Dâng hiến Sáng tạo (phần 2)
III. TÂM LÝ NĂNG ĐỘNG
Vào những năm 1930, lý thuyết và khái niệm của những tác giả Jung, Adickes, Kretschmer, Spranger… và Hippocrates dần dà rơi vào quên lãng. Thay vào đó là các ngành tâm lý năng động (dynamic psychology) và tâm lý tác hành (behavioral psychology). Theo xu hướng mới, người ta giải thích nguồn gốc của mọi hành động hoặc đến từ một nguyên nhân vô thức, hoặc do kinh nghiệm, hoặc do cả hai.
Quan niệm tổng hợp
Tâm lý năng động không phải là một lý thuyết đồng nhất cho bằng một xu hướng hay một lối “tiếp cận” mới trong lãnh vực nghiên cứu tâm lý. Cũng không phải là một trường phái rõ rệt với người chủ xướng và phương pháp được hoạch định cách chính xác, nhưng là một quan niệm tổng hợp từ nhiều trường phái và chủ trương khác nhau, khả dĩ cống hiến một cái nhìn đầy đủ về con người và tính cách năng động của những tương giao mà người ấy thiết lập với kẻ khác (tương quan nhân loại).
Nhưng trước tiên cần giải thích: Thế nào là “năng động”?
Thoạt tiên, chính thuật ngữ “năng động” theo nghĩa phổ thông, cho chúng ta thấy xu hướng mới trong tâm lý là nhấn mạnh đến tính cách lưu động, và chuyển đổi hơn là tĩnh tại và cố định trong việc cứu xét nhân cách.
Khi được áp dụng vào địa hạt tâm lý, “năng động” mang một ý nghĩa đặc biệt liên quan đến những hệ thống tập trung chú ý trên một vài yếu tố nổi bật, như:
1) “nguyên động” (motivation) hay “động lực”. V.d.: R.S. Woodworth (1869-1962), mặc dầu theo trường phái “chức năng” nhưng luôn bảo vệ lập trường “năng động” cho tâm lý của mình, vì chủ trương phải tìm hiểu các nguyên động (sinh lý, nội tiết và tâm lý);
2) các tiến trình vô thức (về phương diện này, Freud và Jung được coi như những người đề xướng cách tiếp cận năng động trong tâm lý) và
3) những lãnh vực phức tạp của các trường lực tâm lý (fields of psychological forces), như trong lý thuyết của Lewin.
Tâm lý năng động còn là một hệ thống trong đó nhiều yếu tố được đan xen với nhau đến độ những thay đổi trong một điạ hạt tức khắc có ảnh hưởng trên phần còn lại của hệ thống.
Một cách chi tiết hơn, ta có thể giải thích ý niệm “năng động” theo tác giả Arthur S. Reber, Dictionary of Psychology, Penguin Books, 1985 như:
1/ một “nhãn hiệu” mà người ta sử dụng rộng rãi cho:
a/ mọi hệ thống và lý thuyết tâm lý vốn nhấn mạnh đến tiến trình thay đổi và phát triển.
b/ những hệ thống và lý thuyết coi nguyên động và động lực như những khái niệm trung tâm. Vắn tắt, đó là những lý thuyết tâm lý liên quan đến bất cứ điều gì là năng động.
2/ trong một vài trường hợp, từ này cũng đồng nghĩa với phân tâm học.
Tóm lại ta có thể hiểu tâm lý năng động về nhân cách như những lý thuyết có xu hướng cứu xét nhân cách như một tiến trình, tập trung cái nhìn trên các tác động hỗ tương giữa một cá thể và môi trường sống, những tiền sử trong tác phong và ý nghĩa chức năng của những đặc tính trong một nhân cách riêng biệt.
Trong viễn tượng Kitô giáo
Tâm lý năng động cứu xét con người như được thúc đẩy, bên trong và bên ngoài bởi một “hệ thống các sức lực” hay “động lực” (motivations) vốn ảnh hưởng trên tác phong và quyết định các thái độ của họ trước những con người và sự vật. Nhưng chữ “động lực” ở đây không chỉ được hiểu theo nghĩa các xung năng tất định bất biến, như Freud và một số nhà “phong cách thuyết” chủ trương, mà còn phải hiểu như khát vọng, và giá trị được chọn lựa cách ý thức, vốn cho phép con người được tự do giữa các tất định sinh lý và xã hội.
Ta có thể định nghĩa tâm lý năng động với Cha G. Cruchon như: một cách quan niệm về diễn trình của những động lực đang hoạt động trong một nhân cách, những động lực đến từ bên trong nhân cách và từ môi trường sự vật và con người bao quanh nhân cách. Phân tích các động lực này để có thể điều khiển chúng cách tốt đẹp hơn. Đó là một thách đố lớn lao, một công việc quan trọng có tầm cỡ, cho những ai muốn nghiên cứu các môn khoa học nhân văn để áp dụng vào đời sống.
Cha Cruchon, vị giáo sư môn Tâm lý giáo dục của chúng tôi vào những năm 60-70 tại Đại học Gregoriana (Roma), thực sự là một con người có cái nhìn rất thức thời. Cha đã muốn trình bày môn tâm lý mới mẻ này trong một viễn tượng Kitô. Cha được coi như người đi tiên phong trong lãnh vực tâm lý năng động, theo nghĩa không chỉ giới thiệu môn tâm lý tương đối mới mẻ này cho các độc giả, mà còn đề nghị một hướng đi mới, đầy đủ hơn, toàn diện hơn, cho môn tâm lý nhân cách. Nguyên sự kiện hai quyển sách của Cha[1], được tái bản nhiều lần, chứng tỏ Cha đã đáp ứng được một sự chờ đợi lớn lao trong môi trường giáo dục công giáo.
Tâm lý năng động giúp hiểu biết con người
Những phân tích về các loại năng động trong con người giúp mỗi người hiểu biết chính mình và kẻ khác nhiều hơn, để sống tốt hơn trong thế giới loài người, nhất là trong viễn tượng Kitô.
