Chuyến Tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Hungary ngày 30.04.202

Chiều Chúa Nhật 30/4, sau khi chào các nhân viên của Toà Sứ thần, lúc 3:45pm Đức Thánh Cha đã di chuyển đến Khoa Khoa học Máy tính và Sinh học của Đại học Công giáo Péter Pázmány, để gặp gỡ giới học thuật và văn hoá. Đây là buổi gặp gỡ cuối cùng của ngài trong chuyến tông du 3 ngày đến Hungary.

Video Phóng sự ngày thứ III trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Hungary

ĐỨC THÁNH CHA GẶP GỠ GIỚI HỌC THUẬT VÀ VĂN HOÁ HUNGARY

Văn Yên, SJ - Vatican News

Khoa Khoa học Máy tính và Sinh học của Đại học Công giáo Péter Pázmány là khoa duy nhất ở Hungary và thậm chí ở Châu Âu kết hợp nghiên cứu về kỹ thuật điện tử và máy tính với sinh học phân tử, thần kinh và y học. Chương trình đào tạo tập trung vào các ngành khoa học liên quan đến cơ thể con người, đặc biệt là hệ thống thần kinh và miễn dịch, cũng như di truyền học.

Buổi gặp gỡ bắt đầu lúc 4:30pm với lời chào của Hiệu trưởng, sau đó là chứng từ của một giáo sư và của một sinh viên.

Sau các chứng từ, Đức Thánh Cha có một diễn văn đáp lời.

Ý nghĩa của văn hoá

Trước hết Đức Thánh Cha lấy hình ảnh của dòng sông Danube nối đất nước Hungary với nhiều nước khác, “hợp nhất không chỉ về địa lý mà còn về lịch sử”, để nói về những mối liên hệ con người tạo nên văn hoá. “Bản thân từ văn hóa (cultura) bắt nguồn từ động từ vun trồng (coltivare): tri thức liên quan đến việc gieo hạt hàng ngày, vốn dìm mình trong những luống cày của thực tế, mang lại hoa trái.”

Hai kiểu biết

Đức Thánh Cha trích dẫn lời học giả Romano Guardini để nói về sự hiểu biết: “Trong những ngày này, hơn bao giờ hết, tôi hiểu rằng có hai dạng biết [...], một dạng dẫn đến chìm mình trong đối tượng và trong bối cảnh của nó, theo đó người muốn biết phải cố gắng sống trong nó; ngược lại, dạng biết kia thì thu gom mọi thứ, phân tích chúng, đặt chúng ngăn nắp vào hộp, giành quyền làm chủ và sở hữu chúng, thống trị chúng” (Lettere dal Lago di Como. La tecnica e l'uomo, Brescia 2022, 55). Ông phân biệt giữa cái biết khiêm tốn và tương giao, giống như “sự trị vì có được nhờ phục vụ; một sự sáng tạo theo tự nhiên, không vượt ra ngoài những giới hạn đã được thiết lập” (xem tr. 57), và một cái biết khác, “không quan sát mà phân tích [...] không dìm mình trong đối tượng mà nắm giữ nó” (tr. 56).

Đức Thánh Cha nói về cái biết thứ hai liên quan đến máy móc, “sự phát triển một kỹ thuật chế ngự sự sống” (trang 59-60). “Guardini không coi thường công nghệ, thứ giúp chúng ta sống tốt hơn, để giao tiếp và có nhiều lợi ích, nhưng cảnh báo về nguy cơ nó trở thành kẻ chi phối, nếu không muốn nói là thống trị, cuộc sống. Theo nghĩa này, ông nhìn thấy một mối nguy hiểm lớn: “Con người mất đi tất cả những kết nối bên trong mà lẽ ra họ có được từ ý thức về sự cân đối  và về sự hài hòa với tự nhiên” và, “trong khi nơi con người bên trong, họ ngày càng không có ranh giới, không thước đo, không định hướng, họ lại tùy tiện thiết lập các mục tiêu của riêng mình và bắt các sức mạnh tự nhiên, do họ thống trị, phải hiện thực chúng” (tr. 60). Và Guardini đã đặt ra cho hậu thế một câu hỏi đáng lo ngại: “Cuộc sống sẽ ra sao nếu nó kết thúc dưới cái ách này? [...] Điều gì sẽ xảy ra [...] khi chúng ta thấy mình phải đối mặt với sự phổ biến các mệnh lệnh của công nghệ? Cuối cùng, cuộc sống bị đóng khung trong một hệ thống máy móc. [...] Trong một hệ thống như vậy, liệu cuộc sống có còn là sống nữa không?” (tr. 61).

