Linh mục bị những kẻ khủng bố Hồi giáo tra tấn kể lại câu chuyện Diệt chủng Kitô hữu

“Bây giờ tôi không nói điều này ra để phàn nàn hay tìm sự thương hại, nhưng để cảnh báo với thế giới, trong đó mọi người đang nhắm mắt trước những bạo lực cố ý quét sạch chúng tôi,” cha Al-Bazi giải thích qua điện thoại ngày 2 tháng 5.

Linh mục bị những kẻ khủng bố Hồi giáo tra tấn kể lại câu chuyện Diệt chủng Kitô hữu

Cha Douglas Al-Bazi, một linh mục Công giáo người Syria đã bị bắt cóc và tra tấn trong suốt 9 ngày bởi những kẻ khủng bố của Nhà nước Hồi giáo tháng 11 năm 2006, lên tiếng kêu gọi sự giải thoát cho dân của ngài.

Hầu hết mọi Kitô hữu đều quen với từ “cha giải tội” khi nó hàm chỉ về vị linh mục đang ngồi giải tội. Tuy nhiên, gốc ban đầu của từ này, lấy từ gốc Latin là confiteri (thú nhận hay tự xưng) là một thuật ngữ được những Kitô hữu thế kỷ thứ I sử dụng với một nghĩa hoàn toàn khác. Họ dùng từ này để chỉ về những người vô địch trong Giáo hội đã tuyên xưng Đức Kitô công khai trước mọi người trong những thời điểm bị bách hại và bị lưu đày, bị tù đày, bị tra tấn hay bị bắt làm nô lệ, nhưng không bị giết, chứ nhất quyết không chịu từ bỏ đức tin vào Chúa Kitô.

Cha Douglas Joseph Shimshon Al-Bazi, một linh mục Công giáo người Syria, là một người như vậy. Ngài bị bắt cóc và bị tra tấn suốt 9 ngày bởi những kẻ khủng bố thuộc Nhà nước Hồi giáo tháng 11 năm 2006. Hậu quả của những lần tra tấn, ngài bị gãy 2 đốt sống. Những kẻ tra tấn đã đánh một cách dã man vào mặt của ngài bằng một cái búa làm gãy những răng cửa và gãy sống mũi của ngài. Ngài cũng bị đánh nhiều lần bằng búa lên đầu gối chân.

Giáo hội Công giáo Chaldea đã quyên góp $170.000 như là tiền chuộc để ngài được thả và cả một linh mục khác, Cha Samy Al Raiys.

Từ khi được thả, cùng với sự hỗ trợ của cộng đoàn Công giáo bị ngược đãi thậm tệ ở Erbil, cha Al-Bazi đã cung cấp chỗ ở cho hàng trăm Kitô hữu tị nạn trên những khu đất của giáo xứ Mar Elia trong vùng Ankawa đa phần là Kitô hữu.

Hầu hết những người Kitô hữu tị nạn thoát khỏi Qaraqosh khi ISIS càn quét qua Syria và Iraq bắt đầu từ tháng 8 năm 2014. Một nguồn tiền quỹ lớn đổ vào, chủ yếu từ nước ngoài, đã được dùng để mua và đưa vào hoạt động các nhà tiền chế, các trường học, phòng khám bệnh, nhà bếp cộng đồng và một thư viện. Trại tị nạn Mar Elia và các trại khác trong vùng Erbil và cung cấp thực phẩm cho hơn 4.000 gia đình Kitô hữu.

Từ khi được phóng thích khỏi tay những kẻ tra tấn, cha Al-Bazi giữ im lặng không nói về những đối xử tệ hại khi nằm trong tay của những kẻ khủng bố Hồi giáo. Nhưng bây giờ, khi đến được nước Mỹ, ngài đã nói ra tiếng nói chống lại những sự kinh hoàng nhằm vào cộng đoàn Kitô hữu ở Iraq và Syria. Đặc biệt, ngài đã công khai kêu gọi quốc tế hiệp sức đánh bại nạn diệt chủng này.

Cha Al-Bazi đã cùng với Các Hiệp sĩ Columbus tạo sức ép với các nước Tây phương, đặc biệt Hoa Kỳ công nhận những hành động của ISIS chống lại người Kitô hữu là nạn diệt chủng. Ngài đã nói về đề tài này tại Hội nghị ngày 28 tháng 4 bàn về Kitô hữu bị bách hại (April 28 congress on persecuted Christians), và lúc đó ngài có nói sơ qua với Register. Vào tháng 3, Quốc hội Mỹ đã thông qua dự luật H. Con. Res. 75, một dự luật không ràng buộc, với số phiếu 393-0, mô tả những hành động của ISIS chống lại người Kitô hữu là “diệt chủng, tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người,” và tiếp theo là bản tuyên bố của Bộ Ngoại giao (State Department declaration).

“Bây giờ tôi không nói điều này ra để phàn nàn hay tìm sự thương hại, nhưng để cảnh báo với thế giới, trong đó mọi người đang nhắm mắt trước những bạo lực cố ý quét sạch chúng tôi,” cha Al-Bazi giải thích qua điện thoại ngày 2 tháng 5.

“Hãy nhìn xem những gì ISIS đang đổ lên đầu dân tôi. Chúng ta phải nói về việc này. Chúng ta không thể làm ngơ. Chúng ta phải kết thúc nó trước khi nó tàn phá hết chúng tôi,” vị linh mục nói về những sự hung tàn.