Nếu một thứ tâm lý năng động nào đó đã muốn giải phóng con người khỏi mặc cảm tội lỗi và tôn giáo, thì một hình thức tâm lý được hoà giải với luân lý và tôn giáo có thể thích hợp hơn, trong lãnh vực giáo dục và tương quan nhân loại, để phát huy một thế giới tốt đẹp hơn, nơi đó các bản năng, cảm tính và khát vọng được cứu xét cách lành mạnh dưới quan điểm của tinh thần.
Theo Cha Cruchon, một sự giải thích các sức lực, nguyên động và khát vọng của Nhân cách, vốn không chỉ giới hạn vào mức độ các xung động sinh vật hay bản năng, cũng không ở mức độ áp lực và thúc bách của gia đình, xã hội hay văn hoá, nhưng còn được nới rộng đến mức độ tinh thần và cả ở cấp độ đời sống thiêng liêng, khả dĩ dẫn đưa con người đến việc thiết lập những tương quan mới với Thiên Chúa và với tha nhân, thì đó mới là môn tâm lý lành mạnh và hữu ích cho đời sống con người.
Tóm lại, “tâm lý năng động là một nhánh của tâm lý hiện đại nhằm kết hợp những quan điểm cổ truyền với khám phá của “vô thức”. Nó nghiên cứu việc thành hình, cùng với những cấu trúc và động năng của nhân cách. Tâm lý năng động khẳng định sự duy nhất bất khả phân chia của con người, mọi hành động và cách diễn tả của chủ thể đều là hậu quả và cách phô diễn của nhân cách”.[2]
Để thấy rõ những nét độc đáo của xu hướng mới này, chúng ta sẽ đối chiếu mục đích và đối tượng nghiên cứu của nó với viễn tượng và nội dung nghiên cứu của khoa tâm lý cổ điển. Sau đó, chúng ta sẽ trình bày những nét chính yếu và riêng biệt của tâm lý năng động.
Đối chiếu giữa Tâm lý cổ điển và Tâm lý năng động
Tâm lý học cổ điển, một bộ môn của triết học, có tính cách thuần lý, nhằm nghiên cứu các “cơ năng linh hồn”, để rút ra những kết luận về bản chất và mục đích của linh hồn. Tâm lý học cổ điển, thuộc loại thực nghiệm hay mô tả, nghiên cứu các “chức năng” hay những sinh hoạt tổng thể hoặc “cao đẳng” của con người hay con thú. Và những hoạt động hay tác phong xuất phát từ những chức năng này. Chung quy, tâm lý cổ điển tập trung chú ý của mình trên chủ thể cách biệt lập, ở trong trạng thái tĩnh và hoàn toàn tách rời khỏi môi trường.
Tâm lý năng động là tâm lý về “con người“. Nó cứu xét con người như một toàn thể (xác-hồn), vốn được bao hàm trong khái niệm “nhân cách“. Các chức năng khác nhau của toàn thể này được liên kết chặt chẽ với nhau và phản ứng cách toàn diện trước các hoàn cảnh cụ thể, bằng một tác phong thích ứng hoặc không thích ứng, bất túc hay hoàn chỉnh, dựa trên các “nguyên động” nội tại và các động lực ngoại tại mà tác phong chịu ảnh hưởng. Đặc tính của tâm lý năng động, theo như tên gọi của nó là nó luôn chú ý đến khía cạnh động trong việc cứu xét chủ thể nhân linh và nhất là mối tương quan giữa chủ thể và môi trường.
B. Tâm lý cổ điển nhấn mạnh đến vai trò của trí tuệ, và ý chí trên các cơ năng thấp hơn như: tình cảm, bản năng, v.v…
Tâm lý năng động hướng về việc nghiên cứu cách thức mà các cảm xúc tạo ảnh hưởng hay gây ngăn trở và nhiều khi còn làm tê liệt các hoạt động của các cơ năng cao hơn của con người, như: trí tuệ và ý chí, khiến các cơ năng này không còn có thể hoạt động cách hữu hiệu.
C. Tâm lý cổ điển lưu ý đến ảnh hưởng của ấu thời trên tính tình, cũng như trên các ưu điểm và khuyết điểm của người trưởng thành. Nhưng không cho thấy ảnh hưởng như thế nào và tại sao.
Tâm lý năng động nhấn mạnh đến vai trò của vô thức trong việc thành hình nhân cách. Đây là lãnh vực mênh mông, to lớn chứa đầy những chức năng bị dồn nén cuả cái “đó” (Id), các xung động và khát vọng nguyên thủy, các ký ức, hình ảnh, ước muốn và năng lực bị vùi lấp nhưng vẫn tích cực hoạt động, mặc dầu cách mặc nhiên, nghĩa là: không được nhận biết. Chúng được lưu trử tích chứa trong nhiều năm trước khi đứa trẻ biết sử dụng lý trí, nghĩa là khi nó chỉ hoàn toàn sống với các cảm xúc của mình. Tâm lý năng động tìm cách xác định cấp độ ảnh hưởng của vô thức trên các nguyên động và tác phong nhân loại.
Những lý thuyết có ảnh hưởng trên Tâm lý năng động.
Khi đối chiếu với Tâm lý cổ điển, chúng ta nhận thấy rằng: Tâm lý năng động không loại bỏ nhưng tìm cách bổ sung những lý thuyết đã có trước. Trong viễn tượng muốn tiến đến một cái nhìn toàn diện, thay vì là phiến diện, cứu xét thực tại con người dưới khía cạnh động thay vì tĩnh, và nhất là muốn nghiên cứu nhân cách, một cách có hệ thống và mạch lạc, dưới ba khía cạnh chính yếu: 1/ việc thành hình của nhân cách; 2/ cấu trúc nhân cách; 3/ các động lực ảnh hưởng trên nhân cách, nên Tâm lý năng động không loại trừ bất cứ lý thuyết nào khả dĩ giúp nó đạt mục đích nêu trên. Chính vì thế, mà người ta có thể nói đến những nguồn gốc khác nhau trong Tâm lý năng động.
Phái “Tổng thể” và “Toàn diện”.