Sự lệ thuộc công nghệ

Cuộc sống có còn là sống nữa không? Đó là một câu hỏi mà, đặc biệt ở nơi này, nơi công nghệ thông tin và khoa học sinh học được nghiên cứu chuyên sâu, cần được đặt ra. Thật vậy, những gì Guardini đã thoáng thấy thì bây giờ xuất hiện rõ ràng trong thời đại của chúng ta: hãy nghĩ về cuộc khủng hoảng sinh thái, với thiên nhiên đang phản ứng lại sự bóc lột bởi chúng ta. Chúng ta nghĩ về sự thiếu đi các giới hạn, về lý luận cho rằng “nếu điều đó có thể làm được thì nó được phép”. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến mong muốn đặt trung tâm của mọi sự không phải nơi con người và các mối tương quan con người, nhưng mỗi người đặt trung tâm vào nhu cầu của chính mình, ham thu vén và nắm giữ thực tại. Và hệ quả là sự xói mòn của những ràng buộc cộng đồng, nơi đó sự cô đơn và sợ hãi, do bởi điều kiện hiện sinh, dường như trở thành những điều kiện xã hội. Bao nhiêu người bị cô lập, rất nhiều “mạng xã hội” và rất ít tính xã hội, như đang ở trong một vòng luẩn quẩn, tìm đến sự an ủi của công nghệ để lấp đầy khoảng trống mà họ cảm thấy, bằng cách chạy theo một cách thậm chí còn cuồng nhiệt hơn, trong khi bị chế ngự bởi chủ nghĩa tư bản man rợ, càng cảm thấy đau đớn hơn về sự yếu đuối của mình, trong một xã hội mà tốc độ bên ngoài song hành với sự mỏng giòn bên trong. Khi nói điều này, tôi không muốn tạo ra chủ nghĩa bi quan – là điều trái ngược với niềm tin mà tôi vui mừng tuyên xưng – nhưng để suy ngẫm về “sự kiêu ngạo này của hiện hữu và sở hữu”, điều mà từ buổi bình minh của văn hóa châu Âu, Homer đã coi là mối đe dọa và mô hình kỹ trị làm cho thêm trầm trọng, qua việc sử dụng một số thuật toán có thể gây ra nguy cơ mất ổn định hơn nữa cho con người.

Đô hộ ý thức hệ

Tiếp đến Đức Thánh Cha trích dẫn từ cuốn tiểu thuyết Ông chủ của thế giới của Robert Benson, với nhận xét “rằng sự phức tạp của máy móc không đồng nghĩa với sự vĩ đại thực sự và rằng trong vẻ bề ngoài xa hoa nhất ẩn chứa mối nguy hiểm tinh vi nhất” (Verona 2014, 24 -25). Cuốn sách này, theo một nghĩa nào đó, mang tính “tiên tri”, được viết cách đây hơn một thế kỷ, mô tả một tương lai bị công nghệ thống trị và trong đó mọi thứ, nhân danh sự tiến bộ, đều bị đồng nhất hóa: khắp nơi người ta rao giảng một “chủ nghĩa nhân đạo” nhằm xóa bỏ sự khác biệt, huỷ bỏ đời sống của các dân tộc và xoá bỏ các tôn giáo. Các hệ tư tưởng đối lập hội tụ vào một sự đồng nhất hóa, kiểu đô hộ ý thức hệ; con người với việc tiếp xúc với máy móc ngày càng trở nên phẳng, trong khi cuộc sống chung trở nên buồn tẻ và yếu ớt. Trong thế giới tiến bộ nhưng u ám được Benson mô tả, nơi tất cả mọi người dường như mất cảm giác và bị gây mê, thì việc loại bỏ người bệnh và áp dụng trợ tử, cũng như xóa bỏ ngôn ngữ và văn hóa các dân tộc để đạt đến một hòa bình phổ quát, dường như là điều hiển nhiên, điều này trên thực tế biến thành một cuộc bách hại dựa trên việc áp đặt sự đồng thuận, đến mức một nhân vật chính trong tiểu thuyết của ông khẳng định rằng “thế giới dường như chịu sự chi phối của một sức sống kỳ quặc, vốn làm hư hỏng và pha tạp mọi thứ” (tr. 145).

