Bản góp ý xây dựng dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ-CP

Giới Công giáo chúng tôi muốn xây dựng một hệ thống pháp luật ngày càng tiến bộ, thực sự vì dân, do dân, nhờ đó mà đất nước ngày càng phát triển cách bền vững. Chúng tôi hiểu rằng mọi vấn đề trong xã hội đều phải có quá trình phát triển khách quan của nó. Tinh thần thượng tôn Pháp luật cũng thế, muốn có sự phát triển cần phải can đảm thay đổi não trạng, cần phải có sự tôn trọng chân lý khách quan và thực sự thay đổi từ chính nền tảng căn bản của nền pháp trị chứ không chỉ ở các qui định hay nghị định dưới luật.

Bản góp ý xây dựng dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ-CP
TGP Saigòn

TÒA TỔNG GIÁM MỤC
180 Nguyễn Đình Chiểu . Q 3
Thành phố HCM
( (84.8) 3930 3828
Fax (84.8) 3930 0598
E.mail : tgmsaigon@vnn.vn

BẢN GÓP Ý XÂY DỰNG DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH THAY THẾ NGHỊ ĐỊNH SỐ 22/ 2005/ NĐ-CP

Kính Gửi: Ngài Thủ Tướng Chính Phủ
Qua Ban Tôn Giáo Chính Phủ

Chúng tôi nhận được Lời mời của Ban Tôn Giáo Chính phủ tới dự Hội thảo góp ý xây dựng Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 22/2005/NĐ-CP ngày 01/03/2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Về Tín ngưỡng, Tôn giáo, vào lúc 8 giờ, ngày 26/04/2011 tại Hội trường C8, Nhà khách T8, 145 Lý Chính Thắng, Phường 7, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi đến dự chúng tôi hoàn toàn bị động vì không có thời gian đủ để tìm hiểu bản dự thảo (lần 5). Theo ý kiến của mọi người dự cuộc hội thảo, chúng tôi về tìm hiểu, nghiên cứu bản Dự thảo để góp ý kiến xây dựng.

Ngày 13/05/2011 với sự hiện diện của đại diện các Giáo Phận Xuân Lộc, Phan Thiết, Đà Lạt, Phú Cường, Tp. HCM, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Cần Thơ thuộc Giáo tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh dưới sự chủ toạ của Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã có buổi hội thảo đóng góp ý kiến thẳng thắn và nhất quán.

Trải qua thực tế các sinh hoạt tôn giáo từ sau khi Pháp Lệnh Năm 2004 Về Tín ngưỡng, Tôn giáo và Nghị Định số 22/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp Lệnh ra đời, có những mặt tích cực nhưng cũng có nhiều bất cập thậm chí gây bất công cho các Tôn Giáo và các chức sắc trong các sinh hoạt tôn giáo thuần tuý và các nỗ lực trong việc tham gia xây dựng phát triển đời sống con người, xã hội và Đất nước. Vì thế, xin gửi đến quí vị bản ý kiến chung của Giáo tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh như sau:

1. “Phục vụ con người là mục đích tối cao” của mọi tổ chức và cơ chế xã hội (Xem Nghị quyết Đại hội Đảng lần VI). Khẳng định này đặt con người làm mục đích và trọng tâm của mọi hoạt động, đặc biệt là trong việc xây dựng và hoàn thiện một hệ thống Pháp Luật trên nền tảng Pháp trị mà Đảng và Nhà Nước đang nỗ lực phát triển. Luật phải thực sự “vị nhân sinh”, mang tính tôn trọng sự sống, nhân phẩm và nhân quyền, tôn trọng sự bình đẳng giữa mọi thành phần và giai cấp xã hội, tôn trọng sự tự do làm người hữu ích cho cộng đồng xã hội, hướng đến một trật tự xã hội nhân bản hơn.

2. Từ Hiến Pháp đến Pháp Lệnh Về Tín ngưỡng, Tôn giáo đều khẳng định : “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy”. Nhưng thực tế ngay trong các điều khoản của Pháp Lệnh năm 2004 và nghị định 22/2005/NĐ-CP đã có nhiều bất cập và bất bình đẳng đối với các Tôn giáo và các chức sắc. Đó là Nhà nước công nhận sự hiện diện, tồn tại của các tôn giáo nhưng không công nhận tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo và các chức sắc. Do đó, chức sắc tôn giáo không được hưởng nhận những quyền công dân như các công dân khác và quyền đại diện cho tổ chức tôn giáo trước mặt pháp luật. Đồng thời, tổ chức tôn giáo không được hưởng quyền pháp nhân như các tổ chức xã hội hợp pháp khác theo hiến pháp và pháp luật. Vì thế, pháp luật cần phải xác định rõ ràng tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo và các chức sắc. Các tổ chức tôn giáo và chức sắc bị hạn chế; thay vì được hưởng những quyền lợi chính đáng thì phải đi xin những quyền đó như tự do tổ chức lễ nghi tôn giáo, truyền đạo, đào tạo, phong chức …

