Chương III: Một phác thảo lịch sử về phong trào Cải Cách Luthêrô và phản ứng của Công Giáo
35. Ngày nay, chúng ta có thể cùng nhau kể lại câu truyện về phong trào Cải Cách Luthêrô. Dù người Luthêrô và người Công Giáo có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng vì cuộc đối thoại đại kết, họ có khả năng vượt qua các lối giải thích bài Tin Lành và bài Công Giáo truyền thống mong tìm ra một cách chung để tưởng nhớ các biến cố quá khứ. Chương sau đây không phải là một mô tả đầy đủ toàn bộ lịch sử và mọi điểm thần học tranh chấp. Nó chỉ làm nổi bật một số tình huống lịch sử quan trọng nhất và các vấn đề thần học của phong trào Cải Cách trong thế kỷ thứ mười sáu.
Cải cách có ý nghĩa gì?
36. Trong thời cổ đại, danh từ La Tinh reformatio (cải cách) chỉ ý niệm thay đổi một tình trạng xấu thời nay bằng cách trở về các thời tốt và tốt hơn trong quá khứ. Trong thời Trung Cổ, ý niệm reformatio đã rất thường được sử dụng trong bối cảnh cải cách đan viện. Các dòng đan sĩ dấn thân vào việc cải cách để vượt qua sự sa sút về kỷ luật và lối sống tu trì. Một trong những phong trào cải cách lớn nhất bắt nguồn từ thế kỷ thứ mười ở đan viện Cluny.
37. Vào cuối thời Trung Cổ, ý niệm cần thiết phải cải cách đã được áp dụng cho toàn thể Giáo Hội. Các công đồng của Giáo Hội và gần như mọi nghị viện của Thánh Đế Quốc Rôma đều quan tâm tới reformatio. Công Đồng Constance (1414-1418) coi việc cải cách Giáo Hội "cả đầu lẫn các chi thể" là việc cần thiết (9). Một tài liệu cải cách được phổ biến rộng rãi mang tên "Reformacion keyser Sigmunds" đã kêu gọi một cuộc phục hưng trật tự chính đáng trong hầu hết mọi phạm vi của đời sống. Vào cuối thế kỷ thứ mười lăm, ý tưởng cải cách cũng lan rộng đến chính phủ và đại học (10).
38. Luther hiếm khi sử dụng ý niệm "cải cách". Trong cuốn "Giải Thích Chín Mươi Lăm Luận Đề", Luther quả quyết rằng "Giáo Hội cần một cuộc cải cách không phải là công trình của con người, tức Đức Giáo Hoàng, hoặc của nhiều người, tức các Hồng Y, cả hai điều này đều được các công đồng gần đây nhất chứng tỏ, nhưng đều là công trình của thế gian, mà thực sự phải là công trình của một mình Thiên Chúa mà thôi. Tuy nhiên, chỉ có Thiên Chúa, Đấng đã tạo ra thời gian mới biết thời gian nào dành cho cuộc cải cách này"(11) Đôi khi Luther sử dụng từ "cải cách" để mô tả các cải tiến về trật tự, ví dụ như trật tự của các đại học. Trong cải cách luận "Diễn Văn với Giới Quí Tộc Kitô Giáo" năm 1520, ông kêu gọi "một công đồng công chính, tự do" sẽ cho phép các đề xuất cải cách được đem ra thảo luận (12).
39. Theo một nghĩa hẹp hơn, từ ngữ "cải cách" đã được sử dụng để chỉ một hợp thể các sự kiện lịch sử bao gồm các năm 1517-1555, nghĩa là từ thời điểm phổ biến "Chín Mươi Lăm Luận Đề" của Martin Luther tới khi có Hòa Ước Augsburg. Cuộc tranh cãi thần học và Giáo Hội học mà thần học Luther đã kích hoạt mau chóng trở nên chằng kéo vướng vít với chính trị, kinh tế, văn hóa, do tình thế lúc đó. Do đó, điều được thuật ngữ "Cải Cách" chỉ định, đã vượt xa điều Luther giảng dạy và dự kiến. Ý niệm "Cải Cách" như để chỉ cả một thời đại phát xuất từ Leopold von Ranke, là người, trong thế kỷ XIX, đã phổ biến rộng rãi thói quen nói tới một "thời đại Cải Cách".
