Dâng hiến Sáng tạo (phần 8)
3. Khuynh hướng thu mình hay lẩn tránh (withdrawal tendencies)
Khuynh hướng đào thoát hay động năng lẩn tránh xuất hiện dưới nhiều hình thái khác nhau và kết hợp với những đặc tính đủ loại của nhân cách. Cách chung, người sử dụng phương thức này thay thế các giải pháp đích thực bằng các giải pháp giả tạo và thay thế các niềm vui và thành công trong thực tại bằng những niềm vui và thành công tưởng tượng. Tu sĩ, vốn bị bó buộc phải tập trung trên việc phát triển một đời sống nội tâm vững mạnh, cần phải thận trọng để phân biệt – để khỏi lẫn lộn – giữa các cơ chế lẩn tránh nguy hại đến nhân cách và lòng yêu chuộng cô tịch, cần thiết cho một nền tu đức đích thực.
Người bị ám ảnh bởi các động năng lẩn tránh rất nhạy cảm, ngờ vực, cô độc và đóng kín, tự-quy (self-centered = quy về mình). Họ khó cộng tác với kẻ khác trong việc theo đuổi mục đích đại sự của tập thể. Trong cộng đoàn, họ sống kín đáo, có vẻ dễ bảo, bởi đó không ai để ý đến họ trong một thời gian dài.
Trong mọi động năng điều ứng mà ta bàn cãi, có lẽ cách sống này là nguy hại nhất cho việc xây dựng nhân cách trưởng thành. Các xu hướng thu mình vào ốc đảo là cơ sở cho tình trạng phân đôi nhân cách hay “tâm thần phân liệt” (schizophrenia), một trong những hình thức loạn tâm thần thường xảy ra, nhất là ở lớp người trẻ. Nếu phân tích cẩn thận tiến trình này, người ta thấy được vào lúc đầu có một khuynh hướng đáng ngại về ấu trĩ tâm lý nghiêm trọng.
Các động năng lẩn tránh (escape dynamisms), được sử dụng để trốn thoát những thực tại khó chịu, rất tinh vi trong cách bộc lộ của chúng nơi tác phong. Ví dụ: một tu sĩ ghét nhiều người và gán ghép sư đố kỵ này cho sự vô lý của người khác thay vì nhìn nhận sự thiếu thích ứng nơi mình, thì người ấy bộc lộ một thái độ sâu xa hơn là một ác cảm thông thường. Đối với đương sự, vấn đề đã được giải quyết khi cho rằng sự căng thẳng của họ xuất phát từ các nguyên nhân ngoại tại. Bởi thế, họ không thể giải quyết vấn đề cách hiện thực.
Họ còn xác tín rằng mọi người đều liên tục làm khổ họ, lạm dụng họ đến mức độ tối đa và hoàn cảnh của họ quá khó, đến độ phải thường xuyên bị trầm cảm. Người tu sĩ có xu hướng này cảm thấy bị đè bẹp dưới gánh trách nhiệm và căng thẳng đến mức độ tuyệt vọng. Thế rồi họ lại đi tìm nguyên nhân ở bên ngoài thay vì tìm cách thích ứng bên trong. Nếu trách nhiệm của họ quá khó, họ có khuynh hướng quay về với chính mình hơn là tìm cách giải quyết vấn đề với bề trên hay người phụ trách cao hơn.
Một tu sĩ bị khống chế bởi khuynh hướng lẩn tránh thường đi lệch đường để khỏi gặp anh em: họ thích ở một mình liên tục hơn là ở chung với người khác. Vì họ phải khổ cực nhiều để hòa hợp với người khác, họ tìm cách trốn tránh giờ giải trí hay dịp lễ hội đăc biệt. Nếu bị bắt buộc ở trong nhóm, họ cũng tìm cách thu mình bằng cách tưởng nghĩ đến công việc riêng của mình và bỏ quên câu chuyện của người khác. Nếu có mở miệng nói điều gì, thì cũng chỉ để ca tụng thời hạnh phúc xa xưa khi còn trẻ, hay trước khi vào dòng.
Họ bộc lộ cách tinh vi ước muốn vô thức trở lại thành trẻ con. Họ đả kích các công việc quản lý cộng đoàn thật kịch liệt nhưng không đề nghị một giải pháp cụ thể tốt đẹp nào. Họ chỉ biết nói và mơ tưởng về thành quả hơn là nói về những phương thế thực hiện chúng. Họ thù ghét đám người trẻ vì nghĩ rằng những người này sống thoải mái, dễ chịu hơn họ. Tư tưởng và lời nói của họ cho thấy những mặc cảm tự ti rất sâu đậm và khó lay chuyển.
Một vài thái độ nơi người bình thường
Phải biết rằng cả những con người bình thường thỉnh thoảng cũng có một vài thái độ lệch lạc này. Nhưng nếu người ta cố ý cho phép chúng thành cố định hay có quá nhiều động năng lẩn tránh, thì chúng có thể làm phương hại đến hiệu năng cá nhân và gây nên một sự xáo trộn bệnh hoạn bằng cách làm sai lệch nhận thức về thực tại.