Stern (1871-1938), sáng lập viên của trường phái: Tâm lý về cái “Toàn thể” (Ganzheit), cũng là người đầu tiên, đưa ra lý thuyết “toàn thể” về nhân cách. Nếu cần phải phân biệt các cơ năng và khả năng khác nhau, thì cũng phải luôn cứu xét chúng trong tương quan với toàn thể nhân cách.
Từ năm 1923, Stern tóm lược lý thuyết của ông về nhân cách trong một định nghĩa vắn gọn: một đơn vị năng động và đa dạng. Cũng trong chiều hướng này, chủ trương: “Hình thể toàn diện” của nhóm Gestalt (M. Wertheimer, W. Kohler), theo đó một hiện tượng “toàn thể” (molar phenomenon) không thể hiểu được nếu bị xé lẻ thành những mảnh vụn (molecular), hay bị tách rời khỏi cái toàn thể, có ảnh hưởng lớn trong việc cứu xét nhân cách như một toàn thể duy nhất, được phối hợp và có tổ chức.
Kurt Goldstein (1878-1965), chuyên gia tâm lý về não bộ, sau khi nghiên cứu về hoạt động của não bộ cách riêng và của cơ thể cách chung, đã áp dụng các nguyên tắc “Toàn thể” vào việc tìm hiểu nhân cách. Ông đưa ra hai kết luận quan trọng: 1/ một trong những nguyên động cơ bản nhất của con người là hướng về sự duy nhất và toàn vẹn của hữu thể; 2/ xu hướng tìm kiếm sự hoàn thiện được thực hiện qua tương quan hài hòa với môi trường chung quanh.
Các nhà tâm lý theo chủ trương nhân bản và phân tích hiện tượng luận, như: G. Allport, C. Rogers, với lý thuyết nhân cách toàn diện và năng động, đã giải thích động lực hướng về duy nhất tính và sự hoàn thiện trong nhân cách, bằng khái niệm chuyên biệt: “thể hiện chính mình”(self-actualization), rất phổ biến trong tâm lý hiện đại. Với xu hướng thể hiện chính mình, nhân cách không chỉ luôn hướng về duy nhất tính mà còn tìm cách bảo vệ sự cân bằng với môi trường chung quanh. Và điều này được thêm sáng tỏ nhờ công việc nghiên cứu của K. Lewin, (Dynamic Theory of Personality, 1935).
Trong lãnh vực tâm lý, Lewin đã làm một cuộc cách mạng theo kiểu Galilêô, khi khẳng định: chủ thể không còn là trung tâm của tất cả mọi sự, nhưng được định vị trong một trường lực với nhiều áp lực khác nhau luôn ảnh hưởng trên nó. Từ đó, Tâm lý năng động luôn chú ý đến tầm quan trọng của tác động hỗ tương giữa nhân cách và môi trường, giữa chủ thể và khách thể. Khái niệm “điều ứng” (Adjustment) rất quan trọng cho việc quân bình trong đời sống tâm lý, xã hội, chỉ có thể hiểu được trong bối cảnh này.
Riêng Abraham Maslow (Motivation and Personality (1954), chủ trương một nền tâm lý năng động, nhân bản và toàn diện (holistic); đồng thời trình bày một cơ cấu có đẳng cấp về nguyên động.
Tâm lý chiều sâu.
Mặc dầu Tâm lý năng động không phải là Phân tâm học, nhưng Phân tâm học của Freud có ảnh hưởng rất lớn đối với chiều hướng nghiên cứu của nó. Nói đúng hơn Tâm lý năng động là tâm lý chiều sâu và tâm lý năng động chia sẻ lập trường của Freud về sự hiện hữu của vô thức hay tiềm thức. Cái vô thức này không ở trong tình trạng tĩnh mà luôn biến động. Nó chi phối toàn bộ đời sống con người và nhiều hơn điều người ta tưởng. Bởi thế cần phải biết nó hoạt động như thế nào.
Tâm lý năng động giả thiết cách trình bày về cấu trúc nhân cách của Freud là có nền tảng, mặc dầu không thừa nhận tất cả mọi chủ trương của Freud, (như về cái libido chẳng hạn). Theo Freud, mô hình nhân cách được cấu thành bởi ba yếu tố luôn ảnh hưởng trên nhau: 1/ cái Đó (Id); 2/ cái Ngã (Ego); và 3/ cái Siêu Ngã (Super Ego). Riêng sinh hoạt tâm linh của con người thì cũng có ba mức độ: 1/ Vô thức (unconscious); 2/ Tiền ý thức (preconscious); và 3/ Ý thức hay hữu thức (conscious).
Tâm lý năng động cũng chịu ảnh hưởng của những nhà Tâm lý xã hội, như: A. Adler, E. From, H.S. Sullivan và K. Horney. Hoặc tâm lý phát triển nhân cách (qua tám giai đoạn) của E.H. Erikson. Tuy nhiên, người ta không thể quên vai trò của R.S. Woodworth (1869-1962), thuộc đại học Columbia (Hoa kỳ). Mặc dầu thuộc trường phái “chức năng thuyết”, ông đã vượt trên cái nhìn ‘cơ khí’ về sự vật và thấy cần phải nhờ đến khái niệm “nguyên động” để giải thích những phản ứng thích nghi của chủ thể ở các mức độ: sinh lý (đói khát); tác phong (tiến trình học tập); hay tâm lý, xã hội (cách ứng xử).
Nguyên động là xung lực thúc đẩy hành động. Những điều này được giải thích trong quyển sách, mang tựa đề: Dynamic Psychology (1918). Ông cũng quan niệm mối tương quan giữa chủ thể và khách thể như một giao dịch năng động. Ý tưởng này được ông trình bày trong tác phẩm: Dynamics of Behavior(1958). Từ đó, khái niệm “nguyên động” trở thành một yếu tố quan trọng trong Tâm lý năng động.