3. Pháp lệnh qui định tài sản hợp pháp thuộc các cơ sở tôn giáo được pháp luật “bảo hộ”; nhưng trong thực tế không có văn bản pháp qui nào trình bày rõ ràng thế nào là bảo hộ và quyền lợi về phía tôn giáo được bảo hộ như thế nào. Từ đó dẫn tới tình trạng nhiều cơ sở và đất đai của các tôn giáo bị chiếm dụng bất công. Luật về đất đai tuy đã sửa đổi nhiều lần nhưng vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng kịp đà biến chuyển trong đời sống xã hội, đặc biệt là chưa quan tâm đến quyền tư hữu chính đáng của người dân. Vì vậy, cần phải quan tâm tới quyền tư hữu của người dân như Tuyên ngôn Quốc tế của Liên Hiệp Quốc về Nhân quyền đã khẳng định: “Mọi người đều có quyền tư hữu cho riêng mình hay chung với người khác… và không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình cách độc đoán” (số 17). ( Xem Quan Điểm Của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam Về Một Số Vấn Đề Trong Hoàn Cảnh Hiện Nay công bố ngày 25.09.2008). Các tổ chức tôn giáo có quyền làm chủ tài sản và đất đai, đồng thời họ cũng phải nhận trách nhiệm của mình đối với xã hội về những tài sản đó.

4. Các tôn giáo đều có lý tưởng phục vụ con người và xã hội ngày càng thăng tiến hơn. Do đó, các tổ chức tôn giáo đều có các hoạt động xã hội, đặc biệt trong lãnh vực y tế và giáo dục. Theo Pháp Lệnh và Nghị định, các Chức sắc, nhà tu hành với tư cách công dân được Nhà nước khuyến khích tổ chức hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo theo quy định của pháp luật nhưng lại chỉ hạn chế trong một số lãnh vực. Trong khi đó, với đường hướng phát triển xã hội hoá ngày nay, ngay cả công dân và tổ chức nước ngoài cũng được phép mở bệnh viện, mở trường học tới cấp đại học. Do đó, chúng tôi đề nghị các tổ chức tôn giáo phải được pháp luật nhìn nhận bình đẳng với các pháp nhân khác, trong lãnh vực y tế và giáo dục.

5. Nhìn chung Dự thảo Nghị Định thay thế Nghị Định 22/2005 (lần 5) là một sự thụt lùi nặng nề so với Nghị Định 22/2005, Pháp Lệnh Về tín ngưỡng, tôn giáo và Hiến Pháp. Thực chất, những dự định thay đổi của Nghị định muốn tái lập tình trạng Xin – Cho trong các sinh hoạt tôn giáo. Cơ chế Xin – Cho biến những quyền tự do của công dân thành những thứ quyền Nhà Nước nắm trong tay và ban bố lại cho người dân qua những thủ tục cấp phép. Như thế cơ chế Xin – Cho vừa xoá đi các quyền tự do của người dân, vừa biến một Nhà Nước của dân, do dân và vì dân thành một chủ nhân ông nắm trong tay các quyền tự do của người dân và thi ân cho họ theo cảm tính hoặc ngẫu hứng của mình.

Trên đây là môt số góp ý căn bản với lòng chân thành, Giới Công giáo chúng tôi muốn xây dựng một hệ thống pháp luật ngày càng tiến bộ, thực sự vì dân, do dân, nhờ đó mà đất nước ngày càng phát triển cách bền vững. Chúng tôi hiểu rằng mọi vấn đề trong xã hội đều phải có quá trình phát triển khách quan của nó. Tinh thần thượng tôn Pháp luật cũng thế, muốn có sự phát triển cần phải can đảm thay đổi não trạng, cần phải có sự tôn trọng chân lý khách quan và thực sự thay đổi từ chính nền tảng căn bản của nền pháp trị chứ không chỉ ở các qui định hay nghị định dưới luật.

Trân trọng kính chào.