Cần phải ý thức rõ ràng là tình trạng ốc đảo và lẩn tránh đều là những động năng điều ứng, chống lại sự thất bại. Thái độ mà chúng che giấu, được giản lược vào nguyên tắc: “tốt hơn là không động đậy và được yên thân”. Thường thì người “thu mình, lẩn trốn” không dám nói gì, vì sợ sai lầm. Họ lắm lời khuyên bảo nhưng không dám ra tay hành động, vì muốn chờ xem hơn là phải phiêu lưu. Một dấu hiệu nghiêm trọng hơn về cơn bệnh của họ là sự thiếu hứng thú và không cầu tiến, vốn được bộc lộ trong thái độ thiếu nhiệt tình khi làm việc hay khi giải trí.
1/ Mộng tưởng ban ngày (The Habitual Daydream)
Hình thức co cụm, thoái hồi (withdrawal/ retrait) thông thường nhất là thói quen mộng tưởng hay mơ mộng giữa ban ngày. Ai lại không có kinh nghiệm về điều đó? Tuy nhiên người “ốc đảo” thu mình vào đó như một cách thức lẩn trốn đều đặn. Khi họ gặp thất bại trong đời sống thực tế, thì họ ẩn náu trong các sự thỏa mãn và thành công tưởng tượng. Càng thất vọng thì người ta càng phó mặc cho tưởng tượng hành động.
Một trong những mục đích của tưởng tượng là đề cao cái tôi. Bất kể đến thực tại, người mơ mộng tưởng mình là một vị đại thánh, một vĩ nhân. Họ tự tạo cho mình một thế giới ảo ảnh, nơi đó họ coi mình như một nhân vật quan trọng. Sinh hoạt nội tại này làm giảm bớt sự áy náy và đau khổ, do các tình cảm tự ti và bất an đem đến. Tuy nhiên khi họ bắt buộc phải trở về với thực tại, thì các tình cảm ấy càng tăng thêm cường độ.
Đối với một người bình thường, thì không thể duy trì các ảo ảnh đối nghịch với thực tại cuộc đời. Khi sự điều chỉnh đối với thực tại được đúng mức, thì ảo ảnh cũng biến tan. Trong trường hợp ngược lại, chúng có thể gia tăng cường độ và bị méo lệch đến độ chúng xác định tác phong bên ngoài một cách hiện thực như kinh nghiệm ngoại tại hay môi trường xác định tác phong của một người. Hành vi của một vài người bị tâm bệnh thường tìm thấy nguyên nhân và được giải thích bởi những khuôn mẫu giả tưởng của họ.
Nếu phân tích kỹ lưỡng các ảo ảnh, đặc biệt là các loại mơ mộng, người ta có thể hiểu loại động năng điều ứng này nhiều hơn. Nó thường hay xuất hiện vào thời kỳ đầu, vào các giai đoạn chuyển tiếp và các giai đoạn căng thẳng của đời sống tu trì. Các động năng đào thoát nơi các tu sĩ lớn tuổi có thể bắt nguồn từ những thói quen đã thành hình trong quá khứ, cả khi chúng vẫn còn ngủ yên trong một thời gian rất dài. Thói quen mơ mộng không bắt đầu vào thời trưởng thành, song có thể tái xuất hiện vào những giai đoạn chuyển tiếp và những thời kỳ khủng hoảng.
Đời sống tu trì đòi hỏi một sự tập trung trên các tiến trình tâm linh lớn hơn là đối với các bậc sống khác. Như chúng ta đã thấy ở trên, các lý tưởng và quy luật đời tu được thiết lập nhờ các tiến trình tâm lý. Tất cả tòa nhà đời sống thiêng liêng được xây dựng trên kinh nguyện và suy niệm, hai công việc tự yếu tính, có bản chất tâm linh. Để suy niệm, nhất là trong giai đoạn đầu, trí tưởng tượng rất cần thiết để ghi nhớ lại đời sống của Chúa Giêsu, để hình dung khung cảnh các biến cố được Kinh Thánh kể lại, để sắp xếp môi trường theo các chủ đề. Tiến trình tư duy giúp chúng ta suy niệm – hãy nhớ kỹ điều này – cũng chính là những tiến trình có thể tạo nên các ảo ảnh lẩn trốn. Tuy nhiên cũng có những đặc điểm rõ rệt giúp phân biệt các ảo ảnh khi mơ mộng với những hình ảnh hữu ích cho việc cầu nguyện.
(1) Mơ mộng hay ảo ảnh vô thức là cách phô diễn của những ước muốn được tán thưởng và thán phục, nhưng thường không được thỏa mãn, vì chúng vượt quá các khả năng và sức mạnh của ý chí nơi người mộng tưởng.
(2) Mơ mộng luôn đem đến vui thích; người mơ mộng không dừng lại nơi các vấn đề hay sự vật gây khó chịu.
(3) Tất cả những người mơ mộng đều vị kỷ. Họ là trung tâm của sự chú ý, cả khi có người khác xuất hiện trong trí tưởng tượng của họ.