Triết lý hiện sinh
Sau cùng, thiết tưởng không nên bỏ qua ảnh hưởng của Triết lý về các giá trị và một vài khái niệm của Triết lý hiện sinh, như: con người trong hoàn cảnh, sự tự do của tinh thần và các vũ trụ ý nghĩa, mà con người nhận thức trong tương quan với thế giới loài người (Mittwelt) và các sự vật (Umwelt). Tuy nhiên cũng cần phải thêm rằng: điều mà thuyết hiện sinh và hiện tượng luận, mô tả từ kinh nghiệm nội tại sống động, thì tâm lý năng động ưu tiên nghiên cứu, từ việc quan sát ngoại tại. Viktor Frankl, nhà tâm lý trị liệu (trường phái Vienna thứ ba), chủ xướng việc trị liệu bằng ý nghĩa, nhấn mạnh nhiều đến hoàn cảnh hiện sinh, chiều hướng tinh thần và tính cách ưu việt của tự do và trách nhiệm.
Từ những năm 1962, cùng với việc thiết lập Viện Esalen Institue tại California (Hoa Kỳ), nhằm nghiên cứu việc khai triển tiềm năng nhân linh (human potential), phong trào “Tâm lý nhân bản” có xu hướng tìm kiếm những khía cạnh mới trong lãnh vực nghiên cứu tâm lý, như: tình yêu, tự do, sáng tạo tính, kinh nghiệm siêu tâm linh, v.v… Điều này cũng ảnh hưởng trên viễn tượng siêu việt của Tâm lý năng động, tức là: không đóng kín, không giản lược hoặc giới hạn tầm nhìn, nhưng luôn mở rộng cho mọi chiều kích: vật chất, tâm linh cũng như tinh thần.
Những đặc tính của tâm lý năng động.
Sau khi đối chiếu với Tâm lý cổ điển và nhìn qua những “cội nguồn” xa gần của Tâm lý năng động, chúng ta đã có một ý niệm tổng quát về việc hình thành của nó. Trong phần cuối, như một tổng hợp, chúng ta thử tóm lược những nét chính của Tâm lý năng động.
1/ Đặc tính của Tâm lý năng động là một cái nhìn toàn diện, toàn thể (holistic) và thống nhất về con người. Đối tượng của Tâm lý năng động là: nhân cách. Nhân cách là một thực tại vô cùng phức tạp. Nó là kết quả của một sự tương tác liên tục giữa những yếu tố khác nhau, vật chất cũng như tinh thần, nội tại cũng như ngoại tại. Để cứu xét nhân cách như một thực thể sống động và luôn biến chuyển, Tâm lý năng động đặt trọng tâm phân tích trên hai khái niệm: cơ cấu và tiến trình.
Cơ cấu xét đến những yếu tố cấu tạo, hình thành nhân cách. Và để làm điều này, nhà nghiên cứu phân chia nhân cách thành những mảnh nhỏ nhất có thể. Nhưng, các thành tố nhỏ nhất này không bất động, không biệt lập mà được nối kết với nhau. Khi nói đến cơ cấu, người ta ngụ ý rằng: các yếu tố này được sắp xếp thành một hệ thống tương đối cố định. Trong hệ thống có tổ chức và tương đối cố định này, mỗi thành tố đều có một chức năng đặc biệt phải chu toàn. Các hoạt động riêng lẻ của mỗi thành phần hoặc tương tác với các chức năng khác, trong tình trạng luôn thay đổi và biến dịch được gọi chung là: tiến trình.
Sự phân chia và biệt loại hóa có nguy cơ làm phá vỡ tính cách duy nhất và đồng bộ của nhân cách, nếu không có một chức năng cao hơn nhằm điều khiển và phối hợp những chuyển động đủ loại này. Đó là vai trò quan trọng của tiến trình hội nhập. Hội nhập được coi như trung tâm điều phối và thống nhất mà nếu không có nó thì cơ cấu của nhân cách sẽ bị tan rã. Tinh thần, tâm linh, thể xác, làm thành một toàn thể duy nhất và sự phối hợp liên tục giữa các tác động và phản ứng đủ loại ở ba mức độ này tạo nên một giai điệu vô cùng phong phú và luôn biến chuyển nơi con người.
Tâm lý năng động cứu xét cơ cấu nhưng ở khía cạnh động, tức là tìm hiểu vai trò và cách họat động của các động năng nội cũng như ngoại tại vốn luôn thúc đẩy nhân cách. Có những động lực đẩy về phía trước nhưng cũng có những động lực kéo về phía sau. Tình trạng này tạo nên căng thẳng và xung đột. Có khi là xung đột giữa các động lực nội tại trong chính nhân cách. Thường khi, lại là xung đột giữa nhân cách với môi trường. Để tạo nên tình trạng tăng trưởng hài hòa, hội nhập, trong chính nhân cách cũng như trong tương quan với môi trường, nhân cách được hướng dẫn bởi tiến trình điều chỉnh, thích nghi (adjustment).
2/ Trong các động năng chi phối nhân cách, cần phải chú ý nhiều hơn đến những tiến trình hay động năng vô thức (unconscious processes). Vô thức là một khám phá quan trọng của Freud vốn ảnh hưởng nhiều trên lý thuyết về nhân cách của Tâm lý năng động. Tâm lý cổ điển đã đưa ra ánh sáng những hoạt động của ý thức, như: nhận thức, hồi tưởng, suy tư, v.v… Tâm lý năng động chú trọng nhiều đến các động năng vô thức, xuất phát từ các thúc bách sinh vật (Biological Drives), các cảm xúc (Emotions), các áp lực xã hội (Social Motives), v.v…
Theo định nghĩa, các động năng vô thức không được khám phá và nhận diện. Bởi thế chúng có thể gây tác hại cho sự quân bình và triển nở nhân cách. Vì lẽ đó, Tâm lý năng động luôn truy tầm những nguyên động (Motivations) để tìm hiểu và giải thích tác phong hay cách ứng xử của con người. Nguyên động là những nguyên do nội tại hay ngoại tại thúc đẩy con người có một “thái độ” trước người khác hay sự vật gì. Nguyên động bao hàm một định hướng (mục đích và hướng đi) và một cường độ (mạnh/ yếu, nhiều/ ít). Chính vì để tìm hiểu các nguyên động sâu xa này, mà Tâm lý năng động cứu xét hoạt động của vô thức và tiềm thức. Nó không nhắm định nghĩa nhân cách là gì nhưng muốn tìm hiểu: tại sao và bằng cách nào nhân cách có những tác phong và phản ứng trước những hoàn cảnh cụ thể. Khi cứu xét nhân cách mà không có việc thẩm định các nguyên động tiềm ẩn thì chưa được coi là một cái nhìn đầy đủ.
