THĂM PHÁP VIỆN MINH ĐĂNG QUANG

Hình ảnh còn đọng lại trong tôi là một nữ cư sĩ ngồi định tâm tọa thiền thật thâm trầm ngay trong khu vực chúng tôi tham quan. Điều đó nói với tôi nhiều hơn các lời thuyết giảng, và nhắc nhở tôi về những giá trị của việc cầu nguyện trong đời sống tâm linh của chính mình. Dù không có thời gian đi thăm hết những khu vực khác nhau trong Pháp viện Minh Đăng Quang, nhưng chúng tôi thấy được sức sống của hệ phái Khất Sĩ Việt Nam nói riêng và của Phật Giáo Việt Nam nói chung...

BAN MỤC VỤ ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN TGP SÀI GÒN

THĂM PHÁP VIỆN MINH ĐĂNG QUANG

Vào buổi chiều ngày thứ Ba, 17.5.2016, Ban Mục Vụ Đối Thoại Liên Tôn TGP Sài Gòn đã đến thăm và mừng lễ Phật Đản Vesak 2016 tại Pháp viện Minh Đăng Quang (505 xa lộ Hà Nội, phường An Phú, quận 2, TP.HCM). Đi chung trên xe 16 chỗ xuất phát từ Trung Tâm Mục Vụ TGP Sài Gòn có cha Trưởng Ban, cha Bình OFM, Sr. Ngọc Lan FMM và các và Anh Chị em trong Ban. Ngoài ra có các thầy OFM đến từ Thủ Đức, các Soeurs và các Anh Chị Học viên trong khóa học “Kitô giáo và Phật giáo” do Lm. P.X Bảo Lộc và Đại Đức Thích Giác Hoàng hướng dẫn.

Khi đi dọc theo xa lộ Hà Nội, mới qua khỏi Mega-Maill và Metro thì từ xa chúng tôi đã không khó để nhìn thấy Pháp Viện Minh Đăng Quang, là cả một quần thể kiến trúc Phật giáo rất uy nghi, đặc trưng cho hệ phái Khất sĩ của miền Nam Bộ. Những tầng tháp cao ngút, ẩn hiện trong nắng chiều, với những đóa hoa sen đầy màu sắc được trang trí để chuẩn bị đón mừng Lễ Phật Đản Vesak... Các Đại Đức đã niềm nở tiếp đón, giới thiệu và hướng dẫn chúng tôi vào Nhà tiếp khách “Linh Sơn Pháp Lữ” để gặp vị Trụ trì là Hòa thượng Thích Giác Toàn.  

Cha P.X Bảo Lộc đại diện cho Ban MVĐTLT, vấn an Hòa thượng Thích Giác Toàn và trình bày các lý do của buổi gặp gỡ. Hòa Thượng đáp từ một cách rất gần gũi bình dị, và chia sẻ với chúng tôi về cuộc đời của ngài từ khi sinh ra tại Mỹ Tho. Cha của ngài mất sớm từ khi ngài còn là bào thai, và mẹ sinh ra ngài trong nhà thương Pháp năm 1949, ngài được các dì Phước thương mến và đặt tên cho là Lê Phước Tường. Hòa Thượng đọc cho mọi người nghe những câu thơ kể về những biến cố đầy duyên tình này, được ngài viết từ những năm 1971-1972:

