăn, cho kẻ kẻ rách rưới ăn mặc, cho kẻ khát uống, thăm viếng kẻ tù đày. Nói như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:” Sống trên đời phải có tấm lòng “. Đặc biệt Chúa dạy:” Hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương các con “. Do đó, người giàu, làm giàu một cách lương thiện, chính đáng không phải là tội.Tiêu xài căn cơ, đúng không phải là điều xấu xa. Nhưng giầu có, hưởng thụ và làm ngơ trước sự đau khổ của người khác là một tội ác. Hạnh phúc thật không phải do sự giầu có mà là sự trao ban như thánh Phaolô viết:” Cho thì có phúc hơn nhận lãnh “. Hạnh phúc thật là sống trong an bình, thanh thản và tử tế với mọi người.
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay đã mở ra cho chúng ta một chân trời mới, một trật tự mới, trật tự khác với trật tự chúng ta đang sống. Trật tự, chân trời mới được đặt trên nền tảng là chính Thiên Chúa, niềm tin và niềm cậy trông của người môn đệ Chúa. Giầu có biết chia sẻ, biết trao ban là hạnh phúc thật. Nghèo khó nhưng biết phó thác, tin tường, cậy trông và không tham lam của cải, không tham lam tiền của của ngưởi khác là hạnh phúc thật.
Thánh Luca ghi lại những lời chúc phúc và những lời chúc dữ của Chúa Giêsu với chủ ý vạch ra con đường mà những người muốn theo Chúa phải lựa chọn. Con đường đó là con đường siêu thoát đối với những quyến rũ, những cạm bẫy của trần gian để chỉ khao khát và tìm kiếm và cậy trông vào Chúa đến cùng.
9. Hạnh phúc thật – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Nếu chúng ta có chìa khóa của Thánh Phêrô để mở cửa thiên đàng, chúng ta sẽ thấy đầy những người nghèo như “bà góa nghèo đến bỏ tiền vào đền thờ hai đồng kẽm chỉ bằng một phần tư đồng bạc Rôma” (Mc. 12, 42), đầy những kẻ đói khát như anh ăn mày Ladarô mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà giàu (Lc. 16, 20), đầy những người khóc lóc như con thành Giêrusalem đến khóc thương Chúa trên đường vác Thánh giá, đã được Chúa đứng lại yên ủi như Cha yên ủi con trong cơn khóc lóc, hay như Phêrô khóc than vì đã phạm tội chối Thầy ba lần, đầy những người bị oán ghét, khai trừ, nhục mạ và xóa bỏ tên tuổi coi như đồ xấu xa như Đức Giêsu, Gioan tiền hô, các tiên tri và các thánh tử đạo.
Nếu chúng ta có quyền tự lực đập tan cửa hỏa ngục, chúng ta sẽ thấy đầy dẫy những hạng phú hộ ăn chơi, những hạng tham ô, móc ngoặc, những quản lý giết người cướp của, như hạng nhà giàu không thương giúp Ladarô, hạng kinh sư móc hết tài sản các bà góa, hạng tá điền cướp vườn nho (Mc. 12. 1-9, 38-40), đầy những hạng quyền quý sang trọng được tung hô, yến tiệc khao vọng, múa nhẩy, nghiện ngập như Hêrôđê no say còn bày trò chém đầu Gioan tiên hô, đầy hạng vui cười, chế nhạo, oán thù như quân dữ, trưởng tế và luật sĩ nhục mạ Đức Giêsu lúc bị treo trên Thánh giá.
Tại sao những người nghèo khó, đói khát, khóc lóc bị oán ghét lại được Chúa chúc phúc chan chứa vui mừng trong vinh quang nước trời?
Thưa, vì họ bị đàn áp, bóc lột, tước đoạt hết các thứ thuộc về thế gian. Hàng đoàn đám đông dân chúng đó chỉ còn biết trông cậy vào Đức Giêsu. Họ bỏ cả quê hương danh tiếng như Giudêa, Giêrusalem, Tyrô, Siđon để đến theo Chúa. Người đã cứu chữa họ cả xác lẫn hồn. Người vừa chữa cho họ khỏi tật nguyền quỷ ám, vừa giảng cho họ biết đường sống hạnh phúc muôn thuở.