3/ Cuối cùng, Tâm lý năng động trong viễn tượng Kitô, nhắm đến khía cạnh tích cực trong việc phát huy nhân cách. Những khái niệm, như: tăng trưởng, thành tựu, thể hiện chính mình, được nhấn mạnh hơn là những tình trạng tiêu cực, như: ám ảnh, bối rối, mặc cảm, v.v… Để góp phần vào việc đào luyện một nhân cách trưởng thành, khoa tâm lý năng động giả thiết rằng: nhân cách luôn ở trên con đường thể hiện chính mình qua các giai đọan phát triển.
Nếu Tâm lý năng động cứu xét nhân cách như một thực thể luôn ở trong tình trạng động, thì hiện nay, môn Tâm lý phát triển đặc biệt nghiên cứu chính tiến trình biến đổi này của một đời người: từ lúc nằm nôi cho đến khi xuống mồ, vốn trải qua rất nhiều giai đoạn. Biến đổi về phẩm cũng như lượng, trong cơ cấu cũng như trong chức năng. Mặc dầu trong thực tế, tâm lý phát triển hầu như được đồng hóa với tâm lý của ấu thời, nhưng giai đoạn ấu thơ này cũng có thể được xem như mô hình của mọi sự biến đổi chuyển tiếp. Nghĩa là: tiến trình biến đổi có nguồn gốc sinh vật, nhưng cũng có thể là kết quả của việc tập luyện.
Khi nhấn mạnh đến các yếu tố phát triển (developmental factors), Tâm lý năng động giả định: trên con đường tiến tới trưởng thành, nhân cách biến chuyển cách tiệm tiến cùng với thời gian. Và điều này còn tùy thuộc vào cách thức mà những yếu tố phát triển có được hội nhập cách hài hòa và tích cực vào toàn bộ nhân cách hay không.
IV. TÂM LÝ VÀ LINH ĐẠO
Khi giới thiệu một số tài liệu liên quan đến tâm lý với một số thuật ngữ rất mới lạ, chúng tôi thấy cần phải giải thích một số khái niệm và từ ngữ. Và trước tiên, còn phải trình bày cách sơ lược về các trường phái tâm lý. Việc làm này có thể gợi lên cảm tưởng là chúng tôi quá đề cao vai trò của tâm lý.
Chúng tôi không chủ trương tâm lý giải quyết tất cả mọi vấn đề. Chúng tôi cũng không đề cao một lập trường hay một lý thuyết. Các trường phái tâm lý rồi cũng sẽ qua đi. Có những lý thuyết lôi cuốn được sự chú ý của dư luận quần chúng trong một thời gian, nhưng cũng mau chóng mất đi ảnh hưởng trong đời sống xã hội. Một số lập trường, trước mắt xem ra rất hấp dẫn, nhưng về lâu về dài lại không đóng góp bao nhiêu vào việc xây dựng con người. Có khi còn là tác nhân gây ra những hậu quả tai hại. Lý thuyết tiến hoá của Darwin chẳng hạn, có lúc được tôn lên như tín điều tuyệt đối của nhiều tổ chức và thể chế. Lý thuyết của Freud cũng thế. Nhưng rồi với thời gian, người ta cũng vỡ mộng, vì nhận ra những khiếm khuyết nền tảng, những tì vết nghiêm trọng (cơ bản) nơi những chủ thuyết này.
Các lý thuyết tâm lý học nối tiếp nhau để giải thích hiện tượng con người, nhưng rõ ràng không phải mọi lý thuyết đều có thể vẽ đúng chân dung con người. Nhiều khi các trường phái tâm lý cho ta cảm tưởng giống như trong giai thoại bảy anh mù xem voi.
Rốt cuộc các lý thuyết qua đi, nhưng vấn đề con người vẫn tồn tại. Bởi lẽ không ai có thể biết về con người ngoại trừ Đấng đã tạo dựng con người. Điểm cốt yếu của chúng ta là xây dựng con người chớ không phải đề cao lý thuyết.
Điều chúng ta chờ đợi nơi tâm lý học là giúp khám phá cấu trúc nhân cách cũng như những qui luật hướng dẫn đời sống tâm linh. Chúng ta cũng có quyền đòi hỏi tâm lý học giúp chúng ta biết sự thật về con người cách chung và về con người của chúng ta cách riêng, để có thể sống trong sự tự do của Chúa Thánh Thần. Vì chỉ có sự thật mới làm cho chúng ta được tự do (x. Ga 8, 32). Chỉ có một nền tâm lý biết trình bày sự thật về con người toàn diện mới có thể giúp xây dựng một nền tảng linh đạo lành mạnh. Chính vì thế không phải trường phái tâm lý nào cũng đáp ứng sự mong chờ của chúng ta.
1. Áp dụng tâm lý vào đời sống thiêng liêng
Trước tiên, Tâm lý phải được chữa lành trong chính viễn tượng của nó, đó là phác hoạ một chân dung đích thực về con người, tránh cái nhìn lệch lạc, méo mó về con người. Trong diễn trình lịch sử, nếu có giai đoạn phân tích tâm lý (psychanalysis), thì cũng phải có giai đoạn tổng hợp tâm lý (psychosynthesis), như Roberto Assagioli (1888 -1974)[3] chủ trương. Nếu việc khám phá cái vô thức là một cột mốc quan trọng, thì việc khám phá vị trí của tinh thần phải quan trọng hơn. Nếu có chiều sâu thì cũng có chiều cao. Nếu không có cái siêu việt (transcendent) và siêu bản thể (transpersonal), con người sẽ trở nên bệnh hoạn, bạo tàn và vô vọng.
Nhân bản đích thực không thể là một hệ thống đóng kín nhưng mở rộng. Chiều kích siêu việt trong tâm lý rất cần thiết để con người hít thở một bầu khí trong lành và tìm ra ý nghĩa cuộc đời, như bác sĩ V. Frankl đã đề xướng.