Vai trò của văn hoá và đại học

Đức Thánh Cha ghi nhận: Tôi đã trình bày suy tư với tông màu ảm đạm, nhưng chính trong bối cảnh này, vai trò của văn hóa và đại học được thể hiện rõ nhất. Thật vậy, trường đại học, như chính tên gọi, là nơi tư tưởng phát sinh, lớn lên và trưởng thành một cách cởi mở và cộng hưởng. Đó là “ngôi đền” nơi tri thức được mời gọi giải phóng mình khỏi những giới hạn hẹp hòi của tích góp và sở hữu để trở thành văn hóa, nghĩa là “vun trồng” con người và những mối quan hệ nền tảng của con người: với sự siêu việt, với xã hội, với lịch sử, với thụ tạo. Về vấn đề này, Công đồng Vatican II khẳng định: “Văn hóa phải nhắm đến sự hoàn thiện toàn diện của con người, vì lợi ích của cộng đồng và của toàn xã hội loài người. Do đó, cần phải vun đắp tâm hồn để phát triển khả năng ngưỡng mộ, suy ngắm và chiêm niệm, để có được khả năng phán đoán cá nhân và để vun trồng ý thức tôn giáo, luân lý và xã hội” (Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 59) . Từ quan điểm này, tôi đánh giá rất cao những lời của ngài, thưa Đức ông Hiệu trưởng, khi ngài nói rằng “trong mỗi nhà khoa học chân chính đều có một chút gì đó của nhà ký lục, tư tế, tiên tri và thần bí”; và thêm nữa rằng “với sự trợ giúp của khoa học, chúng ta không chỉ muốn hiểu, mà còn muốn làm điều đúng đắn, đó là xây dựng một nền văn minh nhân đạo và liên đới, một nền văn hóa và môi trường bền vững. Chính với tấm lòng khiêm tốn mà chúng ta không những có thể lên núi của Chúa mà còn leo lên đỉnh cao của khoa học”.

Sự vĩ đại thực sự luôn khiêm tốn

Sự thật là, như chúng ta biết, những tri thức vĩ đại đều khiêm tốn. Mặt khác, mầu nhiệm của sự sống được mạc khải cho những người biết cách đi vào những điều nho nhỏ. Về điều này, Dorottya đã nói với chúng ta những lời tuyệt vời: “Càng khám phá ra nhiều chi tiết nhỏ, chúng ta càng đắm chìm vào sự phức tạp trong công trình của Thiên Chúa”. Hiểu theo cách này, văn hóa thực sự bảo tồn và bảo vệ nhân loại của chúng ta. Nó khiến chúng ta đắm chìm trong chiêm niệm và khuôn đúc nên những con người không lệ thuộc vào thời trang nhất thời nhưng bén rễ từ thực tế của sự vật. Và những người môn đệ khiêm tốn của tri thức cảm thấy họ phải cởi mở và thông giao, không bao giờ cứng nhắc và hiếu chiến. Những người yêu văn hóa, thực ra, không bao giờ cảm thấy đã đến nơi và tự mãn, mà mang trong mình một sự khắc khoải lành mạnh. Họ nghiên cứu, đặt câu hỏi, mạo hiểm và khám phá; họ biết cách thoát ra khỏi sự chắc chắn của chính mình để khiêm tốn dấn thân vào mầu nhiệm sự sống, vốn tỏ lộ trong sự thao thức chứ không phải thói quen; họ mở ra với các nền văn hóa khác và cảm thấy cần phải chia sẻ kiến ​​thức. Đây là tinh thần của trường đại học, và tôi cảm ơn quý vị đã sống theo cách này, như Giáo sư Major đã nói với chúng ta, khi kể về vẻ đẹp của việc hợp tác với các thực thể giáo dục khác, thông qua các chương trình nghiên cứu chung và cũng bằng cách chào đón sinh viên từ các khu vực khác của thế giới, chẳng hạn như Trung Đông, đặc biệt là từ đất nước Syria tử đạo. Chính bằng cách cởi mở với người khác mà chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân mình.