Điểm nóng của Cải Cách: tranh cãi về các ân xá
40. Ngày 31 tháng 10 năm 1517, Luther gửi "Chín Mươi Lăm Luận Đề" của ông tựa đề là "Cuộc Tranh Luận về Tính Hiệu Quả và Sức Mạnh của các Ân Xá" như một phụ lục của một bức thư cho Đức Tổng Giám Mục Albrecht của Mainz. Trong bức thư này, Luther đã bày tỏ các mối quan ngại nghiêm trọng về việc giảng giải và thực hành ân xá đang diễn ra tại vùng thuộc trách nhiệm của vị Tổng Giám Mục này và kêu gọi ngài thực hiện các thay đổi. Cùng ngày, ông lại viết một bức thư nữa cho Giám mục Giáo Phận ông là Hieronymus của Brandenburg. Khi Luther gửi các luận đề của ông cho một vài đồng nghiệp và có nhiều khả năng là ông đã dán chúng lên cánh cửa của nhà thờ lâu đài ở Wittenberg, ông muốn khởi diễn một cuộc tranh luận có tính học thuật về các vấn đề công khai và chưa được giải quyết liên quan đến lý thuyết và việc thực hành các ân xá.
41. Các ân xá đóng một vai trò quan trọng trong lòng đạo đức của thời ấy. Ân xá được hiểu là sự tha hình phạt tạm do các tội mà phần lỗi đã được tha thứ rồi. Các Kitô hữu có thể nhận được một ân xá dưới một số điều kiện đã được quy định, như cầu nguyện, hành vi từ thiện, và bố thí, nhờ hành động của Giáo Hội, mà người ta nghĩ là phân phát và áp dụng kho tàng thục tội của Chúa Kitô và các thánh cho các hối nhân.
42. Theo ý kiến của Luther, việc thực hành các ân xá phá hoại nền linh đạo Kitô giáo. Ông tranh cãi việc các ân xá có sức giải thoát các hối nhân khỏi hình phạt do Thiên Chúa đặt để; sự kiện hình phạt do các linh mục áp đặt bị hóan đổi thành các năm tháng ngày giờ trong luyện ngục; sự kiện giá trị sư phạm và thanh luyện của hình phạt rất có thể khiến một hối nhân chân thành muốn chịu các hình phạt này hơn là được giải thoát khỏi chúng; và sự kiện có thể dâng cúng tiền bạc để được ân xá thay vì dùng nó giúp đỡ người nghèo. Ông cũng thắc mắc về bản chất kho tàng của Giáo Hội mà từ đó Đức Giáo Hoàng có thể múc các ân xá.
Luther bị đưa ra xét xử
43. "Chín Mươi Lăm Luận Đề" của Luther được phổ biến rất nhanh ra toàn nước Đức và gây ra một xúc động lớn nhưng cũng làm thiệt hại nghiêm trọng cho các chiến dịch ân xá. Chẳng bao lâu có lời đồn đại rằng Luther sẽ bị buộc tội lạc giáo. Ngay tháng 12 năm 1517, Đức Tổng Giám Mục của Mainz đã gửi "Chín Mươi Lăm Luận Đề" tới Rôma, với một số tài liệu bổ sung, để nền thần học của Luther được khảo sát.
44. Luther rất ngạc nhiên trước phản ứng này đối với các luận đề của mình, vì trước đó, ông đã không dự hoạch một biến cố công cộng mà chỉ là một cuộc tranh luận có tính học thuật mà thôi. Ông sợ rằng các luận đề này sẽ dễ dàng bị hiểu lầm nếu được đọc bởi một cử tọa rộng lớn hơn. Do đó, cuối tháng Ba năm 1518, ông xuất bản một bài giảng bằng tiếng địa phương, "Về Ân Xá và Ơn Thánh" ( "Sermo von Ablass und Gnade"). Đó là một cuốn sách nhỏ hết sức thành công, nhanh chóng làm Luther trở thành một nhân vật nổi tiếng đối với công chúng Đức. Luther liên tiếp nhấn mạnh rằng, ngoài bốn mệnh đề đầu tiên, các luận đề đã không phải là các khẳng định dứt khoát của ông mà đúng hơn, chỉ là các mệnh đề viết ra để tranh luận.