(4) Người mơ mộng không thích kể lại mộng tưởng của mình, nhất là vì họ không muốn chấp nhận ai khác vào trong thế giới tưởng tượng của họ.
Tất cả những đặc điểm trên đều là những chướng ngại cho việc suy niệm tốt đẹp: đó là những khuyết điểm làm phương hại đến nỗ lực chú ý vào các mầu nhiệm Chúa Cứu Thế cũng như các việc đạo đức khác. Đối với những người “thu mình vào ốc đảo”, giờ suy niệm và cầu nguyện có thể là lúc mơ mộng tập trung, nặng nề đến độ trở thành những nguyên nhân trầm trọng cho sự xáo trộn nhân cách.
Nếu một người trẻ đi vào đời sống tu trì với khuynh hướng lẩn trốn mạnh mẽ thì có thể dễ dàng phát triển một sự xáo trộn tâm lý trầm trọng sau một thời gian. Vì không biết được sự khác biệt giữa cầu nguyện đích thực và những sự phiêu lưu của tưởng tượng, họ liều lĩnh đánh mất một số thời gian rất lớn dành cho việc cầu nguyện hay tệ hơn nữa, họ có nguy cơ sử dụng thời gian đó để phát triển những tập quán tâm lý bệnh hoạn làm phá vỡ sự duy nhất của nhân cách.
2/ Mộng tưởng và suy niệm
Những đặc tính của mơ mộng và của suy niệm rất khác biệt nhau. Luôn tìm kiếm tán thưởng và khen tặng, người mơ mộng chỉ xoay quanh những việc thiện giả tưởng, những nhân đức anh hùng và những kỳ công đủ loại họ cho là của mình. Họ tưởng tượng như mình rất bác ái, can đảm, mau mắn giúp đỡ người khác và anh hùng trong các cơn nguy biến v.v… Họ hết sức chú tâm đến cái “tôi” (self) của mình thay vì quên mình, họ chỉ biết tự mãn về mình, tìm kiếm việc phát triển chính mình (self-fulfillment) thay vì tìm kiếm làm đẹp lòng Chúa.
Dù thực hành bất cứ việc cầu nguyện nào, người mới bắt đầu cũng phải chiến đấu để loại bỏ cái “tôi” ra khỏi tưởng tượng để duy trì sự hiện diện của Chúa Kitô nơi đó. Sau này, vào những ngày đau khổ mệt nhọc, người ta sẽ còn thấy khó khăn hơn để chú tâm vào Chúa Kitô thay vì chú trọng đến các sự khổ cực buồn phiền của mình. Chớ gì các tu sĩ trẻ biết phân biệt những điều này để không những tránh các sự chia trí trong giờ cầu nguyện mà nhất là tránh những trở ngại tâm lý cho việc tăng trưởng thiêng liêng. Việc suy niệm không nên quy hướng về các thành quả nhân đức của ta nhưng về nhân đức mà ta thấy được nơi Chúa Kitô và các thánh.
Mơ mộng đối với người co cụm, thoái hồi, luôn đem lại thích thú. Đối tượng của nó luôn luôn là một sự thỏa mãn cá nhân. Việc suy niệm và cầu nguyện đích thực có mục đích tìm kiếm Chúa, dầu có được an ủi hay không. Người mơ mộng không thích dừng lại ở điều khó chịu. Nhưng về phương diện tự nhiên, thật là khó chịu khi phải nghĩ về tội lỗi, về việc thống hối, đền tội, hãm mình, từ bỏ và sự thương khó của Chúa Kitô. (Đa số các chủ đề suy niệm, về phương diện tự nhiên rất cực nhọc nhưng rất hữu ích về phương diện thiêng liêng). Người mơ mộng chỉ nghĩ đến điều mình thích, nên sẽ loại những chủ đề ấy ra khỏi việc suy niệm của mình. Cũng vì lý do đó, người mơ mộng chỉ chú ý đến niềm vui của người khác khi chính họ có liên hệ vào đó. Những người mộng tưởng dầu có nghĩ đến người khác, cuối cùng cũng chỉ đặt chính họ làm trung tâm.
Trong việc nguyện gẫm đích thực, Chúa Kitô luôn là trung tâm: chủ đề là sự thánh thiện của Người, lời nói và việc làm của Người. Những tu sĩ trẻ cũng như bất cứ ai chú trọng đến việc cầu nguyện thường muốn bàn bạc với cha linh hướng về cách cầu nguyện của mình. Một sự cực nhọc bất thường khi nói về đời sống nội tâm của mình bộc lộ tính cách ảo tưởng và vị kỷ của những người mơ mộng.
Từ sự mô tả đó, người ta hiểu được: một con người có xu hướng thoái hồi nghiêm trọng sẽ khó thích nghi vào đời sống tu trì biết bao. Cầu nguyện và suy niệm đối với họ chỉ là một thời gian thuận tiện cho việc mơ mộng. Việc suy niệm sẽ là cơ hội dấn sâu vào thói quen mộng tưởng dông dài. Người nào cứ tiếp tục con đường tu trì như vậy, thiếu khả năng phân biệt giữa mộng và thực, là tự chuốc lấy một sự xáo trộn tâm não trầm trọng. Cũng nên nhắc lại là các xu hướng “thu mình” không phải dễ nhận ra, vì người mơ mộng thường có vẻ dễ bảo, đạo đức và rất chừng mực trong đời sống hàng ngày.