“Điều đã quá rõ đối với bất kỳ nhũng ai nhìn đến những hành động mà ISIS và những kẻ khủng bố Hồi giáo khác đang đặc biệt nhắm vào và giết chết những người Kitô hữu. Đúng là họ có tấn công những nhóm khác, nhưng 80% nỗ lực của họ nhằm chống lại chúng tôi. Họ muốn quét chúng tôi ra khỏi đất nước hoặc là chết.”

Theo Hội Cứu trợ Giáo hội Cấp bách (Aid to the Church in Need), dân số Ki-tô hữu của Iraq đã giảm từ 1,5 triệu người năm 2002 xuống còn dưới 300.000 ngày nay. Nếu với tốc độ này, trong 5 năm tới cộng đoàn Kitô sẽ không còn tồn tại ở đó.

“Tôi đã bị bắn nhiều lần, nhưng tôi may sống sót. Nhà thờ của tôi bị tấn công và cướp phá,” cha Al-Bazi nói về bạo lực ở đó. “Chúng tôi đã bị cướp, ngay sau Thánh lễ ở nhà thờ. Chúng tôi là mục tiêu nhắm tới của những kẻ tội phạm này.”

“Tôi đã muốn chết như một người tử đạo trong tay của những kẻ này. Nhưng điều làm tôi đau nhói khi nghĩ rằng mọi người rồi cũng quên tôi và những nỗi đau khổ của dân tôi,” ngài nói. “Tôi nghĩ thế giới đang quên chúng tôi.”

“Điều thật quan trọng là thế giới phải nhận diện được những gì chúng tôi đã phải trải qua là một tình trạng diệt chủng. Điều quan trọng cho mọi người phải nhận ra được sự thật của tất cả những gì ISIS đã làm cho chúng tôi,” vị linh mục nói. “Quá sợ hãi khi phải sử dụng từ này là đầu hàng trước tính đúng đắn thuộc chính trị và sẽ khuyến khích những kẻ khủng bố này giết nhiều Kitô hữu hơn.”

“Chúng tôi muốn sống trong hòa bình với mọi lân bang. Chúng tôi muốn tôn thờ Thiên Chúa trong hòa bình. ISIS và các nhóm khác phải kết thúc sự tra tấn và giết chóc của họ, và phải bị đưa ra công lý. Chỉ có thể như vậy thì chúng tôi mới có thể hòa giải, tha thứ và một lần nữa sống trong sự hòa thuận.”

Cha Al-Bazi thừa nhận rằng sự công nhận của Mỹ là một bước tiến tích cực trong việc kết thúc sự kinh hoàng này cho những người Kitô hữu ở Syria và Iraq và những nơi khác; tuy nhiên, ngài chào mừng sự thừa nhận rộng lớn hơn về tên gọi diệt chủng.

“Cách tốt nhất để giúp những Kitô hữu không bị đối xử tệ và bị giết ở những quốc gia Hồi giáo chiếm đại đa số là bắt buộc thay đổi hiến pháp của những quốc gia Hồi giáo này, nơi Kitô hữu chiếm thiểu số,” ngài nói thêm. “Đó là hy vọng duy nhất của chúng tôi.”

ChaAl-Bazi nói với Register rằng người Kitô hữu bị đối xử như “những công dân bậc 3” ở những quốc gia đa phần Hồi giáo.

“Họ luôn nhìn đến chúng tôi như thể chúng tôi không phải là công dân Iraq thực sự. Điều này thậm chí có trước ISIS - dưới thời của Saddam [Hussein]. Họ đi vào nhà của chúng tôi, vào nhà thờ và trường học. Họ hỏi chúng tôi, “Các ngươi đang làm gì ở đây? Một ngày nào đó các ngươi phải bỏ đi. Các ngươi phải ra đi!’ Rồi họ bảo chúng tôi phải bỏ nhà cửa, tiền bạc lại - mọi thứ. Chúng tôi phải đưa mọi thứ cho họ. Họ phạt chúng tôi vì không tin và Islam, cho dù chúng tôi đã sống ở đây, ở quốc gia của chúng tôi, từ thời các thánh tông đồ. Đó là những gì họ có cảm giác đối với chúng tôi.”

“Tôi không chống lại Hồi giáo,” cha Father Al-Bazi nói. “Nhưng họ không đối xử công bằng với người Kitô ở những quốc gia đa phần Hồi giáo. Chúng tôi không ở cùng giai cấp với họ. Chúng tôi là người ngoại đạo đối với họ.”

“Sự tự do tôn giáo cho những người không theo Hồi giáo là không thể có ở những quốc gia đa phần Hồi giáo. Những vòng tròn bạo lực, tái đi tái lại - tình trạng này đã tồn tại 1.400 năm nay. Tất cả các nhóm tôn giáo thiểu số đều chịu đực luật sharia [luật Hồi giáo],” cha Al-Bazi giải thích.

“Sự thật là: Chúng tôi đang phải đau khổ.”

“Xin hãy lắng nghe những nạn nhân. Đừng bắt họ im. Đây là tình trạng diệt chủng,” ngài nhấn mạnh.

Về phần mình, cha Al-Bazi bàn luận biện pháp tốt nhất để giúp Kitô hữu là: Chúng ta phải đưa vụ việc này lên thành diệt chủng - để thuyết phục thế giới những gì đang thực sự xảy ra cho chúng tôi.”

Ngài cầu xin, “Xin đừng quên những nạn nhân.” 

Angelo Stagnaro viết từ New York.
Nguồn: ncregister
Chuyển ngữ: TRI KHOAN 17/05/2016