45. Rôma lo ngại rằng lời giảng của Luther đã làm suy yếu tín lý của Giáo Hội và thẩm quyền của giáo hoàng. Do đó, Luther được triệu tới Rôma để trả lời cho giáo triều về nền thần học của ông. Tuy nhiên, theo yêu cầu của Hoàng Tử có quyền Bầu Cử của miền Saxony, là Frederick Khôn Ngoan, phiên tòa đã được chuyển về Đức, về Nghị Viện Đế Quốc tại Augsburg, nơi Đức Hồng Y Cajetan được giao nhiệm vụ thẩm vấn Luther. Đại diện của Đức Giáo Hoàng nói rằng một là Luther phải công khai từ bỏ các luận đề hai là, trong trường hợp Luther từ chối, Đức Hồng Y có quyền cấm Luther ngay lập tức hoặc bắt giữ ông và giải ông về Rôma. Sau cuộc gặp gỡ này, Đức Hồng Y Cajetan soạn thảo một tuyên bố gửi cho huấn quyền, và Đức Giáo Hoàng ban hành tuyên bố này ngay sau cuộc thẩm vấn tại Augsburg không lâu, không một câu trả lời nào cho các luận chứng của Luther (13).
46. Về cơ bản, có một sự mơ hồ lưỡng nghĩa kéo dài suốt quá trình dẫn đến vạ tuyệt thông Luther. Luther đưa ra các câu hỏi để tranh luận và trình bầy các luận điểm. Ông và công chúng, nhờ được thông tri bởi nhiều sách nhỏ và ấn phẩm về lập trường của ông và diễn trình đang diễn ra, nên chờ mong được trao đổi các luận điểm. Luther được hứa hẹn một phiên tòa công bằng. Tuy nhiên, dù an tâm rằng mình sẽ được lắng nghe, ông đã liên tục nhận được lời nhắn nhe rằng hoặc ông phải rút lại các luận đề hoặc bị tuyên bố là lạc giáo.
47. Ngày 13 tháng 10 năm 1518, trong một protestatio (lời phản kháng) long trọng, Luther cho rằng ông đồng ý với Giáo Hội La Mã Thánh Thiện nhưng ông sẽ không rút lại các luận đề trừ khi ông được thuyết phục rằng mình sai. Ngày 22 tháng Mười, một lần nữa, ông nhấn mạnh rằng ông suy nghĩ và giảng dạy bên trong phạm vi giáo huấn của Giáo Hội Rôma.
Các cuộc gặp gỡ thất bại
48. Trước cuộc gặp gỡ của ngài với Luther, Đức Hồng Y Cajetan đã nghiên cứu các tác phẩm của vị giáo sư ở Wittenberg này rất cẩn thận và thậm chí còn viết nhiều khảo luận về chúng nữa. Nhưng Đức Hồng Y Cajetan đã giải thích Luther trong khuôn khổ khái niệm của chính ngài và do đó hiểu lầm ông về sự bảo đảm của đức tin, dù trong khi ấy đã trình bầy chính xác các chi tiết trong lập trường của ông. Về phần mình, Luther không quen thuộc với nền thần học của Đức Hồng Y, và cuộc thẩm vấn, vốn chỉ dành rất ít cho việc thảo luận, đã gây áp lực để Luther phải từ bỏ các luận đề của ông. Nó không cung cấp được một cơ hội để Luther hiểu lập trường của Đức Hồng Y. Quả là một thảm kịch khi hai trong số các nhà thần học nổi bật nhất của thế kỷ thứ mười sáu đã gặp nhau trong một phiên tòa lạc giáo.
49. Trong các năm sau đó, nền thần học của Luther phát triển nhanh chóng, tạo ra nhiều chủ đề mới để tranh cãi. Nhà thần học bị cáo buộc tội cố gắng bảo vệ lập trường của mình và thu hút đồng minh trong cuộc chiến đấu với những người sắp tuyên bố mình là một kẻ lạc giáo. Nhiều ấn phẩm cả ủng hộ lẫn chống lại Luther đã xuất hiện, nhưng chỉ có một cuộc tranh luận, vào năm 1519, ở Leipzig giữa Andreas von Bodenstein Karlstadt và Luther ở một bên, và Johannes Eck, ở bên kia.