Họ là những người nghèo khó về tiền của như Đức Giêsu không có chỗ tựa đầu, nhưng lại giầu lòng thương người như Đức Giêsu đã cho bao nhiêu người nương tựa. Họ nghèo khó, vì không tham lam, trộm cắp, nhưng lại giầu tinh thần cao quý thanh tao, siêu thoát. Họ nghèo của trần tục, nhưng họ giầu của nước trời. Họ là những người bụng đói của ăn như Ngài, đến nỗi các môn đệ bứt lúa ăn và bị chỉ trích, nhưng họ khao khát công chính và theo Ngài đi rao giảng Tin Mừng nước trời cho muôn dân. Họ đói bánh nuôi cái bụng, nhưng họ thoả dạ an lòng vì siêng năng rước Bánh Hằng sống.
Họ là những người sầu khổ khóc lóc thương xót bao nhiêu cảnh lầm than như Chúa đã khóc thương Ladarô, khóc thương thành Giêrusalem và chịu chết cho con cháu họ. Ít ra, họ là những người như Phêrô biết ăn năn thống hối và trở lại với Thầy để lãnh nhận trách nhiệm cứu giúp muôn dân sa ngã như mình.
Họ là những người hy sinh chịu đau khổ, oan uổng, bất công, biết vác thập giá theo Chúa để cứu nhân độ thế. Họ đã được phần thưởng lớn lao trên nước trời.
Tại sao những kẻ giầu, no nê, vui sướng, vinh quang lại bị chúc dữ?
Thưa, họ là những kẻ ham danh, ham lợi, ham thú vui vật chất phàm tục. Họ cậy vào tiền của vì họ tưởng: “Có tiền mua tiên cũng được”, chẳng cần đến ai. Họ xa lìa Thiên Chúa đi theo các thần tài, thần hoàng, thần nữ, thần thổ địa và các thần tượng. Đó là các tử thần, họ sẽ chết theo chúng.
Lịch sử đã cho thấy, khi con người nghèo đói, túng cực, lam lũ khổ sở, họ sốt sắng chạy đến kêu cầu, trông cậy vào Thiên Chúa. Nhưng khi được ấm no, sung túc thì ăn chơi, lười biếng, cậy mình kiêu ngạo, không cần đến Thiên Chúa nữa. Dân nước Balan trước đây hơn 90% siêng năng đi lễ, cầu nguyện, đoàn kết như một, dưới quyền hướng dẫn của Giáo Hội. Nay được dễ dãi, làm ăn phát đạt, họ lại chia rẽ, khinh thường hàng giáo phẩm và xa lìa Thiên Chúa. Các nước Âu Mỹ cũng thế. Giáo dân Việt Nam cũng không khá gì: trong những năm 1975-1985, đời sống đói khổ, thì ngày thường cũng như Chúa nhật nhà thờ đầy người. Nay, ngày thường chỉ leo teo một số cụ già, con nít, còn thanh niên người lớn có tiền bạc, ăn chơi, rượu chè, hút sách bất tận. Chúa nhật đi lễ hơn một giờ thì thấy lâu, sốt ruột, ngồi ngoài sân, đứng lấp ló xó nọ góc kia, nói chuyện, hút thuốc, mà không biết rằng ai cho cái miệng để ăn nói, ai cho cái mũi để thở, ai cho hơi thở khí mát để sống. Thật vô phúc, vô ơn Thiên Chúa đến chừng nào! Những hạng đó đến bao giờ mới được chúc phúc, Đức Giêsu còn phải chúc dữ đến bao giờ!
Người ta nói: “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Trồng người để có người tốt, có dòng giống con cháu tốt thì mới có việc tốt, nhờ đó xây dựng gia đình, xã hội tốt từ đời này tới đời kia, lâu dài hàng trăm năm. Trồng cây để lấy của hưởng thụ, chỉ được mươi mười năm là hết. Biết rõ như thế, những bậc thánh hiền vĩ nhân luôn luôn quan tâm đặc biệt tới trồng người, dù có phải sống hy sinh kham khổ như Khổng Tử, Đức Phật.
Khổng Tử đã từ chức quan đại thần sống thật thanh bần: “Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay gối đầu, lòng đầy hoan lạc. Bất nghĩa mà giầu sang, ta coi như phù vân … Ta thường trọn ngày quên ăn, trọn đêm quên ngủ vì suy tư … lo đạt đạo” (Ln. 7, 15 và 15, 30-31). Đức Phật không thể chịu nỗi cảnh giầu sang, danh vọng của hoàng cung, đã trốn lên rừng tìm đạo để cứu nhân độ thế, thoát khỏi cảnh khổ của hoàng cung phàm trần này mà nhân loại đang trầm luân trong đó. Các vị đó thật giống với cuộc đời thanh bần trong sáng của Đức Kitô: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc. 9, 58). Vậy hạnh phúc muôn thuở của các ngài, không phải giầu sang, quyền quý, mà là siêu thoát để truyền dậy chân lý không mệt.