3/ Khám phá ra người mơ mộng
Chúng ta có thể cứu xét những cách bộc lộ giúp nhận ra một người mơ mộng. Một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa của thói quen mơ mộng hay của động năng đào thoát nơi một tu sĩ, là lối bộc lộ tư tưởng gián tiếp hay thông đạt cách quanh co, méo mó. Họ nói năng, hành động một cách uẩn khúc. Họ không chống đối ra mặt, nhưng cưỡng lại các lời khuyên bảo hay yêu cầu một cách gián tiếp. Họ có thể đồng ý ngoài miệng với đề nghị của bề trên, nhưng rồi cứ tiếp tục đường lối của họ cách vô sự và ngoan cố. Nếu bị khiển trách, họ cũng không đưa ra lời giải thích hay chống cự lại bên ngoài, nhưng sẽ không vì thế mà thay đổi đời sống, họ không có nghe gì hết hay cho rằng người khác không hiểu họ.
Với vẻ ngọt ngào, ngoan ngoãn trong lời nói và cử chỉ, họ bám chặt vào tư tưởng của mình. Họ cố lẩn tránh những xung đột và các công việc khó chịu; họ đi qua một bên mà không thấy gì. Trong các cuộc hội họp, họ lẩn tránh ở đằng sau, không phải vì khiêm tốn nhưng là để trốn tránh, tự vệ. Khi làm việc, họ thường tỏ ra vụng về kém cỏi: nhưng đó là phương cách để được thay thế hay giúp đỡ! Họ thích biểu lộ sự đố kỵ và bực dọc bằng cách đó hơn là cách trực tiếp. Nếu họ không tìm cách làm hư hao của cải, tài sản thì đã khá rồi, vì đó cũng là cách bày tỏ sự thù hận của họ.
Thật khó mà dứt bỏ chứng tật mơ mộng, vì nó rất gần kề và rất dễ thực hiện. Người ta muốn tìm đến nó, thì nó đã có sẵn gần bên. Chỉ khi nào ý thức về tai hại của nó, là ngăn trở ta đạt đến một sự thành toàn thiết thực và hài hòa, người ta mới can đảm loại trừ thói xấu này.
Ý thức rằng tưởng tượng có thể làm phương hại đến việc học phải là một lý lẽ hùng hồn nhất giúp một tu sĩ mơ mộng thoát khỏi thói quen này. Học hành và mơ mộng vẩn vơ bao hàm hai tiến trình tâm não hoàn toàn đối nghịch. Để học hành, cần phải tích cực trừu xuất ý nghĩa từ những hình ảnh, thiết lập các tương quan và rút ra những kết luận: điều đó đòi hỏi một sự tổ chức các hành động đủ loại của trí não trong trật tự và kỷ luật. Người học hành phải sử dụng các hình ảnh này như là trợ lực để hình thành các khái niệm: điều đó đòi hỏi chú tâm và cố gắng. Mơ mộng là một công việc hoàn toàn đối nghịch và nó làm phát triển vô số hình ảnh hỗn loạn và sự thụ động đối với việc trừu xuất. Mơ mộng là vô kỷ luật và lười biếng, một sự buông thả dễ chịu; nói tắt, đó là một sự phung phí thời giờ rất lớn và một trở ngại cho việc học hành cũng như cầu nguyện.
4/ Các phương thuốc chữa trị
Để giúp một tu sĩ giải tỏa các thói quen mơ mộng, cần thiết phải biết các nhu cầu căn bản mà người ấy tìm cách thỏa mãn, lý do của các động năng đào thoát, khí chất và tính tình của người ấy. Càng biết được họ nhiều thì càng giúp ích cho họ hơn.
Một tu sĩ thích nghi tốt đẹp được nhận ra nhờ sự tham dự của người ấy vào mọi sinh hoạt của cộng đoàn, đó là một dấu hiệu bảo đảm nhất cho thấy không có động năng đào thoát. Để tránh các loại động năng này, một phương thế hữu hiệu nhất là tích cực chú ý vào hết mọi công việc của cộng đoàn: từ việc tập hát, giải trí cho đến việc dạy học, việc làm vườn, chăm sóc người già yếu, công việc mục vụ và quản trị v.v… Sống đời tu trì đích thực là chú ý và vui vẻ tham gia vào các công việc của cộng đoàn, bất cứ loại việc gì, giải trí vui đùa, nhiệm vụ được giao phó hay cầu nguyện chung.