Kết án Martin Luther
50. Trong khi đó, tại Rôma, quá trình chống lại Luther tiếp tục và cuối cùng, Đức Giáo Hoàng Leo X quyết định hành động. Để chu toàn "chức vụ chủ chăn” của ngài, Đức Giáo Hoàng Leo X cảm thấy có nghĩa vụ phải bảo vệ "đức tin chính thống" khỏi những người "bẻ cong và làm sai lạc Thánh Kinh" để nó "không còn là Tin Mừng của Chúa Kitô nữa" (14). Do đó, Đức Giáo Hoàng đã ban hành sắc chỉ Exsurge Domine (ngày 15 tháng 6 năm 1520), lên án bốn mươi mốt mệnh đề rút ra từ các ấn phẩm khác nhau của Luther. Mặc dù các mệnh đề này đều có thể tìm thấy trong các trước tác của Luther và được trích dẫn chính xác, nhưng chúng đã bị đưa ra khỏi bối cảnh liên hệ của chúng. Exsurge Domine mô tả các mệnh đề này là "lạc giáo hoặc gây tai tiếng, hoặc sai lạc, hoặc xúc phạm đối với những người đạo đức, hoặc nguy hiểm đối với những tâm trí đơn sơ, hoặc nhằm phá hoại chân lý Công Giáo" (15) mà không nói rõ phẩm tính nào được áp dụng vào mệnh đề nào. Vào cuối sắc chỉ, Đức Giáo Hoàng bày tỏ sự thất vọng, cho rằng Luther đã không trả lời bất cứ lời đề nghị thảo luận nào của ông, mặc dù ngài vẫn hy vọng rằng Luther sẽ hoán cải tâm hồn và từ bỏ các sai lầm của mình. Đức Giáo Hoàng Leo cho Luther sáu mươi ngày, hoặc là phải từ bỏ "các sai lầm" của mình hoặc bị vạ tuyệt thông.
51. Eck và Aleander, những người công bố Exsurge Domine ở Đức, kêu gọi phải đốt các công trình của Luther. Đáp ứng lời kêu gọi này, ngày 10 tháng Mười Hai năm 1520, một số nhà thần học ở Wittenberg đã đốt một số sách, có giá trị tương đương với những gì sau này được gọi là các sách "giáo luật", cùng với một số sách của các đối thủ của Luther, còn Luther thì đem đốt sắc chỉ của giáo hoàng. Như thế, rõ ràng Luther không sẵn sàng từ bỏ các luận đề. Ông đã bị tuyệt thông bởi sắc chỉ Decet Romanum Pontificem ngày 3 tháng 1 năm 1521.
Thẩm quyền Kinh Thánh
52. Cuộc xung đột liên quan đến ân xá nhanh chóng phát triển thành một cuộc xung đột liên quan đến thẩm quyền. Đối với Luther, giáo triều Rôma đã đánh mất thẩm quyền của mình bằng cách chỉ chính thức khẳng định thẩm quyền riêng của mình thay vì lập luận theo Kinh Thánh. Vào lúc bắt đầu cuộc đấu tranh, các thẩm quyền thần học của Thánh Kinh, các giáo phụ, và truyền thống qui điển đã tạo sự thống nhất đối với Luther. Trong quá trình xung đột, sự hợp nhất này bị tan vỡ khi Luther kết luận rằng các qui điển như đã được giải thích bởi các quan chức Rôma mâu thuẫn với Kinh Thánh. Từ phía Công Giáo, luận điểm không hẳn là về quyền tối thượng của Kinh Thánh, điều mà người Công Giáo cũng đồng ý, mà đúng hơn là về sự giải thích đúng đắn về Kinh Thánh.
53. Khi Luther không thấy một cơ sở Thánh Kinh nào trong các tuyên bố của Rôma, hoặc nghĩ rằng chúng thậm chí còn mâu thuẫn với sứ điệp Thánh Kinh, ông bắt đầu nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng là Kitô Giả. Qua lời buộc tội phải nhận là gây ngỡ ngàng này, Luther muốn nói rằng Đức Giáo Hoàng không để Chúa Kitô nói những điều Người muốn nói và Đức Giáo Hoàng đã tự đặt mình lên trên Kinh Thánh hơn là suy phục thẩm quyền của nó. Đức Giáo Hoàng khẳng định rằng chức vụ của ngài đã được thiết lập bởi iure divino ( "bởi quyền Thiên Chúa"), trong khi Luther không tìm thấy bằng chứng Kinh Thánh nào cho chủ trương này.
Luther tại Worms
54. Theo luật Đế Quốc Rôma Thánh Thiện của dân tộc Đức, người bị vạ tuyệt thông cũng bị đặt dưới lệnh cấm của đế quôc. Tuy nhiên, các thành viên trong Nghị Viện Worms đòi rằng một thẩm quyền độc lập sẽ thẩm vấn Luther. Do đó, Luther đã được triệu tới Worms và Hoàng Đế đã cho Luther, bây giờ bị tuyên bố là một kẻ lạc giáo, được phép an toàn vào thành phố. Luther mong chờ một cuộc tranh luận tại Nghị Viện, nhưng chỉ được hỏi liệu ông có viết một số sách nào đó đang được đặt trên bàn trước mặt ông không, và liệu ông có chịu thu hồi chúng lại không.
