Từ cung điện đến đan viện
Như thế thân phụ Fernand cho phép anh vào Dòng Thánh Âugutinô. Vậy anh phải rời cung điện rộng lớn huy hoàng, rời bàn ăn ngon, rời quần áo đẹp… xa cha mẹ, xa các em vừa gặp lại sau năm năm xa nhà đi học…
Và việc chia tay này sẽ có thể, nhưng cũng rất chắc chắn là sẽ chia tay mãi. Mãi mãi!… Dù đã quyết tâm hy sinh đời sống của mình cho Chúa, nhưng anh cũng đau lòng khi phải ra đi một sáng tháng 8 năm 1210.
Không biết có cha mẹ đi cùng hay không nhưng Fernand đã chọn con đường giữa vườn nho và vườn cây ô-liu để đi. Cũng đã nhiều lần anh đến đan viện gặp linh mục bề trên Gonzalve Mendez, hoặc đến dự các buổi lễ với các tu sĩ. Nhưng lần này, các bức tường đá của đan viện có vẻ như quá lạnh lùng, không thể xuyên thủng được đối với anh… Không thể xuyên thủng như các tường thành nhốt kín anh. Nhưng ấn tượng khó chịu này biến mất khi anh nghĩ mình có thể dâng trọn cuộc sống cho Chúa mà không sợ mất đi sự gần gũi với cha mẹ, bạn bè vì lúc này lúc kia họ có thể đến thăm anh.
Khi gõ cánh cửa nặng nề của đan viện, anh được thầy gác cổng nồng nhiệt đón tiếp. Cha bề trên chờ anh đến, cha đón anh như người cha đón con. Cha cất bộ áo quần đẹp của anh và cho anh chiếc áo tu sĩ đạm bạc: áo chùng trắng, dây thắt lưng, áo lễ khoác ngoài và khăn quàng tay cho các buổi lễ.
Gần với Chúa hơn..
Fernand thích ứng dễ dàng với đời sống đan viện. Các nhu cầu nội tâm của anh được thỏa lòng với thời gian cầu nguyện và suy gẫm trong phòng, với thánh lễ mỗi buổi sáng. Anh siêng năng mẫu mực đi lễ mỗi ngày, anh yêu thích các bài thánh vịnh mà anh đã được hướng dẫn khi còn học ở trường nhà thờ chính tòa.
Niềm khát khao học tập của anh được no đầy với thư viện phong phú của tu viện, anh không bao giờ mệt mỏi khi bình luận và suy niệm Cựu Ước và Tân Ước, đặc biệt anh dùng Phúc Âm làm nền tảng cho phần lớn các bài suy niệm của mình.
Đối xử tốt với mọi người, vâng lời bề trên, giữ cẩn thận luật dòng, anh được cộng đoàn chấp nhận. Anh được gần gũi với Chúa nhiều hơn…
Nhưng trái tim chia sẻ
Anh hạnh phúc giữa các anh em đồng tu nhưng không vì thế mà anh xa cha mẹ, bạn bè thân. Các bạn thường có thói quen đến thăm anh. Các bạn cho biết họ nhớ anh và trách anh vì sao đột ngột bỏ họ. Họ nhắc các kỷ niệm thời còn sống chung và cho anh biết tin tức bạn bè, các buổi họp, các bữa ăn chia sẻ…. không có anh! Cuối các buổi đến thăm khi nào cũng là lời tiếc nuối: “Vì sao bạn ở trong tu viện? Bạn quá trẻ! Chúng tôi nhớ bạn quá! Còn chúng tôi, bạn không nghĩ chúng tôi không nhớ bạn sao?”
Dĩ nhiên anh quyết tâm không nao núng trước các lời van xin lặp đi lặp lại này. Nhưng anh cẩn thận với tình cảm của mình, với sở thích trò chuyện của mình, với thiện cảm tự nhiên của anh làm cuốn hút mọi người.
Anh sớm nhận ra các buổi gặp gỡ này bắt đầu làm tâm trí anh xao nhãng và ảnh hưởng đến ước muốn sâu xa được kết hiệp mật thiết với Chúa. Anh tìm cho mình một giải pháp để giải quyết tình trạng bối rối này: rời đan viện này để đến ở một nhà xa hơn của dòng. Anh chọn đan viện Thánh giá ở Coïmbre, đó là cái nôi của dòng.