Làm Tại Toà Tổng Giám Mục TP.HCM ngày 13 tháng 05, năm 2011

+ Gioan Baotixita PHẠM MINH MẪN
Hồng y Tổng giám mục

Thư ký Lm. Giuse M. LÊ QUỐC THĂNG
Trưởng Ban Công lý và Hoà Bình Tổng giáo phận Tp.HCM

(Nguồn: http://conglyvahoabinh.org/)

 

Xung quanh Nghị định mới của chính phủ Việt Nam về tôn giáo

Trịnh Viên Phương10/01/2013
LTS. Kính quý độc giả - Đang khi chờ đợi những phân tích và phản ứng chính thức từ các tôn giáo, từ giáo hội Công Giáo tại Việt Nam và các tổ chức cộng đồng tỵ nạn Việt Nam hải ngoại, trang nhà Danchua.eu xin cho đăng nguyên văn nghị định mới do nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vừa ban hành về chính sách với tôn giáo. Nghị định này có tên là nghị định số: NĐ 92/2012/NĐ-CP ngày 08.11.2012 có hiệu lực từ ngày 01.01.2013 (gọi tắt là NĐ 92). Cũng xin gửi đến quý độc giả phản ứng đầu tiên của Trịnh Viên Phương đăng trong danlambaovn.blogspot.com. Chỉ đau lòng ghi nhận rằng:

1) Đang khi đất nước đang chìm sâu vào hố diệt vong vì ách thống trị độc tài của cộng sản từ hơn 70 năm qua, đang khi gia sản tinh thần bị phá tan tành vì chủ thuyết tam vô, đang khi tình trạng kinh tế càng ngày càng phá sản và nợ chồng chất!…bên ngoài thì kẻ thù phương Bắc cành hung hăng thực hiện sách lược bành trướng triệt để dưới mọi phương cách từ chính trị, kinh tế, từ biển đảo đến quặng mỏ…thì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại hèn với giặc, tàn ác với dân…quyết xiết cổ mọi quyền tự do ngay cả tự do tôn giáo, quyết tiêu diệt lòng yêu nước! 

2) Nghị định tôn giáo mới cũng chỉ là con đẻ của một chế độ vô thần độc đoán, độc quyền…muốn xiết chặt tự do tôn giáo và mọi quyền tự do khác để dễ bề khống chế, kiểm soát hoạt động tôn giáo. Nhà cầm quyền csVN có dã tâm muốn tái lập lại chế độ "xin cho" để dễ bề thao túng và lấy cớ để làm tiền và hạch sách. Họ muốn quốc doanh hoá tất cả các hoạt động tôn giáo đễ dễ bề thao túng. 

3) Nhà cầm quyền csVN đang gặp muôn vàn khó khăn vì kinh tế vỡ nợ và phá sản, đấu đá nội bộ do tham nhũng bè phái…nên muốn đánh lạc dư luận và „lèo lái“ những căm phẫn của dân chúng, của công luận về hướng khác…

Mong rằng đây là cơ hội để quốc dân Việt Nam và các tôn giáo trong và ngoài nước cùng đồng lòng phản đối nghị quyết ác đọc này! 

Xin quý vị đọc lại : Bản phúc trình về tình hình Công Lý, Hòa Bình và Nhân Quyền trong Xã hội Việt Nam hiện nay của Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam để nắm vững tình hình „tan cửa nát nhà“ mà nhà cầm quyền csVN đang cố tình 

Trịnh Viên Phương (Danlambao) - Hiện nay các tôn giáo ở Việt Nam đang xôn xao bàn tán về nghị định mới do chính phủ vừa ban hành về chính sách với tôn giáo. Nghị định này có tên là nghị định số: NĐ 92/2012/NĐ-CP ngày 08.11.2012 có hiệu lực từ ngày 01.01.2013 (gọi tắt là NĐ 92). Nghị định này được ban hành nhằm thay thế cho nghị định số: NĐ 22/2005/NĐ-CP ban hành ngày 01.03.2005 (gọi tắt là NĐ 22).

So sánh với NĐ 22 thì NĐ 92 thì đa số đều quan ngại nhà nước đang xiết dần cách quản lý các tôn giáo. Báo hiệu thời kỳ khó khăn cho các tổ chức tôn giáo dù có hay không có tư cách pháp nhân hiện nay ở Việt Nam. Đây là một bước lùi trong việc thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng cần được báo động trên các diễn đàn trong và ngoài nước.