"Hãy biết mình"

Văn hóa đồng hành với chúng ta trong hành trình biết mình. Tư tưởng cổ điển, vốn không bao giờ suy tàn, nhắc nhở chúng ta điều đó. Câu châm ngôn nổi tiếng từ đền thờ Delphi xuất hiện trong tâm trí tôi: “Hãy biết mình”. Đó là một trong hai suy nghĩ mà tôi muốn để lại cho quý vị khi chúng ta kết thúc. Nhưng biết mình có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là biết cách nhận ra những giới hạn của mình và do đó, hạn chế tính tự quy chiếu của mình. Điều này tốt cho chúng ta, bởi vì trên hết, bằng cách nhận ra mình là thụ tạo mà chúng ta trở nên sáng tạo, hòa mình vào thế giới hơn là thống trị nó. Và trong khi tư tưởng kỹ trị theo đuổi một tiến bộ không thừa nhận giới hạn, thì con người thật lại được dựng nên từ sự mong manh, và chính ở đó, con người nhận ra sự phụ thuộc của mình vào Thiên Chúa và mối liên hệ với người khác và với toàn thể tạo thành. Do đó, dòng chữ tại đền thờ Delphi mời gọi chúng ta đến với một loại kiến ​​thức, bắt đầu từ sự khiêm tốn của giới hạn, khám phá ra tiềm năng kỳ diệu của chính nó, vượt xa tiềm năng của công nghệ. Nói cách khác, biết mình nối kết chúng ta lại với nhau, theo một biện chứng đạo đức, sự mong manh và vĩ đại của chúng ta với tư cách là con người. Sự ngạc nhiên trước nghịch lý này làm nảy sinh văn hóa: không bao giờ hài lòng, không ngừng tìm kiếm, thao thức và cộng đồng, kỷ luật trong sự hữu hạn của mình nhưng mở ra với vô hạn. Tôi cầu chúc quý vị luôn trau dồi hành trình thú vị hướng tới chân lý này!

Suy nghĩ thứ hai liên hệ đến sự thật. Nó đến từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã nói: “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8:32). Hungary đã chứng kiến ​​sự nối tiếp của các hệ tư tưởng tự áp đặt chúng như những chân lý, nhưng không mang lại tự do. Và thậm chí ngày nay rủi ro vẫn chưa hết: Tôi đang nghĩ đến sự chuyển đổi từ chủ nghĩa cộng sản sang chủ nghĩa tiêu thụ. Điểm chung của cả hai “chủ nghĩa” là một ý tưởng sai lầm về tự do; của chủ nghĩa cộng sản là một thứ “tự do” bị siết chặt, bị giới hạn bởi bên ngoài, do người khác quyết định; chủ nghĩa tiêu thụ là một “sự tự do” phóng khoáng, theo chủ nghĩa khoái lạc, bị san phẳng, khiến chúng ta trở thành nô lệ cho tiêu dùng và các đối tượng vật chất. Thật dễ chuyển từ những giới hạn áp đặt tư duy, như trong chủ nghĩa cộng sản, sang tư duy không giới hạn, như trong chủ nghĩa tiêu thụ! Từ một sự tự do bị kiềm hãm sang một sự tự do không phanh. Ngược lại, Chúa Giê-su đưa ra một con đường khi nói rằng sự thật là điều giải thoát con người khỏi những lệ thuộc và khép kín. Chìa khóa để tiếp cận sự thật này là một kiến ​​thức không bao giờ tách rời khỏi tình yêu, một kiến thức có tương quan, khiêm tốn và cởi mở, cụ thể và mang tính cộng đồng, can đảm và xây dựng. Đây là những gì các trường đại học được kêu gọi để trau dồi và đức tin để nuôi dưỡng. Do đó, tôi mong muốn trường đại học này và mọi trường đại học trở thành một trung tâm của tính phổ quát và tự do, một công trường hiệu quả xây dựng chủ nghĩa nhân văn, một phòng thực nghiệm của hy vọng. Với cả tấm lòng, tôi chúc lành cho anh chị em và cảm ơn anh chị em vì tất cả những gì đang làm: Köszönöm szépen! [Cảm ơn rất nhiều!]