55. Luther đáp trả lời mời gọi thu hồi này bằng những lời nổi tiếng sau đây: "Trừ khi tôi được thuyết phục bởi chứng từ của Kinh Thánh hoặc bởi lý lẽ rõ ràng (vì tôi không tin tưởng cả vị giáo hoàng lẫn một mình các công đồng, vì ai cũng biết rõ ràng rằng họ thường sai lầm và mâu thuẫn với chính họ), tôi bị Thánh Kinh mà tôi trích trích dẫn trói buộc, và lương tâm của tôi hoàn toàn tuân phục Lời của Thiên Chúa. Tôi không thể và sẽ không rút lại bất cứ điều gì, vì đi ngược lại lương tâm là điều vừa không an toàn vừa không đúng. Xin Thiên Chúa giúp đỡ tôi. Amen"(16).
56. Hoàng đế Charles V đã phản ứng lại bằng cách đọc một bài diễn văn đáng chú ý trong đó ông nêu ra các ý định của mình. Vị hoàng đế này lưu ý rằng ông là hậu duệ của một triều đại dài các quân vương vốn luôn coi mình có bổn phận phải bảo vệ đức tin Công Giáo "vì sự cứu rỗi của các linh hồn" và cho rằng ông cũng có cùng một bổn phận. Hoàng đế lập luận rằng một tu sĩ đơn độc chắc chắn sai lầm khi quan điểm của ông đối lập với toàn thể Kitô giáo hơn một ngàn năm qua (17).
57. Nghị Viện Worms biến Luther thành một người ở ngoài vòng pháp luật, phải bị bắt hoặc thậm chí bị giết và truyền cho các nhà cai trị dẹp bỏ "lạc giáo Luthêrô" bằng bất cứ phương tiện nào. Vì lập luận của Luther đã thuyết phục được nhiều ông hoàng và thị trấn, nên họ đã không thi hành lệnh truyền này.
Buổi khởi đầu của phong trào Cải Cách
58. Lối hiểu tin mừng của Luther có sức thuyết phục đối với một số lượng ngày càng tăng các linh mục, đan sĩ, và nhà giảng thuyết, những người luôn cố gắng kết hợp lối hiểu này vào các bài giảng của họ. Dấu hiệu rõ ràng cho thấy nhiều thay đổi đã diễn ra là: giáo dân đã được rước lễ dưới cả hai hình bánh và rượu, một số linh mục và đan sĩ đã kết hôn, một số quy tắc ăn chay đã không còn được tuân giữ, và đôi lúc, người ta còn tỏ ra bất kính đối với ảnh tượng và thánh tích.
59. Luther không có ý định thiết lập một Giáo Hội mới, nhưng, một phần, chỉ muốn cải cách sâu rộng và về nhiều mặt. Ông đóng một vai trò ngày càng tích cực, cố gắng đóng góp vào việc cải cách các thực hành và tín lý dường như chỉ được đặt căn bản trên một mình thẩm quyền của con người và luôn ở thế căng thẳng hoặc mâu thuẫn với Kinh Thánh. Trong chuyên luận "Gửi Phe Quý Tộc Đức" (1520), Luther đã lập luận cho chức linh mục của mọi người đã chịu phép rửa và do đó cho một vai trò tích cực của giáo dân trong việc cải cách Giáo Hội. Giáo dân đã đóng một vai trò quan trọng trong phong trào cải cách, cả trong tư cách các ông hoàng, các quan tòa, lẫn trong tư cách người bình dân.
Cần sự giám sát
60. Vì không có kế hoạch trung ương và không có cơ quan trung ương để tổ chức cuộc cải cách, nên tình thế rất khác nhau từ thị trấn này đến thị trấn nọ, và từ làng này đến làng nọ. Bởi thế có nhu cầu phải tổ chức các cuộc thăm viếng nhà thờ. Vì việc này cần đến thẩm quyền các ông hoàng hay thẩm phán, nên năm 1527, các nhà cải cách đã yêu cầu Ông Hoàng Có Quyền Bầu Cử của miền Saxony thiết lập và ban quyền cho một ủy ban thăm viếng. Nhiệm vụ của ủy ban không chỉ là để đánh giá việc thuyết giảng và toàn bộ việc phục vụ và đời sống của các thừa tác viên (mục sư), mà còn để đảm bảo rằng họ nhận được các tài nguyên để nuôi sống bản thân họ.