Lạy Chúa, xin cho con “đừng tựa vào tường vì tường sẽ đổ, đừng tựa vào cây vì cây sẽ gẫy, đừng tựa vào người vì người sẽ chết” mà chỉ lo sống tựa vào lời chúc phúc của Chúa mà thôi.
10. Sẽ được đáp đền – Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Nghèo khó, đói khát là những thứ tai hoạ mà người đời tìm cách khắc phục, tiêu diệt cho đến cùng. Nhân loại hôm nay đang cùng nhau nổ lực xoá đói giảm nghèo. Vậy mà sao Chúa Giêsu lại nói: Phúc cho anh em là những người nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ bây giờ phải đói? Không lẽ Chúa Giêsu lại chủ trương một đời sống nghèo nàn, đói khát và lạc hậu sao?
Tất nhiên là không. Chúa Giêsu muốn cho mọi người được hạnh phúc và no đủ. Trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy xin Chúa Cha ban cho lương thực hằng ngày và chính Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và dư dật cho những người đi theo Chúa vào nơi hoang vắng hôm xưa được ăn no.
Thế thì tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ đói khát”?
Ðể hiểu rõ lời Chúa Giêsu dạy, chúng ta hãy đọc cho kỹ câu văn: Bấy giờ “Ðức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… là những kẻ bây giờ phải đói… bây giờ đang khóc…”
Thánh Luca ghi rõ: “Ðức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói…” Vậy thì đây là những lời Ðức Giêsu trực tiếp nói với các môn đệ và đối tượng đầu tiên của các mối phúc nầy chính là những môn đệ của Chúa Giêsu.
Trước đây, các môn đệ như Phê-rô, An-rê, Gioan, Giacôbê là những những khá giả có ghe, có thuyền, có lưới… ngày ngày đánh bắt được tôm cá để nuôi sống gia đình và bản thân. Nay vì theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, các vị từ bỏ ghe thuyền, nhà cửa, nghề nghiệp, bỏ lại cả vợ con, ra đi với hai bàn tay trắng, lên đường phục vụ cho Tin Mừng. Vì thế các ngài là những người trở nên nghèo thiếu vì Tin Mừng và vì Chúa Giêsu. Thế nên các ngài sẽ được Chúa Giêsu trọng thưởng. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đâu có thua lòng quảng đại của con người.
Trước đây, với nghề chài lưới trên một vùng biển vốn nhiều tôm cá, các môn đệ Chúa Giêsu không biết đói khát là gì. Thế mà từ ngày lang bạt theo Chúa Giêsu rày đây mai đó để loan báo Tin Mừng, các ngài phải chịu cảnh bữa đói bữa no. Có lần các môn đệ khi đi qua đồng lúa, phải bứt lúa mà ăn cho đỡ đói (Mt 12,1). Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng quảng đại ắt sẽ bù đắp cho họ dư đầy. “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng”.
Rồi cũng theo dòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu nói: Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”.
Như vậy, nói tóm lại, các môn đệ sẽ được dư đầy hồng phúc vì các ngài đã chịu nghèo đói, thua thiệt vì Chúa Giêsu và vì Tin Mừng của Ngài. Hôm nay cũng thế, nếu chúng ta chấp nhận hy sinh vì Chúa, chịu thiệt thòi mất mát vì Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban thưởng dư đầy, bởi vì lòng quảng đại của Thiên Chúa thì triệu lần lớn lao hơn lòng quảng đại của chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Chúa một, Chúa sẽ ban thưởng gấp trăm gấp ngàn.
Các môn đệ của Chúa Giêsu là những người đã dốc hết cuộc đời cho Chúa Giêsu và cho việc rao giảng Tin Mừng, đến nỗi các ngài trở nên nghèo thiếu, trống không vì Chúa Giêsu, thế nên các ngài sẽ được Thiên Chúa đổ đầy hồng ân. Nước Thiên Chúa thuộc về các ngài. Hạnh phúc thiên đàng đang ở trong tầm tay.
Nếu hôm nay, chúng ta không bủn xỉn như gã ăn xin trên đây, nhưng biết rộng lượng cống hiến cho Chúa khả năng, thời giờ, sức lực, trí tuệ… của chúng ta cho Thiên Chúa và cho việc loan báo Tin Mừng như các môn đệ của Chúa Giêsu năm xưa, chúng ta cũng sẽ là những người được Thiên Chúa ban cho dư đầy phúc lộc mai sau và đối tượng của những lời chúc phúc của Chúa Giêsu trong Tin Mừng là hôm nay cũng chính là chúng ta.