Kết thúc chuyến viếng thăm

Kết thúc buổi gặp gỡ giới học thuật và văn hoá tại Khoa Khoa học Máy tính và Sinh học của Đại học Công giáo Péter Pázmány, Đức Thánh Cha di chuyển ra sân bay quốc tế Ferenc Liszt của Budapest cách đó 20km. Tại đây đã diễn ra nghi thức chào biệt. Phó Thủ Tướng đã tiễn Đức Thánh Cha đến chân máy bay, ngài chào đoàn tuỳ tùng và phái đoàn Hungary trước khi lên máy bay để trở về Roma. Kết thúc chuyến tông du 3 ngày đến Hungary.

Nguồn: vaticannews.va/vi

ĐỨC THÁNH CHA DÂNG LỄ CHÚA CHIÊN LÀNH TẠI HUNGARY

Văn Yên, SJ - Vatican News

Vatican News (30.4.2023) – Lúc 8:40 sáng Chúa Nhật 30/4, ngày thứ ba và cũng là ngày cuối cùng trong chuyến thông du của Đức Thánh Cha đến Hungary, Đức Thánh Cha đã rời Toà Sứ Thần để đến Quảng trường Kossuth Lajos cách đó khoảng 6km để dâng Thánh Lễ với các tín hữu. Đức Thánh Cha cử hành Thánh lễ Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh, Lễ Chúa Chiên Lành. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha khải triển hai ý trong Tin Mừng: trước hết người mục tử gọi tên từng con chiên và kế đến là dẫn chúng ra. Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha.

Những lời cuối cùng Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe tóm tắt ý nghĩa sứ vụ của Người: “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Đây là điều người mục tử nhân lành làm: hy sinh tính mạng vì đoàn chiên của mình. Như thế, Chúa Giêsu, như một mục tử đi tìm đoàn chiên của mình, đã đến tìm chúng ta khi chúng ta lạc lối; với tư cách là mục tử, Người đến để cứu chúng ta khỏi cái chết; như một mục tử biết từng con chiên của mình và yêu thương chúng với sự dịu dàng vô hạn, Người đã đưa chúng ta vào ràn chiên của Chúa Cha, làm cho chúng ta trở nên con cái của Người.

Vì thế, chúng ta hãy chiêm ngắm hình ảnh của Vị Mục Tử Nhân Lành, và chúng ta hãy suy nghĩ về hai hành động mà theo Tin Mừng, Người thực hiện cho đoàn chiên của mình: trước hết Người gọi tên từng con, sau đó dẫn chúng ra.

Chúa gọi từng người bằng tên

Trước hết, “gọi tên từng con chiên của mình” (c. 3). Khi bắt đầu lịch sử cứu độ, chúng ta chẳng có công trạng gì, khả năng, hay cơ cấu của mình; nguyên thuỷ bắt nguồn là từ tiếng gọi của Thiên Chúa, ước muốn của Người đến với chúng ta, sự quan tâm của Người đối với mỗi người chúng ta, lòng thương xót dồi dào của Người muốn cứu chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết, để ban cho chúng ta sự sống dồi dào và niềm vui bất tận. Chúa Giêsu đến với tư cách là Mục Tử Nhân Lành để gọi chúng ta và đưa chúng ta về nhà. Khi đó, chúng ta, nhớ lại với lòng biết ơn, có thể nhớ lại tình yêu của Người dành cho chúng ta, vì chúng ta những kẻ đã xa Người, vâng, trong khi “tất cả chúng ta, với tư cách là đoàn chiên, bị lạc mất nhau” và “mỗi người mỗi ngả” (Is 53:6), Người gánh lấy sự gian ác và tội lỗi của chúng ta, đem chúng ta về với trái tim Chúa Cha. Như vậy, chúng ta đã nghe Tông đồ Phêrô trong bài đọc thứ hai: “Trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.” (1Pr 2:25). Và cho đến hôm nay, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, trong những gì chúng ta mang trong lòng, trong sự hoang mang, trong nỗi sợ hãi, trong cảm giác thất bại đôi khi tấn công chúng ta, trong ngục tù buồn bã đe dọa giam cầm chúng ta, Người gọi chúng ta . Người đến như một Mục Tử nhân lành và gọi đích danh chúng ta, để cho chúng ta biết chúng ta quý giá biết bao trước mắt Người, để chữa lành những vết thương của chúng ta và mang lấy những yếu đuối của chúng ta, để quy tụ chúng ta hiệp nhất trong ràn chiên của Người và làm cho chúng ta trở nên thân thuộc với Chúa Cha và với nhau.