61. Ủy ban này đã thiết lập ra một điều giống như việc cai quản Giáo Hội. Các vị giám sát được trao cho nhiệm vụ giám sát các thừa tác viên của một vùng nhất định và giám sát tín lý và lối sống của họ. Ủy ban này cũng đã kiểm tra các cơ sở phục vụ và giám sát sự hợp nhất của các cơ sở này. Năm 1528, một cuốn thủ bản dành cho các thừa tác viên đã được công bố, bàn đến mọi vấn đề tín lý và thực hành chính của họ. Nó đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử tuyên xưng tín lý của người Luthêrô.
Đem Kinh Thánh đến với mọi người
62. Luther, cùng với các đồng nghiệp tại Đại học Wittenberg, đã dịch Kinh Thánh sang tiếng Đức để nhiều người hơn có thể đọc được nó cho chính họ, và trong số các ứng dụng khác, để dấn thân vào việc biện phân tâm linh và thần học, phục vụ cho cuộc sống của họ trong Giáo Hội. Vì lý do này, các nhà cải cách Luthêrô thành lập các trường học cho cả trẻ trai lẫn trẻ gái và thực hành nhiều cố gắng nghiêm túc nhằm thuyết phục các cha mẹ cho con đến trường.
Các sách giáo lý và thánh ca
63. Để nâng cao kiến thức kém cỏi về đức tin Kitô giáo của các thừa tác viên và giáo dân, Luther đã viết cuốn Giáo Lý Nhỏ cho công chúng nói chung và cuốn Giáo Lý Lớn cho các mục tử và giáo dân có giáo dục cao. Các cuốn giáo lý này giải thích Mười Điều Răn, Kinh Lạy Cha, và các kinh tin kính, và bao gồm các phần nói về các bí tích Thánh Tẩy và Tiệc Thánh. Cuốn Giáo Lý Nhỏ, cuốn sách có ảnh hưởng nhất của Luther, đã nâng cao rất nhiều kiến thức về đức tin nơi những người bình dân.
64. Các sách giáo lý này có ý định giúp người ta sống đời sống Kitô hữu và đạt được khả năng biện phân thần học và tâm linh. Các sách này minh họa sự kiện này: đối với các nhà cải cách, đức tin không chỉ có nghĩa tín thác vào Chúa Kitô và lời hứa của Người, mà còn khẳng định những nội dung đề xuất của đức tin mà người ta có thể và phải học tập.
65. Để cổ vũ sự tham gia của giáo dân vào các buổi phụng vụ, các nhà cải cách đã viết các thánh ca và ấn hành các sách hát. Những soạn phẩm này đóng một vai trò lâu dài trong linh đạo Luthêrô và trở thành một phần gia tài trân quý của toàn thể Giáo Hội.
Các thừa tác viên cho các giáo xứ
66. Giờ đây khi các giáo xứ Luthêrô đã có Kinh Thánh bằng tiếng bản xứ, có sách giáo lý, các thánh ca, bộ giáo luật (church order), các cơ sở phục vụ, vấn đề chính còn lại là làm thế nào để cung cấp các thừa tác viên (mục sư) cho các giáo xứ. Trong những năm đầu của phong trào Cải Cách, nhiều linh mục và đan sĩ đã trở thành các thừa tác viên Luthêrô, nhờ thế, có đủ sẵn các mục sư. Nhưng phương pháp tuyển các thừa tác viên này cuối cùng được chứng minh là không đủ.
67. Điều đáng kể là các nhà cải cách đợi đến năm 1535 mới tổ chức được các buổi phong chức của riêng mình ở Wittenberg. Trong Tuyên Tín Augsburg (1530), các nhà cải cách tuyên bố rằng họ sẵn sàng vâng lời các giám mục nếu các giám mục chịu cho phép việc giảng thuyết tin mừng theo các niềm tin của Cải Cách. Vì điều này không xảy ra, nên các nhà cải cách đã chọn giữa việc duy trì cách truyền thống trong việc tấn phong linh mục bởi các giám mục, do đó bỏ lối giảng thuyết của Cải Cách, và việc duy trì lối giảng thuyết Cải Cách, nhưng tấn phong các mục tử bởi các mục tử khác. Các nhà cải cách đã chọn giải pháp thứ hai, giành lại truyền thống giải thích Các Thư Mục Vụ có từ thời Thánh Giêrôm của Giáo Hội tiên khởi.