Đi trốn để cứu mình
Vì thế Fernand xin bề trên rời tu viện, nhưng cha bề trên Gonzalve Mendez cho anh biết, anh được cộng đoàn yêu mến vì đức hạnh và anh là niềm hy vọng của cộng đoàn nên khó để cho anh ra đi. Fernand không đầu hàng, nhiều lần trong lập luận của mình, anh cố gắng thuyết phục cha không nên làm trái ý Chúa đã đặt để cho anh… và rồi anh chiến thắng, sau hai năm ở đây anh được phép đi Coïmbre, chỉ cách đó vài cây số.
Tu viện hoàng gia
Vào cuối tháng 12 năm 1212, Fernand từ giã bề trên và các anh em trong dòng để đi Coïmbre. Vài ngày sau anh đến đan viện Thánh giá, linh mục bề trên Giovanni Cesare và 72 tu sĩ ở đây chân tình đón tiếp anh.
Đan viện này có nhiều thuận lợi hơn so với đan viện Thánh Antôn ở Olivares. Được vua Alphonse Đệ nhất xây để vinh danh chiến thắng của nhà vua với người hồi giáo, đan viện hưởng được sự rộng lượng của nhà vua, thêm nữa nhà vua xây cung điện của mình trong thành phố. Ngoài là nhà mẹ của dòng, đan viện còn là nơi thường trú của tổng trưởng.
Các tòa nhà rất rộng được thông thương bằng cổng huy hoàng kiểu gô-tíc. Các dụng cụ phụng vụ rất đẹp, các thánh tích được để trong các hòm bằng vàng và bạc chạm trổ khéo léo. Các thanh chắn với các cột nhỏ kiểu gô-tíc hài hòa với toàn thể.
Thư viện vô giá
Điều mà Fernand đặc biệt thích ở đan viện mới này là thư viện, với người mê đọc sách thiêng liêng như anh thì đây là thư viện lý tưởng: các tác phẩm nền tảng như Kinh Thánh, Lịch sử Giáo hội, các bài khảo luận về đức tin, giáo điều, âm nhạc, các chú giải của các Giáo phụ, các tập san hướng dẫn giải quyết các nố lương tâm, các lập luận để chống với các tranh cãi về đức tin; chú giải của Thánh Âugutinô về Phúc Âm Thánh Gioan, Luca và Matêô và nhiều sách giá trị khác đều có mặt ở đây… Ngoài ra còn có các tập sách cầu nguyện, các thánh vịnh, thậm chí có cả tập sách hướng dẫn hát thánh ca.
Trước khi đi theo Fernand trong giai đoạn học hỏi đặc biệt này, thiết nghĩ cũng nên biết qua vai trò đặc biệt của các đan sĩ dòng Thánh Âugutinô trong việc đào tạo Fernand. Dù các chỉ dẫn có thể không đầy đủ nhưng các tác phẩm của các tu sĩ cho chúng ta thấy tầm mức hiểu biết rộng lớn của Fernand. Vì sao có sự đào tạo vững mạnh như vậy?
Trước hết là để thỏa cơn khát khao muốn tìm hiểu và yêu mến Chúa, đi theo bước chân của Ngài trong chương trình cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến cho thế gian. Nhưng không phải chỉ có vậy. Vì tất cả các tu sĩ đều sống theo một Luật, vai trò của họ không chỉ giới hạn vào việc phụng vụ và các buổi lễ. Vai trò của họ còn làm sao trao truyền tình yêu của Chúa để thấm đậm vào lòng giáo dân trong các giáo xứ do họ đảm trách. Ngoài ra họ còn dạy giáo lý cho trẻ em, cũng như đào tạo những người đi tìm ơn gọi trong nội bộ. Họ cũng làm việc từ thiện trên khía cạnh nhân bản và vật chất, phân phát từ thiện và đón tiếp khách hành hương.
Như thế chúng ta hiểu sự đào tạo của họ sẽ gây nhiều tranh cãi vì vào thời đó, họ còn phải chống lại dị giáo manikêô, cho rằng thế giới phân chia rạch ròi không nhân nhượng giữa điều thiện điều ác. Như vậy phải có một hiểu biết sâu đậm về đức tin công giáo, hiểu các sai lầm của dị giáo để có các lập luận vững chắc hầu bác bỏ chúng.
Marta An Nguyễn dịch