Anh chị em thân mến, khi chúng ta có mặt tại đây sáng nay, chúng ta cảm thấy niềm vui được làm dân thánh của Thiên Chúa: tất cả chúng ta đều được sinh ra từ lời kêu gọi của Người; chính Người đã hiệu triệu chúng ta và vì lý do này, chúng ta là dân của Người, là đoàn chiên của Người, Giáo hội của Người. Người đã tập hợp chúng ta lại đây để mặc dù chúng ta khác nhau và thuộc về các cộng đoàn khác nhau, nhưng tình yêu vĩ đại của Người đã mang tất cả chúng ta lại với nhau trong một vòng tay duy nhất. Thật là tốt đẹp khi chúng ta gặp gỡ nhau: các Giám mục và linh mục, tu sĩ và giáo dân; và thật đẹp khi được chia sẻ niềm vui này cùng với các phái đoàn đại kết, những vị đứng đầu cộng đồng Do Thái, đại diện các tổ chức dân sự và ngoại giao đoàn. Đây là tính công giáo: tất cả chúng ta, được Vị Mục Tử Nhân Lành gọi đích danh, được mời gọi chào đón và truyền bá tình yêu của Người, để làm cho đoàn chiên của Người bao trọn tất cả chứ không bao giờ loại trừ. Và, do đó, tất cả chúng ta được mời gọi vun trồng các mối quan hệ huynh đệ và cộng tác, không chia rẽ, không coi cộng đồng của mình như một môi trường dành riêng, không bị cuốn vào mối bận tâm bảo vệ không gian riêng của mỗi người, nhưng mở lòng ra để yêu thương nhau.

Đi ra thế giới

Sau khi đã gọi chiên, Mục Tử “dẫn chúng ra” (Ga 10:3). Đầu tiên, Người mời họ vào đàn bằng cách gọi họ, bây giờ Người thúc họ ra. Trước hết chúng ta được quy tụ vào gia đình Thiên Chúa để trở thành dân của Người, nhưng sau đó chúng ta được sai đi vào thế giới để, với lòng can đảm và không sợ hãi, chúng ta trở thành những người loan báo Tin Mừng, những chứng nhân của Tình Yêu đã tái sinh chúng ta. Chúng ta có thể nắm bắt chuyển động kép này – bước vào và đi ra - từ một hình ảnh khác mà Chúa Giêsu sử dụng: hình ảnh cánh cửa. Người nói: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ đi ra và gặp được đồng cỏ.” (c. 9). Chúng ta hãy lắng nghe kỹ điều này: sẽ vào và sẽ ra. Một đàng, Chúa Giêsu là cánh cửa đã mở rộng cho chúng ta được hiệp thông với Chúa Cha và cảm nghiệm được lòng thương xót của Người; nhưng, như mọi người đều biết, một cánh cửa không chỉ được sử dụng để vào mà còn để rời khỏi nơi người ấy đang ở. Và rồi, sau khi đã đưa chúng ta trở lại trong vòng tay của Thiên Chúa và trong đàn chiên của Giáo hội, Chúa Giêsu là cánh cửa để đưa chúng ta ra thế giới: Người thúc đẩy chúng ta ra đi để gặp gỡ anh chị em của mình. Và chúng ta hãy nhớ kỹ điều đó: tất cả mọi người, không trừ một ai, đều được mời gọi về điều này, bước ra khỏi sự thoải mái của chúng ta và có can đảm để đi đến mọi vùng ngoại vi cần đến ánh sáng của Tin Mừng (x. Tông huấn Evangelii gaudium, 20).