Nếu tâm lý đích thực nhân bản cần phải mở ra cho tất cả mọi chiều kích, nhất là viễn tượng tinh thần, thì người ta cũng không mong đợi tâm lý bàn đến vấn đề Thiên Chúa. Chính thần học và linh đạo đảm nhận vai trò chuyên biệt này. Nhiệm vụ của linh đạo là sử dụng các dữ kiện tâm lý lành mạnh để phục vụ đời sống thiêng liêng. Tức là không phải áp dụng cách mù quáng những khám phá mới của khoa học, mà còn biết gạn lọc và thích ứng. Sư kiện có một tập sư đã đưa “nguyên si” lý thuyết về các giai đoạn phát triển theo giải thích của Freud trong một quyển sách về huấn luyện đời tu[4] cho thấy sự cần thiết phải biết thẩm định các dữ kiện tâm lý để áp dụng vào đời sống Kitô, nhất là nơi những người có trách nhiệm đào luyện.
Dĩ nhiên, trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, không ai có thể nói đến việc huấn luyện nhân bản mà không có một số kiến thức nền tảng về tâm lý. Nhưng thế nào là kiến thức về tâm lý? Thực ra, trên thị trường có nhiều sách tâm lý phổ thông, loại “tự học” và “tự luyện” với nhiều hứa hẹn thành công. Cũng có những khoá huấn luyện (tâm lý) “cấp tốc” để nên lãnh tụ sáng suốt, nên quản trị viên đắc lực. Nhưng chúng ta phải công nhận là những kiến thức “dọn sẵn” cũng như những thức ăn nhanh, về lâu về dài, không tốt cho sức khoẻ. Một môn học hữu ích luôn đòi hỏi thời gian và cố gắng.
Nếu việc đào luyện đòi hỏi người huấn luyện phải biết thận trọng trong việc sử dụng phương thế, thì cũng giả thiết phải có thời gian và kiên nhẫn. Đồng thời cũng cần ghi nhớ rằng một con người lý tưởng không phải luôn là một con người “thành công” theo tiêu chuẩn của người đời. Thành công trên thương trường và chính trường không luôn đồng nghĩa với thành nhân.
Một nền giáo dục lý tưởng theo truyền thống của cha ông chúng ta, luôn đặt ưu tiên cho việc học biết cách ứng xử với nhau trong xã hội: “Tiên học “lễ”, hậu học “văn”. Còn theo nhân bản thuyết của Tây Âu, như Montaigne đề nghị, thì giáo dục nhắm đến việc có một “cái đầu biết phê phán hơn là có một cái đầu đầy ắp chữ nghĩa”. Vậy, điều quan trọng là đào luyện một con người có cái đầu nhưng cũng có cái tâm. Nếu biết chú ý đến “tâm lý” thì càng phải chú trọng đến “tinh thần”. Cuối cùng là làm sao tránh được cái nhìn phiến diện, lệch lạc và biết chọn lập trường tâm lý nào khả dĩ giúp huấn luyện con người toàn diện.
Cha Cruchon, trong tác phẩm được giới thiệu trên đây, đã có công thu thập công trình nghiên cứu về tâm lý hiện đại trong một tổng hợp tương đối đầy đủ và đề nghị một viễn tượng nhân bản hài hoà, bao trùm thể lý, trí tuệ, tâm lý cũng như tinh thần. Cha phác hoạ một mô hình lý tưởng để phát triển con người, trong viễn tượng Kitô giáo. Nếu ai có khả năng thể nghiệm cách áp dụng tâm lý theo chiều hướng này thì thật hữu ích cho đời sống tinh thần của người Kitô cách chung và người tu hành cách riêng.
Tuy nhiên, hai quyển sách của Cha, mặc dầu mang tựa đề: “Nhập môn” nhưng vẫn là một sách khó đọc vì tính chuyên môn của nó. Sách giới thiệu quá nhiều trường phái với những lý thuyết trừu tượng, trình bày quá nhiều vấn đề khác nhau và qua những từ ngữ khá mới mẻ, nên khó tiêu thụ đối với đại chúng, nhất là những ai chưa quen với những khái niệm tâm lý hiện đại.
Tài liệu của nữ tu Marian Dolores, mặc dầu sử dụng khá nhiều từ chuyên môn về tâm lý, nhưng trình bày cách đơn giản những dữ kiện tâm lý căn bản và còn có thể nói là sơ đẳng. Đối tượng chính yếu là việc tăng trưởng tâm linh và thiêng liêng, nhưng được đặt trong bối cảnh đời tu, nên cũng dễ thấy và dễ áp dụng hơn cho những ai sống đời thánh hiến. Chính vì thế mà chúng tôi đã trình dịch tài liệu này. Vấn đề cần lưu ý nơi đây không chỉ là trưởng thành tâm lý mà còn là trưởng thành thiêng liêng.
2. Một cái nhìn toàn diện về con người
Một quan niệm động về nhân cách giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện và đầy đủ về con người. Nhân cách không chỉ là những đặc tính bên ngoài, lộ diện, thấy được, mà còn là những động năng tiềm ẩn và nhiều khi còn là vô thức. Tâm lý năng động có tham vọng giải thích cái lộ diện bằng cái tiềm ẩn và tìm hiểu cách có hệ thống những thành phần làm nên cấu trúc của nhân cách bằng cách chú ý nhiều hơn đến khía cạnh còn che giấu, ít được biết đến của nhân cách, như: các tâm tình, cảm xúc, các xung động và những điều được biết dưới khái niệm “vô thức”. Nó cũng giúp chúng ta ý thức được sự khác biệt giữa tự do tâm lý và tự do thể lý; giữa bệnh cơ năng và bệnh chức năng. Những điều mà người ta thường lẫn lộn, trong khi đáng lý cần phải phân biệt rõ ràng.
Theo quan niệm cổ truyền, lý trí là cơ năng cao nhất của con người. Bởi thế người ta có khuynh hướng cho rằng người thông minh ắt sẽ thành đạt và tìm cách để phát huy trí tuệ và đào sâu kiến thức. Trong thực tế không phải luôn xảy ra như vậy. Trong những năm gần đây, một số chuyên viên tâm lý chứng minh rằng: chỉ số cảm xúc (EQ) còn quan trọng hơn chỉ số thông minh hay chỉ số trí tuệ (IQ).