Mẹ đi sanh ở nhà thương Chúa

Có ngoại có dì Út con đưa

Giây phút quặn đau còn mơ ước

Phải chi có bóng dáng người xưa…

Bà Phước nhà thương thương con lắm

Muốn con không khổ đặt tên TƯỜNG

Danh vang nhờ Chúa ban ơn tắm

Từ thuở nằm nôi được Phước thương…

Hòa thượng Thích Giác Toàn cũng kể lại những kinh nghiệm khi có dịp gặp gỡ Đức TGM Phaolô Nguyễn văn Bình, và cho thấy quan điểm rất cởi mở về các tôn giáo. Việc Đối thoại Liên tôn rất gian nan nhưng giới Công Giáo đã khởi xướng và phát triển ngày càng tốt đẹp. Theo Hòa Thượng thì sứ mạng của các tôn giáo là cần đem những cái tốt đẹp nhất của đạo để phụng sự cho nhân loại và giúp ích cho dân tộc. Khoảng thời gian sau 1975 có dịp đi học hỏi về chính sách của nhà nước mới có cơ hội gặp gỡ các cha, các sơ, các mục sư… Nhờ đó Ngài có thể quen biết tạo các tương quan và hiểu rõ chính sách tôn giáo nên năm 1976-1977 đã về mở các lớp giáo lý tại Tịnh xá Trung Tâm để hoằng pháp. Và từ đó ngài quyết tâm ở lại Việt Nam luôn cho tới nay dù lúc đó nhiều dịp để đi ra nước ngoài… Hòa thượng rất vui và cám ơn vì Ban MVĐTLT đã đến thăm chúc mừng dịp lễ Phật Đản, vui vì thấy đạo giáo phát triển khắp nơi dù việc chúng sinh đau khổ vẫn là chuyện muôn đời. Có lẽ chỉ kho con người hết tham sân si và thất tình lục dục thì mới bớt khổ, muốn vậy phải khéo tu, sống tốt sứ mạng tôn giáo của mình… 

Ban MVĐTLT đã gởi tặng món quà là các tập san Nhịp Cầu Tâm Giao mới, và bên Pháp Viện cũng tặng lại cho mỗi người tập sách “Gạn Đục Khơi Trong”, bao gồm những nghiên cứu, giải thích, tư vấn về Phật pháp theo nhiều chủ đề, và Tuyển tập Thơ của Trần Quê Hương (bút danh của Hòa thượng Thích Giác Toàn). Chị Ngọc Anh cũng đại diện ban diễn ngâm bài “Gần Nhau” để góp chút tâm tình. Sau đó cả phái đoàn được hướng dẫn đi thăm Pháp Viện…

 Ngôi Chánh điện của Pháp Viện nằm ở vị trí trung tâm, phía trước là những bậc thang bằng đá hai bên điêu khắc nhiều hoa văn đẹp. Khi leo lên mỗi người đều cảm nhận sự lớn lao uy nghi của công trình dù nhiều phần còn đang dang dở. Bước vào trong Chánh điện, một tượng Phật rất lớn còn đang được nhóm thợ thếp vàng. Chung quanh tường cả trong và ngoài đều có nhiều hình khắc khác nhau. Các Đại đức hướng dẫn đoàn giới thiệu và giải thích nhiều thắc mắc cho những ai đặt ra, nhất là các học viên trong khóa học về “Kitô giáo và Phật giáo” muốn làm sáng tỏ nhiều điều. 

Rời Chánh điện cả đoàn xuống thăm Thiền Đường nằm ở tầng dưới của Chánh điện. Phía trước Thiền Đường có hai câu thật ý nghĩa: Nói Năng Như Thiền Sư – Im Lặng Như Chánh Pháp… Nhiều vị trong đoàn trầm trồ vì hai câu đơn giản ngắn gọn này không chỉ đối nhau mà còn đối ý thật thâm thúy ngay trong mỗi câu nữa. Tại Thiền Đường, Đại Đức Thích Giác Hoàng kể cho cả đoàn nghe về sự tích của đức Tôn sư Minh Đăng Quang là vị Tổ sư lập ra Giáo hội Tăng già Khất Sĩ Việt Nam.

Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam xuất hiện tại Việt Nam giữa thế kỷ 20, từ những thập niên 1940 bắt nguồn từ hai Hệ Phái lớn của Phật giáo là Nam Tông và Bắc Tông. Tổ Sư Minh Đăng Quang - người khai sáng Đạo Phật Khất Sĩ - có thế danh là Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Hườn, sinh năm Quý Hợi (1923), tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long ngày nay. Tuy sinh trưởng ở một làng quê nhưng Ngài có trí thông minh khác thường và được hấp thụ nề nếp đạo đức nho phong nên thường tới lui các nhà trưởng thượng đương thời để tham vấn đạo lý, tìm tòi những điều còn huyền bí trong vũ trụ bao la, suy tư quán chiếu lại nội tâm. Lúc nhỏ Ngài đã tạo phía sau nhà một cái thất nhỏ để hàng ngày tiện bề tu tập, tham thiền. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, Ngài đã xin cha qua Campuchia tầm thầy học đạo và tu theo Phật giáo Nam Tông. Sau đó Ngài về lại Việt Nam và đã có cái nhìn thấu đáo về hai hệ phái Bắc truyền, Nam truyền cũng như các đạo giáo mới.
 
Khoảng cuối năm 1941, Ngài về lại Sài Gòn và trải qua nhiều biến cố trong gia đình. Đến năm 1944, sau những trải nghiệm về cuộc sống vô thường, Ngài quyết chí đi tu. Đầu tiên Ngài đến Hà Tiên định lần qua Phú Quốc, rồi sau đó sẽ đi nước ngoài học đạo. Nhưng khi vừa đến nơi thì đã trễ tàu, Ngài ra đầu gành bãi biển Mũi Nai (Hà Tiên) ngồi tham thiền 7 ngày đêm. Trước cảnh trời nước bao la biến đổi khôn lường, cộng với những nỗi đau riêng... vào một buổi chiều, Ngài ngộ được lý pháp "thuyền Bát Nhã ngược dòng đời cứu độ chúng sinh" và nhận Pháp danh Minh Đăng Quang. Sau khi đắc đạo, Ngài lên vùng Thất Sơn - An Giang để tiếp tục tu. Không lâu sau đó, chiến tranh lan rộng nên Ngài về vùng Mỹ Tho. Nơi đây, suốt ba năm (1944-1947), thường thì buổi sáng Ngài đi khất thực, đến trưa thì thọ trai, buổi chiều giáo hóa, buổi tối tham thiền nhập định, nêu gương về đời sống tốt đẹp theo truyền thống của Phật Tăng thời chính pháp. Đầu năm 1947, Ngài rời chùa để đi giáo hóa khắp Nam Bộ, và các vùng miền khác như Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa, Vũng Tàu, v.v... Trong suốt thời gian này Ngài thu thập rất nhiều đệ tử và hướng dẫn họ đi hành đạo rộng ra khắp các miền từ miền Tây lan dần đến miền Đông và ra tới tận miền Trung.
 
Sau 10 năm kể từ khi đắc đạo, vào đầu năm Giáp Ngọ (1954), Ngài tụ tập các đệ tử và di chúc cho họ những gì phải thực hiện, Ngài nói rằng sẽ vào tu trong núi lửa một thời gian. Ngày đầu tháng 2 năm 1954, trên đường đi đến Cần Thơ Ngài bị một bắt đi tại Cái Vồn (Bình Minh, Vĩnh Long) và thất tung cho đến nay (kẻ bắt Ngài có tên là Năm Lửa). Khi đó Sư Tổ chỉ mới được 31 tuổi, nhưng đã là người dày công khơi nguồn mở mang đạo pháp nhiều nơi. Hàng đệ tử lúc đó đã lên đến 100 Tăng Ni, toàn những vị giỏi giang đức hạnh, và 64 ngôi Tịnh Xá là vật chứng để đánh dấu sự hành đạo của vị Sư Tổ chỉ trong 10 năm cho đến ngày vắng bóng. Cái hay của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam là giữ được những giá trị nguyên thủy của Phật giáo nhưng có sự tháp nhập tất cả những tinh túy trong cả hai hệ phái Phật Giáo Nam Tông và Bắc Tông. Vì thế, hệ phái Khất Sĩ là hệ phái giữ nguyên nếp sống đạo hạnh, đơn giản, thanh bần của thời Đức Phật, không tham đắm cuộc sống, thật sự giải thoát, có thời khắc dành để giáo hóa độ sanh, và thời khắc dành riêng tu tập…