Anh chị em thân mến, “đi ra” có nghĩa là mỗi người chúng ta trở thành, giống như Chúa Giêsu, một cánh cửa rộng mở. Thật buồn và xấu khi nhìn thấy những cánh cửa đóng lại: cánh cửa khép kín của sự ích kỷ của chúng ta đối với những người đi bên cạnh chúng ta hàng ngày; những cánh cửa đóng kín của chủ nghĩa cá nhân của chúng ta trong một xã hội có nguy cơ teo tóp lại trong cô độc; những cánh cửa đóng kín của sự thờ ơ của chúng ta đối với những người đau khổ và nghèo đói; những cánh cửa đóng lại đối với những người xa lạ, khác biệt, di cư, nghèo khổ. Và ngay cả những cánh cửa đóng kín của các cộng đoàn giáo hội của chúng ta: đóng cửa giữa chúng ta, đóng cửa đối với thế giới, đóng cửa đối với những người “không theo khuôn phép”, đóng cửa đối với những người mong mỏi sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng hãy cố gắng nên giống Chúa Giêsu – bằng lời nói, cử chỉ, hoạt động hàng ngày – trở nên một cánh cửa luôn mở rộng, một cánh cửa không bao giờ bị đóng sầm trước mắt bất kỳ ai, một cánh cửa cho phép mọi người bước vào và cảm nghiệm vẻ đẹp của tình yêu và sự tha thứ từ Chúa.

Tôi lặp lại điều này trước hết với chính mình, với các anh em Giám mục và linh mục của tôi: với các mục tử chúng tôi. Bởi vì Chúa Giêsu nói, mục tử không phải là kẻ trộm kẻ cướp (x. Ga 10:8); nghĩa là mục tử không lợi dụng vai trò của mình, không áp bức đoàn chiên được trao phó cho mình, không “ăn cắp” không gian của anh chị em giáo dân, không thi hành quyền bính một cách cứng nhắc. Chúng ta hãy tự khuyến khích mình trở nên những cánh cửa ngày càng rộng mở hơn: “những trợ tá” của ân sủng của Thiên Chúa, những chuyên gia về sự gần gũi, sẵn sàng hiến dâng mạng sống, giống như Chúa Giêsu Kitô, là Chúa và là tất cả của chúng ta, đang dạy chúng ta với vòng tay dang rộng từ ngai toà thánh giá và tỏ cho chúng ta thấy mỗi lần trên bàn thờ, Tấm Bánh bẻ ra cho chúng ta. Tôi cũng nói điều này với các anh chị em giáo dân, với các giáo lý viên, với những người làm mục vụ, với những người có trách nhiệm chính trị và xã hội, với những người chỉ đơn thuần tiếp tục cuộc sống hàng ngày của họ, đôi khi gặp khó khăn: hãy mở rộng cửa. Chúng ta hãy để cho Chúa của sự sống đi vào tâm hồn chúng ta, để Lời của Người an ủi và chữa lành, rồi đi ra, và chính chúng ta trở thành những cánh cửa mở trong xã hội. Hãy mở ra và hòa nhập với nhau, để giúp Hungary phát triển trong tình huynh đệ, con đường dẫn đến hòa bình.

Ngỏ lời với tín hữu Hungary

Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành gọi đích danh chúng ta và chăm sóc chúng ta với sự dịu dàng vô biên. Người là cửa và ai đi qua Người thì được sự sống đời đời: vì thế Người là tương lai của chúng ta, một tương lai của “sự sống sung mãn” (Ga 10,10). Vì thế, chúng ta đừng bao giờ nản lòng, đừng bao giờ để mình bị cướp mất niềm vui và sự bình an mà Người đã ban cho chúng ta, đừng rút lui vào những vấn đề hay sự thờ ơ. Chúng ta hãy để mình được đồng hành với Vị Mục Tử của chúng ta: cùng với Người, xin cho cuộc sống của chúng ta, gia đình của chúng ta, các cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta và toàn thể đất nước Hungary bừng sáng một sức sống mới!

Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng

Vào cuối Thánh Lễ, trước khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha đã gởi đến những người hiện diện lời cảm ơn.

Tôi cảm ơn Đức Hồng Y Erdő vì những lời của ngài. Tôi xin chào bà Tổng Thống, ngài Thủ tướng và các nhà chức trách hiện diện. Giờ đây sắp trở về Roma, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với quý vị, các anh em Giám mục, các linh mục, các tu sĩ nam nữ và tất cả người dân Hungary thân yêu vì sự đón tiếp và tình cảm mà tôi đã cảm nhận được trong những ngày này. Và tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với những người đã từ xa đến đây và những người đã làm việc rất chăm chỉ và tốt đẹp cho chuyến thăm này. Tôi nói với mọi người: köszönöm, Isten fizesse! [Xin cảm ơn, xin Chúa trả công cho quý vị!] Một ghi nhớ đặc biệt tôi dành cho người bệnh và người già, cho những người không thể đến đây, cho những người cảm thấy cô đơn và cho những người đã mất niềm tin vào Chúa và mất hy vọng vào cuộc sống. Tôi gần gũi với anh chị em, tôi cầu nguyện và chúc lành cho anh chị em.