68. Các thành viên của khoa thần học Wittenberg, hành động nhân danh Giáo Hội, đã khảo sát cả tín lý và cuộc sống của các ứng viên. Các cuộc phong chức đã diễn ra ở Wittenberg hơn là ở các giáo xứ của các vị được tấn phong, vì các thừa tác viên được thụ phong cho toàn thể Giáo Hội. Chứng từ tấn phong nhấn mạnh tới việc nhất trí về tín lý của các vị thụ phong với Giáo Hội Công Giáo. Nghi thức phong chức hệ ở đặt tay và cầu xin Chúa Thánh Thần.
Các nỗ lực thần học để vượt qua tranh chấp tôn giáo
69. Tuyên Tín Augsburg (1530) đã cố gắng giải quyết cuộc xung đột tôn giáo về cuộc Cải Cách Luthêrô. Phần đầu tiên của nó (các điều 1-21) trình bày lời giảng dạy của Luther được coi là phù hợp với tín lý của "Giáo Hội Công Giáo, hoặc phát xuất từ Giáo Hội Rôma" (18); phần hai của nó nói tới các thay đổi mà các nhà cải cách khởi diễn để sửa sai một số thực hành bị hiểu là "lạm dụng" (các điều 22-28), đưa ra lý do để thay đổi những thực hành này. Cuối phần 1 viết như sau: "Đây là bản tóm tắt gần như hoàn chỉnh giáo huấn của chúng ta. Như có thể thấy, không có gì ở đây đi ra ngoài Kinh Thánh hoặc Giáo Hội Công Giáo, hoặc Giáo Hội Rôma, ít nhất chúng ta có thể nói thế từ các tác giả của nó. Bởi nó như thế, nên những người cho rằng người của chúng ta phải bị coi là lạc giáo đã phán xét quá gay gắt" (19).
70. Tuyên Tín Augsburg là một chứng từ mạnh mẽ cho thấy quyết tâm của các nhà cải cách Luthêrô nhất định duy trì sự hợp nhất của Giáo Hội và vẫn ở lại trong một Giáo Hội hữu hình duy nhất. Khi trình bày một cách minh nhiên sự khác biệt như chỉ có ý nghĩa nhỏ, điều này cũng tương tự như điều ngày nay chúng ta gọi là một sự đồng thuận dị biệt hóa.
71. Ngay lập tức, một số nhà thần học Công Giáo thấy cần phải trả lời Tuyên Tín Augsburg và nhanh chóng đưa ra bản Bác Bỏ Tuyên Tín Augsburg. Bản Bác Bỏ này theo sát bản văn và các luận điểm của Tuyên Tín. Bản Bác Bỏ đã có thể khẳng định cùng với Tuyên Tín Augsburg một số giáo huấn Kitô giáo cốt lõi như các tín lý về Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Kitô, và phép rửa. Tuy nhiên, bản Bác Bỏ đã bác bỏ một số giáo huấn Luthêrô đề cập tới các tín lý về Giáo Hội và các bí tích, dựa trên cơ sở các bản văn Kinh Thánh và giáo phụ. Vì người Luthêrô không thể bị thuyết phục bởi những lập luận của Bản Bác Bỏ, một cuộc đối thoại chính thức đã được khởi diễn vào cuối tháng 8, năm 1530 để hòa giải các khác biệt giữa Tuyên Tín và Bản Bác Bỏ. Tuy nhiên, cuộc đối thoại này đã không thể giải quyết được các vấn đề còn lại về Giáo Hội học và bí tích.
72. Một nỗ lực nữa để vượt qua cuộc tranh chấp tôn giáo là điều được gọi là Religionsgesprächehay Các Cuộc Hội Đàm (Colloquies) (tại Speyer / Hagenau [1540], tại Worms [1540-1], tại Regensburg [1541-1546]). Hoàng Đế hay em trai của ông, tức Vua Ferdinand, triệu tập các cuộc hội đàm này, diễn ra dưới sự lãnh đạo của một đại diện của hoàng đế. Mục đích là thuyết phục người Luthêrô trở về với các xác tín của đối phương. Các chiến thuật, mưu mô, và áp lực chính trị đã đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc hội đàm này.