Những người lo âu, xao xuyến
Chúng ta sống trong thời đại hạt nhân, trong một thế giớ đầy dị ứng, lo âu, sợ hãi. Sự xao xuyến, lo sợ và căng thẳng dần dần thấm nhập vào văn hóa kỹ thuật của chúng ta, mà chúng ta không thể chống cưỡng lại được. Ít nhất chúng ta cũng có thể học sống hữu hiệu hơn với hoàn cảnh đó. Sự sợ hãi và xao xuyến như hình thức tâm bệnh, trong khi làm tê liệt nhân cách, có thể ngăn cản hành động của ân sủng trong tâm hồn. phần lớn việc điều ứng của con người cốt ở việc tránh xa hay xoa dịu sự sợ hãi và sự áy náy có tính cách tâm bệnh.
Chúng ta dùng chữ sợ hãi (fear) để chỉ sự thoái hồi hay phản ứng lẩn trốn trước sự đe doạ của những đối tượng xác định, hoàn cảnh, con người hay sự vật. Tự nó, sợ hãi là một xúc cảm lành mạnh, có tính kích động và có thể được coi như phương thế bảo vệ đối với những thứ nguy hiểm. Nhưng sự sợ hãi không kiểm soát được có thể tai hại đối với sức khỏe tâm thần hay thể xác, hơn bất cứ loại kinh nghiệm nào khác. Sự sợ hãi có thể hòa lẫn với giận dữ và tạo nên sự thất đoạt* (frustration); sự thất đoạt kéo dài có thể gây nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng trên sự hội nhập của nhân cách.
Sự xao xuyến (anxiety) và căng thẳng (tension) cốt ở một tình trạng tâm thần sợ hãi liên tục và dai dẳng, nhưng không có liên hệ rõ rệt với một vật, một người hay một nơi nào. Sự xao xuyến là một cảm tưởng bất hạnh đang đe dọa và biểu lộ bằng một sự thiếu tự tin trước một hoàn cảnh nguy hiểm mà người ta sợ có thể xảy ra. Tình trạng áy náy thường rất lờ mờ và có thể mô tả như những tâm tình thiếu xác tín và bất ổn.
Có một sự khác biệt giữa sợ hãi, áy náy thông thường và những hình thức bệnh hoạn của chúng. Đối diện với một cơn nguy biến, con người bình thường thấy sợ, nhưng một sự sợ hãi tương ứng với sự nghiêm trọng của trường hợp. Nếu sự đe dọa rất nhỏ, thì sự sợ hãi hay xao xuyến cũng tương đối nhẹ nhàng. Nơi một con người bình thường, các phản ứng sợ hãi rất hữu ích và có mục đích bảo vệ, chớ không gây xáo trộn đến độ làm cho họ mất hết khả năng tự vệ. Các phản ứng sợ hãi và áy náy bình thường được đặt dưới sự kiểm soát của ý thức và không bao gồm những sự ức chế quá đáng hay vô hiệu
Triệu chứng bất an
Trước khi cứu xét các tình trạng tâm bệnh sợ hãi và xao xuyến, thật hữu ích khi quan sát một vài thái độ chứng tỏ có tình trạng áy náy và những căng thẳng tiềm ẩn. Những hiện tượng có tính chất thần kinh này không nhất thiết đưa đến tâm bệnh nhưng người ta có thể thấy nơi đó dấu hiệu của một sự bất ổn nội tại và nếu kéo dài hay trở nên nghiêm trọng hơn, thì sẽ đưa đến nguy hại.
Chứng nói lắp hay ấp úng vào những lúc chán nản hay mệt nhọc thần kinh chứng tỏ có những căng thẳng bên trong và nơi người lớn, thường có những tập quán nguồn gốc lâu đời. Nếu tu sĩ mang chứng tật này sau khi vào tu, thì có thể đi tìm nguyên nhân nơi việc thích nghi đối với tập thể và có thể sửa đổi phần nào. Nếu nó bắt đầu từ lúc nhỏ thì có thể do một sự xáo trộn thể lý kéo dài, cả khi những nguyên nhân sơ khởi đã bị loại trừ.
Thường xuyên cảm thấy lộn xộn trong tư tưởng và do dự trong ý tưởng vào những lúc chán nản mệt nhọc, chứng tỏ tình trạng xao xuyến rất nguy hại. Khi tập quán sợ hãi đưa đến một sự xáo trộn trong tư tưởng, thì nó hoạt động ngược lại chức năng đích thực của nó, là bảo vệ khỏi sự thiệt hại.
Một tu sĩ thường xuyên bực dọc khi mệt mỏi, kèm theo sự bất lực không thể biểu lộ tâm tình hay thích nghi tâm tình vào hoàn cảnh, có thể bị chi phối quá nhiều bởi những căng thẳng nội tại. Một tu sĩ luôn thấy mình trong tình trạng áy náy xao xuyến, thường sống phó mặc cho các thái độ sợ hãi, vốn làm giảm sút hiệu năng của mình như một ngôi vị.
Nhiều tình trạng thể lý và tác phong có liên hệ với các sự căng thẳng mãnh liệt và sợ hãi. Một tu sĩ luôn mệt mỏi mà không thấy nguyên nhân nào ở cơ thể thì chắc bị sự sợ hãi và áy náy của mình khống chế cả trên bình diện thể lý lẫn tâm thần. Những tâm tình xao xuyến, tự chúng làm ta kiệt sức và một tu sĩ bị các tâm tình sợ hãi thống trị không thể tránh cảm thấy mệt nhọc thường xuyên.