Cũng thế, người ta thường nhắc đến câu châm ngôn: “Muốn là được”, để đề cao vai trò của ý chí. Nhưng trên bình diện hiện sinh, thì mọi sự không diễn ra như chúng ta muốn. Thánh Phaolô đã chẳng phải thốt lên lời tuyệt vọng: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15) đó ư? Thánh Phaolô nói đến một “luật khác” chống lại luật của lý trí” (Rm 7,23).
Tâm lý năng động cho thấy tầm quan trọng của các tình cảm, xúc cảm và các thúc bách vô thức. Những yếu tố này có một ảnh hưởng quyết định trên sự triển nở cũng như hoạt động hữu hiệu của nhân cách. Các tâm tình, cảm xúc là những nguồn năng lực, hay nói theo tâm lý, là những “động lực” rất phong phú. Chúng có thể rất hữu ích nhưng cũng có thể rất nguy hại cho nhân cách, tùy theo cách ta biết sử dụng chúng hay không. Những cảm xúc, đam mê, xung động đủ loại có thể làm mờ tối ánh sáng trí tuệ và làm cho ý chí trở nên yếu nhược. Những chứng bệnh được gọi là “tâm thần” thường bắt nguồn từ các cảm xúc không lành mạnh. Những chứng bệnh “tâm thể lý” cũng thế.
Một đóng góp đáng kể của tâm lý năng động là lưu ý đến tầm quan trọng của những tình cảm và xúc cảm tích cực. Chẳng những phải biết vun trồng mà còn phải biết biểu lộ các tình cảm này đúng nơi đúng lúc. Đó là dấu chỉ của một nhân cách trưởng thành. Hay nói cách khác, trưởng thành về phương diện tâm lý được coi như đồng nghĩa với trưởng thành cảm xúc. Từ đó, ta nhận ra tầm quan trọng của việc huấn luyện cảm xúc trong chương trình đào luyện nhân bản. Điều này ít được biết đến và nếu có biết chăng nữa thì cũng rất khó thực hiện. Phải đầu tư vào đó nhiều thời giờ và kiên nhẫn. Dĩ nhiên người ta luôn phải trả một giá đắt cho mọi điều gì đáng giá. Và sự trưởng thành nhân bản chắc chắn là một điều quí giá.
Để phát huy một nhân cách viên mãn, chúng ta cần ý thức về sự hiện diện của những yếu tố không lành mạnh trong đời sống và tập trung nỗ lực để loại bỏ những yếu tố lệch lạc đó. Để tiến tới một nhân cách sáng tạo, chúng ta phải được giải thoát khỏi những điều kiện trói buộc sự tự do trong tinh thần cũng như thể xác. Cách chung, người ta biết được thế nào là thiếu tự do trên bình diện thể lý và xã hội, nhưng có ít người ý thức được tình trạng thiếu tự do trên bình diện tâm lý và tinh thần. Khoa tâm lý về nhân cách có tham vọng giúp con người hiểu được thế nào là sống tự do theo nghĩa rộng nhất, tức là triển nở mọi khả năng thể lý, tâm lý và tinh thần theo hướng tích cực.
3. Thực tại ân sủng
Trong nhãn quan Kitô giáo, hướng tích cực này là: mở rộng cho Thiên Chúa, cho người khác và cho thế giới hiện thực. Một nhân cách viên mãn luôn biểu thị sự hài hòa giữa tinh thần và thể xác, vì có sự giao lưu tốt đẹp giữa các thành tố cấu tạo nhân cách. Điều này giả thiết toàn thể nhân cách được chiếu tỏa bởi nguồn sáng vô biên từ cao, vốn là tình yêu Thiên Chúa, mà thần học gọi là ân sủng.
Vào thời đại của các môn khoa học nhân văn, chúng ta có thể bị cám dỗ coi trọng khía cạnh nhân bản mà bỏ quên khía cạnh thiêng liêng. Khi môn tâm lý được ưa chuộng thì người ta cũng có xu hướng diễn giải mọi vấn đề bằng những ngôn từ tâm lý. Cuối cùng thì các thực tại tâm lý cũng có xu hướng lấn áp các thực tại thiêng liêng, dù là một cách vô tình.
Điều này có thể xảy ra như thế nào? Đó là khi người ta giản lược mọi vấn đề tu đức thành vấn đề tâm lý. Lúc đó, một đời sống quân bình về phương diện tâm lý sẽ được coi như một đời sống tu hành tốt đẹp. Cũng như trước kia, người ta cũng có xu hướng đồng hoá sự toàn thiện của đời tu với việc chu toàn lề luật hay việc tuân hành các đòi buộc luân lý.
Thực ra nếu xét trên bình diện khoa học, thì những thực tại thiêng liêng như: ân sủng, tội lỗi và tha thứ không có nghĩa gì đối với khoa tâm lý. Tâm lý không muốn đụng chạm đến thực tại huyền nhiệm của lòng tin. Trong tâm lý, không có vấn đề ân sủng. Cũng như không đặt vấn đề tội lỗi. Chỉ có hoạt động của xung động vô thức. Và vì không có tội nên cũng không có vấn đề cứu chuộc. Thay vào đó sẽ là vấn đề giải toả dồn nén và sống “thoải mái”. Nếu tâm lý – như trường phái C. Rogers chủ trương – đề cao những tình trạng như: “thể hiện chính mình, triển nở nhân cách, làm tràn đầy chính mình, trưởng thành nhân bản, v.v.”, thì làm sao một người có thể chấp nhận giáo huấn Tin Mừng về con đường hẹp, nhu cầu phải từ bỏ và khổ hạnh, tiết chế?