Tổng quát về Nghị định 92: 

NĐ 92 này gồm có 5 chương với 46 điều khoản. Quan trọng nhất là chương III về Tổ chức tôn giáo và chương IV nói về Hoạt động tôn giáo. Hai chương này có 36 điều khoản trong tất cả 14 mục có những quy mập mờ về thuật ngữ pháp lý và chồng chéo nhau về nội dung. Có những thuật ngữ mới lại được giải thích ngay trong phần nội dung lẽ ra những thuật ngữ pháp lý cần được giải thích ngay từ đầu trong chương I phần Những quy định chung. Rồi thì khi yêu cầu các tổ chức tôn giáo tra xem những văn bản pháp luật hay những quy định khác có liên quan thì không nói rõ đó là những quy định nào và văn bản nào rõ ràng để người thi hành dễ tìm thấy.

B. Một số điều khoản cho thấy không có sự tự do trong hoạt động tôn giáo tại Việt Nam

1. Trong khoản 1a điều 6 của nghị định này nêu: "Để được đăng ký hoạt động tôn giáo thì các tổ chức tôn giáo cần có hơn 20 năm đăng ký sinh hoạt tôn giáo và không bị phạt vi phạm hành chính". Đây được coi như là thách đố. Không có 1 tổ chức nào dù là chùa chiền hay nhà thờ đăng ký sinh hoạt với UBND xã hơn 20 năm trở lên mà không có vi phạm hành chính. Ban đầu người ta mới lập chùa, hay nhà nguyện thì xã đã đến phạt rồi. Rồi những khi cơ sở xuống cấp người ta chỉ xây cái tường chống trộm thì cũng bị dính văn bản phạt rồi. Sẽ không có tổ chức tôn giáo nào mới đăng ký sẽ lọt qua khoản này. Đây coi như là 1 bước lùi của NĐ 92 so với NĐ 22.

2. Nhà cầm quyền quá chen sâu vào các sinh hoạt tôn giáo: việc sinh hoạt, xây cất trùng tu, xử lý nội bộ các tôn giáo, các chương trình riêng tư của các tôn giáo... tất cả đều phải thông báo cho các cơ quan của chính quyền từ xã, huyện, tỉnh lên trung ương.

3. Việc đào tạo các chức sắc tôn giáo cũng phải bị ràng buộc học về Lịch sử Việt Nam và Pháp luật Việt Nam. Đây là 2 môn học bắt buộc do Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Công an đến trực tiếp các trường của tôn giáo để dạy 2 môn này theo các khoản 2 điều 14 và khoản 3 điều 42 của NĐ 92.

4. Việc xuất cảnh của các chức sắc tôn giáo cũng phải báo trước cho chính phủ biết và có lý do mới được đi ra nước ngoài. Cũng như việc nhập cảnh của các chức sắc tôn giáo nước ngoài đến Việt Nam giảng dạy thì hết sức nhiêu khê, phải qua Bộ Công an và Bộ Truyền thông - thông tin 

5. Công dân nước ngoài sinh sống tại Việt Nam khi sinh hoạt tôn giáo cũng phải "xin phép" mới được đến sinh hoạt tại các cơ sở tôn giáo hợp pháp tại Việt Nam theo khoản 2 điều 40 và toàn bộ điều 41 của NĐ 92.

6. Việc thuyên chuyển các chức sắc tôn giáo thì phải đăng ký xin phép nơi đi và nơi đến. Trong NĐ 22 chỉ cần thông báo cho nơi đi và làm thủ tục nhập hẩu cho nơi đến.

7. Việc đăng ký theo học các khóa học hay chương trình đào tạo của tôn giáo thì chịu quản lý từ cấp xã, huyện, tỉnh và đến cấp trung ương. Người nước ngoài muốn theo học tại các trường tôn giáo được thành lập hợp pháp tại Việt Nam thì phải chịu quản lý ngặt nghèo của bộ công an 

8. Việc tôn tạo, trùng tu các cơ sở tôn giáo hay công trình phụ trợ (hàng rào, nhà khách) đều phải xin phép.

C. Phản ứng của các chức sắc tôn giáo tại Việt Nam

Đa số đều cho rằng NĐ 92 là bước lùi về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo như hiến pháp đã nêu. Đây là bước siết chặt các hoạt động tôn giáo so với NĐ 22. Một số ít các hòa thượng, Linh mục và mục sư thì cho hay họ chưa đọc kỹ nên không có ý kiến họ sẽ tham khảo ý kiến các luật sư và hẹn sẽ trình bày trong dịp khác.