Các thái độ sợ hãi thường đi đôi với những sự chú tâm quá đáng vào tình trạng sức khỏe; bởi thế, một tu sĩ có thể hành hạ chính mình vì những sự đau yếu: kém mắt, đau đầu, nhức mỏi, và những hiện tượng khác theo sau sự áy náy. Những sự xao xuyến này làm cho họ trở thành bực dọc, giao động trong cách ứng xử, thiếu kiên nhẫn khi làm việc và hay thay đổi trong các công việc đạo đức. Mối bận tâm về các tật bệnh làm họ bất kể đến người khác. Tật hay nói đi nói lại, gõ nhịp trên bàn, khua tràng hạt, cắn móng tay… các điều này cho thấy một tinh thần áy náy và căng thẳng.
Sự giao động thấm nhập khắp nơi trong văn hóa chúng ta và tu sĩ sẽ khó tránh hấp thụ một vài ảnh hưởng của môi trường đó. Nhưng nếu biết khước từ các phiền muộn vô ích thì cũng giúp bảo đảm sự bình an nội tâm; điều này phòng ngừa được sự mệt nhọc không cần thiết nơi tinh thần cũng như thể xác.
Tất cả những trạng thái mà chúng ta vừa mô tả (nhất là tâm tình xao xuyến) biểu lộ những xung đột cảm xúc. Sự hiện diện của một hay hai triệu chứng này có thể không quan trọng mấy, nhưng khi số lượng gia tăng, hay khi người ta nhận thấy nhiều điểm lệch lạc về thần kinh, thì biết rằng đương sự vướng phải cơn bệnh xao xuyến.
Các xáo trộn tâm thể lý
Căng thẳng là hình thức thông thường của sợ hãi và áy náy. Trong những giai đoạn căng thẳng, người ta có thể thấy các hậu quả thể lý cách trực tiếp. Một vài xáo trộn như: các chứng dị ứng (allergies), tăng huyết áp, hen suyễn, mụn nhọt và nhức đầu được gọi là tâm thể lý bởi vì chúng có liên hệ với các cảm xúc và thường liên quan đến tình trạng sợ hãi. Các hậu quả thể lý của sự căng thẳng kéo dài có thể trầm trọng.
Sự xao xuyến tâm bệnh
Những người bình thường xử lý các sự thất đoạt, xao xuyến và sợ hãi nho nhỏ một cách suông sẻ. Những tu sĩ có xu hướng tâm bệnh thì bị hoang mang, giao động quá mức khi đối diện với hoàn cảnh. Sự xao xuyến tâm bệnh thì vô lý và không có đối tượng. Nếu một tu sĩ luôn bận trí vì tim đập mạnh, đổ mồ hôi quá nhiều, vì đau đầu hay những cơn bệnh thể lý khác, đến độ không thể làm việc bổn phận, thì người ấy là nạn nhân của một sự xao xuyến bệnh hoạn. Những tu sĩ áy náy quá mức thì không thể đương đầu với các biến cố của đời sống hằng ngày một cách thích hợp.
Áy náy tâm bệnh không có một nguyên nhân thực sự: hoặc một vật hay một hoàn cảnh đang đe dọa; nó là hậu quả của những nhu cầu tâm linh căn bản chưa được giải quyết. Một sự thiếu an ninh sâu thẳm, một sự thiếu vắng tình thương, thiếu được nhìn nhận và thiếu thành công đưa đến một tình trạng xao xuyến tổng quát. Chúng ta gặp lại ở đây mối tương quan rất ý nghĩa giữa các nhu cầu căn bản và sự hội nhập của nhân cách. Sự xáo trộn cảm xúc mà người tu sĩ áy náy nhận thấy vì một sự thất bại vô nghĩa trong khi dạy học, trong khi lao động hay trong bất cứ địa hạt nào đòi họ phải cố gắng, bắt nguồn từ một sự bất an sâu thẳm nào đó. Những phản ứng cực đoan đối với bệnh tật hay các biến cố cực nhọc cho thấy một con người chất đầy xao xuyến.
Các úy kỵ (phobias)
Nhiều khi sự sợ hãi gắn liền với một sự vật hay một hoàn cảnh xác định: người ta gọi tình trạng đó bằng tên úy kỵ (phobia). Các úy kỵ hay sợ hãi ám ảnh là những sự sợ hãi thường xuyên, vô lý và không thể cưỡng lại, đối với sự vật hay biến cố xác định; đó là những sự sợ hãi hoặc hoàn toàn hoặc phần nào không thể giải thích được, vì thiếu nền tảng khách quan. Phải biết rằng mọi úy kỵ đều do kinh nghiệm mà đến, bởi đó có thể giáo dục những người mắc bệnh đó, ít nhất một phần nào, nhờ lối ám thị và soi sáng họ về các nguyên nhân thực sự của căn bệnh. Chế nhạo họ hay lý luận với họ đều là những phương thế vô hiệu nghiệm.