Những chia sẻ của Đại Đức Thích Giác Hoàng giúp mọi người trong đoàn hiểu rõ và mến phục quý chư tăng của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, đồng thời thấy được giá trị của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam trong đời sống của đất nước và dân tộc. Phía sau Thiền Đường là nơi Thành kính Đảnh lễ tưởng niệm Đại Lão Hòa thượng Pháp sư Thích Giác Nhiên, là vị Đại đệ tử của Tổ sư đã phát huy đạo đức miền Đông Nam Việt Nam, mở cơ quan Hội sở Trung ương tại Sài Gòn. Trước năm 1975 Ngài là Tổng Tri sự Trưởng Giáo hội Tăng già Khất Sĩ Việt Nam, sau đó là Pháp chủ Giáo hội Tăng già Khất Sĩ Thế giới tại Mỹ. Phía trong Thiền Đường còn có di ảnh của các vị Đại đệ tử khác của Tổ sư Minh Đăng Quang. 

 Tiếp đến chúng tôi xuống khán đài phía trước, nơi được trang hoàng rực rỡ chuẩn bị chào mừng Lễ Phật Đản, để chụp ảnh lưu niệm chung cùng với Hòa thượng Thích Giác Toàn và quý Đại Đức. Rời khán đài chúng tôi đến thăm tòa tháp lớn phía bên trái gần cổng, nơi cất giữ những lưu niệm quý giá. Ngoài tường có những hàng chữ thật lớn: “NỐI TRUYỀN THÍCH CA CHÁNH PHÁP - ĐẠO PHẬT KHẤT SĨ VIỆT NAM”. Bên trong là những hình ảnh đầy đủ về cuộc đời của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang từ thời thơ ấu cho đến khi Ngài vắng bóng. Chúng tôi thật ngạc nhiên vì từ thời xa xưa mà những tấm ảnh được lưu giữ kể lại những câu chuyện sống động, đặc biệt là hình ảnh thuyết pháp trong một rạp hát và đưa đoàn du tăng đi giáo hóa bằng xe hơi. Thật không thể tưởng tượng được rằng những chuyện đó xảy ra trong những thập niên 40-50 của thế kỷ trước… Lúc này các học viên trong khóa học về “Kitô giáo và Phật giáo” tranh thủ chụp hình với các vị giáo sư!

Khi chúng tôi rời Pháp viện để về lại nhà thì trời đổ mưa to. Hình ảnh còn đọng lại trong tôi là một chị nữ cư sĩ ngồi định tâm tọa thiền thật thâm trầm ngay trong khu vực chúng tôi tham quan. Điều đó nói với tôi nhiều hơn các lời thuyết giảng, và nhắc nhở tôi về những giá trị của việc cầu nguyện trong đời sống tâm linh của chính mình. Dù không có thời gian đi thăm hết những khu vực khác nhau trong Pháp viện Minh Đăng Quang, nhưng chúng tôi thấy được sức sống của hệ phái Khất Sĩ Việt Nam nói riêng và của Phật Giáo Việt Nam nói chung. Trong tinh thần Đối Thoại Liên Tôn, chúng tôi ước mong có dịp hiểu biết để trân trọng hơn giá trị của các tôn giáo bạn, là điều đang góp phần giúp cho đời sống của toàn nhân loại tốt đẹp hơn, đồng thời quý mến hơn những người anh chị em đang góp công sức nỗ lực xây dựng quê hương Việt Nam theo cách của mình.

Sr. Ngọc Lan, fmm.