Chính vì những nguy cơ này mà sau khi trình bày về Tâm lý, cả là Tâm lý năng động theo viễn tượng Kitô, chúng tôi muốn tái khẳng định về giá trị tối thượng của ân sủng trong đời tu. Ân sủng không phá huỷ tự nhiên, nhưng hoàn thiện tự nhiên. Vì thế cần phải xây dựng một nền móng tự nhiên vững chắc. Việc xây dựng nền móng tự nhiên vững chắc chắc hẳn là một công việc lâu dài và khó nhọc. Nhưng chưa phải là giai đoạn cuối. Điều chúng ta chờ đợi nơi tâm lý là giúp con người hiểu biết về chính mình và đạt đến sự tự do nội tâm, vốn là điều kiện để ân sủng được triển nở. Nhưng chính ân sủng mới làm cho một người thành một thụ tạo mới trong Chúa Kitô.
Chúng ta không ngừng nương tựa vào ân sủng để tiến lên. Phải làm việc tối đa với nỗ lực của con người nhưng cũng không ngừng chờ mong ân sủng của Thiên Chúa. Và kinh nghiệm cũng dạy rằng dầu trong những hoàn cảnh mà khía cạnh nhân bản xem ra bị khiếm khuyết, thì ân sủng của Thiên Chúa vẫn có thể làm những điều kỳ diệu, như được chứng minh trong đời sống của một số vị thánh.
4. Dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa
Thách đố của đời tu trong thiên niên kỷ mới là trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.
Sự thành tựu của đời tu không được đo lường bằng những tiêu chuẩn của thế gian, nhưng bằng những giá trị của Nước Trời.
Chính trong viễn tượng Nước Trời mà đời thánh hiến cách chung và những lời khuyên Phúc Âm cách riêng, tìm thấy ý nghĩa. Một cách chính xác hơn, nơi nào các Mối Phúc của Tin Mừng được thấu hiểu và được thể hiện trong niềm vui thì nơi đó người ta mới nhận ra thực tại dấu chỉ của đời thánh hiến, như đã được bàn đến trong phần khởi đầu. Và nơi đây, trước khi kết, chúng ta trở lại với ý niệm “dấu chỉ” vốn là thách đố lớn nhất của đời thánh hiến trong thiên niên kỷ mới.
Mặc dầu có những khủng hoảng và bất toàn trong đời tu, nhưng ĐGH Gioan-Phaolô II không ngần ngại nói đến nhiệm vụ ngôn sứ gắn liền với việc thi hành các lời khuyên Phúc âm. Và trong hình thức đẹp nhất, đời thánh hiến là một sự chúc lành cho cuộc sống nhân linh và cho đời sống của chính Giáo Hội.
Mặc dầu tình trạng tục hóa xem như đã làm cho đời sống đức tin của một số đông ra lạnh nhạt và đã thấm nhập vào tận nội cung của đời thánh hiến, nhưng Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, với cái nhìn đầy ánh sáng Thánh Linh, đã không chút nghi ngờ về giá trị dấu chỉ ngôn sứ của đời thánh hiến. Ngài không bộc lộ bất cứ sự e dè lo sợ nào trước những khó khăn mà đời tu cũng như đời sống tín hữu gặp phải. Trái lại, luôn kiên vững trong đức tin, ngài khẳng định: bây giờ hơn bao giờ hết, đời thánh hiến không những là dấu chỉ cho thế giới mà còn là phương dược chữa lành các bệnh tật tâm linh cho con người và thế giới hôm nay, vì đời sống thánh hiến là một chứng từ hùng biện về sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống giữa loài người.
“Việc chọn lựa các lời khuyên Phúc âm, thay vì làm nghèo đi các giá trị nhân bản đích thực, được giới thiệu như một sự thay hình đổi dạng đối với những giá trị này [….]
Các Lời Khuyên Phúc Âm không nên bị coi như sự phủ nhận các giá trị riêng gắn liền với phái tính, ước muốn chiếm hữu cách thích đáng và định đoạt đời sống cách độc lập. Các xu hướng này, trong mức độ mà chúng được xây dựng trên bản tính tự nhiên thì tự chúng là tốt. Tuy nhiên, loài thụ tạo nhân linh, bị yếu nhược vì nguyên tội, luôn có nguy cơ sử dụng chúng dưới chiêu thức vi phạm, lấn chiếm.
Việc tuyên khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục trở thành một lời cảnh cáo, để không ai quá coi thường các vết thương do nguyên tội gây ra và trong khi xác định giá trị của các sự thiện thụ tạo, việc tuyên khấn tương đối hóa chúng bằng cách cho thấy Thiên Chúa là sự thiện tuyệt đối. Như vậy, chính khi tìm cách thâu đạt sự thánh thiện cho chính mình, những ai đi theo các lời khuyên Phúc âm một cách nào đó, đề nghị một “liệu pháp thiêng liêng” cho nhân loại, bởi lẽ họ khước từ thần tượng hoá thụ tạo và một cách nào đó làm cho Thiên Chúa hằng sống trở nên hữu hình” (Tông HuấnVita Consecrata, 87).
Khi suy niệm đoạn văn này, Thánh Bộ Đời Thánh hiến còn quảng diễn:
“Chính trong cuộc sống đơn sơ từng ngày mà đời sống thánh hiến dần dần chín muồi để trở thành lời loan báo về một lối sống khác với lối sống của thế giới và nền văn hoá thống trị. Căn cứ trên lối sống đó và nỗ lực tìm kiếm Đấng Tuyệt Đối, đời sống thánh hiến đề nghị một phương dược thiêng liêng nhằm chữa trị các điều ác hại cho thời đại. Như thế, đời sống thánh hiến là một phúc lành và lý do để hy vọng trong lòng Giáo hội, cho đời sống con người và cho chính đời sống Giáo hội” (Huấn Thị “Khởi hành lại”, 19.5.2002, số 6)
[1] Xem: G. Cruchon, Initiation à la psychologie dynamique, t.1. La personne et son entourage, Mame, 1963 (1965, 6è édition revue), 400 p.; t.2. Conflits, angoisses et certitudes, Mame, 1969, 434 p.
[2] Luigi Silvano Filippi, Maturità umana e celibato: Problemi di psicologia dinamica e clinica, Editrice La Scuola, 1973
[3] Xem: Psychosynthesis: A Collection of Basic Writings by Roberto Assagioli (1965)
[4] Xem: L. Licheri, Đơn sơ một tiếng xin vâng, tt. 40-48.
(còn tiếp)