Ám ảnh (obsession)
Một loại xao xuyến thông thường nơi các tu sĩ là hình thái sợ sệt có tính chất ám ảnh, được bộc lộ qua tác phong bối rối. Ám ảnh là những ý tưởng ngoan cường và kỳ dị mà đương sự không có khả năng kiểm soát hay xua đuổi. Các tư tưởng bối rối mày có thể chỉ có tính cách tạm thời vào lúc đầu và rất dễ đẩy lui. Sau đó nó có thể làm cho tu sĩ phải vất vả bằng cách ảnh hưởng trên tác phong. Cứ trở đi trở lại và càng lúc càng thêm ám ảnh, các tư tưởng này sẽ xâm chiếm đời sống của bệnh nhân và người ấy tìm đủ mọi cách để giải thoát, như bằng các “nghi thức trừ tà”, các cử chỉ xua đuổi, nhưng vô ích.
Những người bị ám ảnh cố gắng làm dịu bớt nhu cầu an ninh đang hành hạ họ bằng một cuộc sống rất đều hòa. Rất tỉ mỉ về phương diện trật tự và sạch sẽ, họ thường có tham vọng áp đặt các tật xấu của mình cho người khác. Người tu sĩ bị ám ảnh thì cứng nhắc, đòi hỏi và không dung thứ đối với những ai không phù hợp với các nguyên tắc của họ.
Mặc cảm tội lỗi (guilt feelings)
Chứng tật luôn luôn rửa tay, tẩy rửa mọi sự vì sợ vi khuẩn, sợ đụng chạm một vài vật vì chúng không “sạch” nhiều khi là những phản ứng tiêu biểu cho những mặc cảm tội lỗi và những hình thái xao xuyến. Lặp đi lặp lại một công việc, đếm đi đếm lại các vật sở hữu để sắp xếp chúng trong một trật tự khắt khe, cũng thuộc về loại trên. Các công việc vô ích này đem đến một sự dịu bớt tạm thời nhưng lại tạo nên nhu cầu mới là cứ làm lại một động tác. Giữa các đòi hỏi ám ảnh và các sinh hoạt vô lý để xoa dịu, có một cái vòng lẩn quẩn.
Người bối rối không thể phân biệt giữa tội trạng thực sự và mặc cảm tội lỗi. Những người bình thường, được lương tâm và tinh thần trách nhiệm hướng dẫn, quan niệm những công việc xấu của họ như là xấu; ý thức về điều đó, họ dùng các phương tiện để sửa mình và đền bù những thiệt hại. Những người bối rối thì luôn bị khuấy phá bởi mặc cảm tội lỗi, vốn là những phản ứng cảm xúc đơn thuần và hậu quả của những ảnh hưởng vô thức và những dồn nén quá mạnh. Lý luận của người bị ám ảnh nói cho họ biết là họ có tội, vì họ cảm thấy có tội, nhưng lắm khi cũng không biết là tội gì.
Mặc cảm tội lỗi xuất phát từ những tình trạng xao xuyến mù mờ và thường được xác định bởi các cảm xúc hơn là những dữ kiện trí tuệ của ý thức. Cũng như các tình trạng áy náy khác, sự bối rối và mặc cảm tội lỗi vốn là đặc điểm của nó, là những dấu hiệu thiếu trưởng thành tâm lý, không ích lợi cho tiến bộ thiêng liêng. Trường hợp các tu sĩ bối rối cho thấy một thí dụ rõ rệt về các hậu quả tai hại của ấu trĩ tâm lý trên sự tăng trưởng thiêng liêng và sự thánh thiện cá nhân. Những lương tâm tế nhị thì biết phó thác cho sự trông cậy chứ không phải cho sự sợ hãi.
Thúc động (compulsions)
Ám ảnh thì quy về các tư tưởng dai dẳng và loạn tâm; còn xung động (động lực thúc bách) quy về nhu cầu vô lý và không thể cưỡng lại là cần phải thực hiện một vài hành động. Hai thứ có những điểm chung, nhưng cũng có loại ám ảnh mà không có xung động hay thúc bách.
Người tu sĩ xung động (compulsive) có thể cảm thấy bị thúc giục đóng hết mọi cửa sổ và kiểm soát mọi cửa ra vào, mỗi buổi tối, mặc dầu không có phận sự gì. Hay khi tối về phòng, thì sắp xếp quần áo cẩn thận, chu đáo, cả khi mất rất nhiều thời giờ cho những công việc vô ích và mệt nhọc này. Một dấu hiệu áy náy có tính cách thúc bách khác là nhu cầu ghi hết mọi điều mình phải làm ngày mai trong một quyển sổ tay. Và sáng hôm sau thì mất hàng giờ kiểm soát sổ sách để xem mình có làm đúng hay không và nếu không thì nguy to! Người tu sĩ xung động thường bị thúc đẩy hối hả chạy quanh, và làm một số điều vào phút cuối trước khi đi đâu đó, và bởi thế cũng làm cho các bạn đồng hành phải khổ tâm chờ đợi.