Tôi chào các nhà ngoại giao và anh chị em thuộc các hệ phái Kitô giáo khác. Xin cảm ơn sự hiện diện của quý vị và cảm ơn vì trên đất nước này, các tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau gặp gỡ và hỗ trợ lẫn nhau. Đức Hồng y Erdő nói rằng mọi người sống tại “biên giới phía đông của Kitô giáo tây từ cả nghìn năm”. Thật tuyệt khi các ranh giới không tạo nên ngăn cách mà là các khu vực tiếp xúc; và rằng các tín hữu trong Chúa Kitô đặt tình bác ái hiệp nhất lên hàng đầu chứ không phải là những khác biệt về lịch sử, văn hóa và tôn giáo, gây ra chia rẽ. Tin Mừng liên kết chúng ta và chính bằng cách trở lại đó, về nguồn, mà cuộc hành trình giữa các Kitô hữu sẽ tiếp tục theo ý muốn của Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng muốn chúng ta hiệp nhất trong cùng một đoàn chiên.

Bây giờ chúng ta hướng về Đức Mẹ. Hướng lên Mẹ, Magna Domina Hungarorum, là Nữ vương và Đấng bảo trợ mà anh chị em kêu cầu, tôi tín thác tất cả người dân Hungary. Và từ thành phố vĩ đại này và đất nước cao quý này, tôi muốn đặt vào trái tim của anh chị em niềm tin và tương lai của toàn lục địa Châu Âu, điều mà tôi đã nghĩ đến trong những ngày này, và đặc biệt là công cuộc hòa bình. Lạy Đức Trinh Nữ Maria, xin hãy nhìn đến những dân tộc đau khổ nhất. Trên hết, xin nhìn đến dân tộc lân cận Ucraina tử đạo và dân tộc Nga đã được thánh hiến cho Mẹ. Mẹ là Nữ Vương hòa bình, xin khơi dậy trong lòng con người và các nhà lãnh đạo các quốc gia ước muốn xây dựng hòa bình, mang đến cho các thế hệ trẻ một tương lai hy vọng chứ không phải chiến tranh; một tương lai đầy những chiếc nôi chứ không phải những nấm mồ; một thế giới của tình anh em, chứ không phải của những bức tường.

Chúng con hướng về Mẹ, Lạy Mẹ Thiên Chúa: sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Mẹ đã đồng hành với cộng đoàn Kitô hữu trong những bước đầu tiên, làm cho cộng đoàn kiên trì và đồng tâm hiệp ý cầu nguyện (x. Cv 1,14). Cũng vậy, Mẹ đã giữ các tín hữu lại với nhau, duy trì sự hiệp nhất bằng tấm gương ngoan nguỳ và tử tế của Mẹ. Chúng con cầu nguyện với Mẹ cho Giáo hội ở Châu Âu, để Giáo hội này có thể khám phá lại sức mạnh của lời cầu nguyện, để Giáo hội này có thể khám phá lại nơi Mẹ sự khiêm nhường và vâng phục, lòng nhiệt thành của chứng tá và vẻ đẹp của lời rao giảng. Chúng con trao phó Giáo hội này và đất nước này cho Mẹ. Xin Mẹ, người đã vui mừng với sự Phục Sinh của Con Mẹ, lấp đầy tâm hồn chúng con với niềm vui của Người.

Anh chị em thân mến, tôi cầu chúc anh chị em điều này, để lan tỏa niềm vui của Chúa Kitô: Isten eltessen! [Xin cầu chúc!]. Biết ơn về những ngày này, tôi mang anh chị em trong trái tim tôi và xin anh chị em cầu nguyện cho tôi. Isten áld meg a magyart! [Xin Chúa chúc lành cho người Hungary!]

Nguồn: vaticannews.va/vi