Người tu sĩ xung động trở nên bối rối, ương ngạnh, họ rất tỉ mỉ trong các tiểu tiết. Họ cố gắng xếp đặt, kiểm soát tất cả trong đời sống và không để điều gì xảy đến bất thần. Sự hồn nhiên và thay đổi làm họ khổ cực. Họ biến đổi tác phong của họ thành một thứ máy móc tuyệt đối như một cách bảo vệ an ninh: đối với họ, đó là cách sống duy nhất. Họ còn muốn áp đặt cách sống của mình cho kẻ khác. Đặc điểm của họ về phương diện thiêng liêng, là sống theo quy luật của riêng mình chứ không theo quy luật chung, mặc dầu để bảo đảm hơn, họ cố gắng xây dựng những dự định riêng tư vào trong khuôn khổ của cộng đoàn. Bởi đó, họ thường bất công trong những lời phê bình đối với những ai không chấp nhận đường lối khắt khe của họ; và họ quên rằng nhân đức tuân thù cách cực đoan biến thành tật xấu.
Những người xung động dễ bị ảnh hưởng bởi các công việc dị đoan (tử vi, đoán mò, bói quẻ v.v…) trong khi quên rằng những việc hão huyền này nghịch hẳn với các nguyên tắc cứng nhắc của họ.
Thường những tu sĩ xung động có thể tuân thủ kỷ luật đời sống chung mà không khổ cực lắm, bao lâu người ta không đòi hỏi họ điều gì đặc biệt. Cách chung họ có cách hành động đặc biệt của họ và không thể thay đổi. Nếu người ta đụng chạm tới thói quen của họ hay khi họ trải qua một cơn khủng hoảng, phải đau yếu hay gặp tai nạn, thì họ lại dễ mất tinh thần và lắm khi không thể trở lại bình thường được. Sau cơn bệnh, sự xáo trộn cảm xúc ngăn cản họ làm việc lại một cách bình thường. Một sự thay đổi, những đau khổ hay bệnh tật bất ngờ có thể làm cho họ gặp một cơn khủng hoảng xao xuyến trầm trọng.
Phương thuốc chữa những cơn bệnh sợ sệt
Sau đây là một vài đề nghị hữu ích để vượt thắng các mối lo sợ.
Trước tiên, nếu người ta sợ một vật hay một hoàn cảnh nào thì nên liên kết các ý tưởng vui thích với điều lo sợ để làm cho nó hấp dẫn hơn.
Thứ hai, một sự hiểu biết rõ hơn về những điều làm khiếp sợ có thể hiệu nghiệm. Cách chung, chúng ta có khuynh hướng sợ điều chúng ta không biết.
Thứ ba, khuyến khích người áy náy thực hành một vài động tác thích hợp như: bơi lội, lái xe, đá bóng là những động tác có thể giúp họ thắng sự sợ nước, sợ đi xa và sợ cạnh tranh.
Trực tiếp đối diện với các hoàn cảnh mình sợ cũng có thể hữu ích. Một tu sĩ khiếp sợ bệnh ung thư có thể an tĩnh hơn khi học biết các phương thế để khám phá nó đúng lúc. Biết các sự việc rõ ràng hơn cũng có thể làm giảm bớt áy náy. Khi người ta biết trước điều gì sẽ xảy đến và chuẩn bị kỹ lưỡng, thì người ta ít cảm thấy căng thẳng. Thường thì một tu sĩ hoạt động và luôn có việc thì không bị các sự xao xuyến dày vò và những người biết mình muốn gì, thì quá thích thú với công việc của mình nên không thể bị xao nhãng vì các sự sợ hãi có tính cách băng hoại. Nguyên nỗ lực thắng vượt khó khăn cũng đủ làm giảm bớt khá nhiều các sự xao xuyến đi theo nó. Càng tiêu hao sức lực để đương đầu với khó khăn, người ta càng ít lo sợ phải gặp chúng.
Trong một buổi thuyết trình cho các tu sĩ, một nhà chữa trị tâm lý nổi tiếng (sau này là tu sĩ Chartreux) Dom Verner Moore, có khuyên bảo thính giả của ông hãy hướng về sự toàn thiện và một đời sống thiêng liêng sâu đậm, không phải bằng cách cố gắng trở thành những vị thánh, nhưng cố gắng thực hiện ý muốn Thiên Chúa. Đó là một cách chứng tỏ: tu sĩ phải chú trọng đến Chúa nhiều hơn nghĩ đến mình.
Người ta có thể đi đến sự thánh thiện bằng những phương thế sai lầm, những phương thế bị đồng hóa với các động năng điều chỉnh bệnh hoạn, mặc dầu xem ra như chúng có tốt lành cách nào chăng nữa. Muốn đạt đến toàn thiện bằng cách chú trọng quá đáng về mình, người ta có thể nuôi dưỡng những động năng thích ứng tai hại hay củng cố những thứ đã có trước. Sự trưởng thành tôn giáo của chúng ta được đo lường bằng mức độ tiến triển trên một nền tu đức hướng về Chúa Kitô bằng cách cắt đứt những bận tâm vị kỷ của chúng ta.
(còn tiếp)