73. Các nhà đàm phán đã đạt được một bản văn đáng chú ý về học lý công chính hóa trong văn kiện Regensburger Buch (1541), nhưng cuộc tranh chấp liên quan đến học lý Thánh Thể xem ra không thể vượt qua được. Cuối cùng, cả Rôma lẫn Luther đã bác bỏ kết quả, dẫn đến sự thất bại cuối cùng của các cuộc đàm phán này.
Chiến tranh tôn giáo và Hòa Ước Augsburg
74. Cuộc Chiến Tranh Smalcald (1546-1547) của Hoàng Đế Charles V chống lại các lãnh thổ Luthêrô nhằm đánh bại các ông hoàng và buộc họ phải rút lại mọi thay đổi. Thoạt đầu, Hoàng Đế thành công. Ông đã giành được chiến thắng (20 tháng 7, năm 1547). Quân đội của ông đã sớm có mặt ở Wittenberg nơi Hoàng Đế không cho phép binh lính khai quật tử thi của Luther để đốt đi.
75. Tại Nghị Viện Augsburg (1547-1548), Hoàng Đế áp đặt điều gọi là Sắc Luật Tạm Augsburg về người Luthêrô, dẫn đến những cuộc xung đột bất tận trong các lãnh thổ của người Luthêrô. Văn kiện này giải thích công chính hóa chủ yếu là ơn thánh để kích thích tình yêu. Nó nhấn mạnh việc suy phục các giám mục và Đức Giáo Hoàng. Tuy nhiên, nó cũng cho phép các linh mục cưới vợ và rước lễ cả hai hình.
76. Năm 1552, sau một âm mưu của các ông hoàng, một cuộc chiến tranh mới chống lại Hoàng Đế đã bắt đầu, buộc ông phải chạy trốn khỏi Áo. Điều này dẫn đến một hiệp ước hòa bình giữa các ông hoàng người Luthêrô và Vua Ferdinand. Do đó, nỗ lực nhổ tận gốc "lạc giáo Luthêrô" bằng phương tiện quân sự cuối cùng đã thất bại.
77. Chiến tranh kết thúc với Hòa Ước Augsburg năm 1555. Hiệp ước này là một nỗ lực tìm cách để người của các xác tín tôn giáo khác nhau cùng chung sống trong một đất nước. Các lãnh thổ và các thị trấn gắn bó với Tuyên Tín Augsburg cũng như các lãnh thổ Công Giáo đều được công nhận trong đế quốc Đức, nhưng những lãnh thổ thuộc các tuyên tín khác, như Cải Cách (Reformed) và Tái Tẩy (Anabaptist), thì không được công nhận. Các ông hoàng và các quan tòa có quyền xác định tôn giáo của các thần dân của họ. Nếu ông hoàng thay đổi tôn giáo của mình, những người dân sống ở lãnh thổ này cũng sẽ phải thay đổi tôn giáo của họ, ngoại trừ tại các vùng trong đó các giám mục cũng là các ông hoàng (geistliche Fürstentümer). Các thần dân có quyền di cư nếu họ không đồng ý với tôn giáo của ông hoàng.
Công Đồng Trent
78. Công đồng Trent (1545-1563), được triệu tập một thế hệ sau cuộc cải cách của Luther, bắt đầu trước cuộc Chiến Tranh Smalcald (1546-1547) và kết thúc sau Hòa Ước Augsburg (1555). Sắc Chỉ Laetare Jerusalem (19 tháng 11 năm 1544) ấn định ba lãnh vực làm việc chính của Công Đồng: hàn gắn cuộc phân rẽ tuyên tín, cải tổ Giáo Hội, và thiết lập hòa bình để trận chiến phòng thủ chống lại quân Ottoman có thể được khai triển.
79. Công Đồng quyết định rằng tại mỗi phiên họp, sẽ có sắc lệnh có tính tín lý, khẳng định niềm tin của Giáo Hội, và một sắc lệnh có tính kỷ luật giúp cải tổ Giáo Hội. Phần lớn, các sắc lệnh về tín lý đã không trình bày được một giải thích thần học toàn diện về đức tin, nhưng đúng hơn, tập trung vào những học lý đang bị các nhà cải cách tranh luận một cách chỉ nhấn mạnh tới các điểm khác nhau.
Thánh Kinh và thánh truyền
80. Công Đồng, vốn mong muốn giữ gìn sự "tinh ròng của tin mừng thoát khỏi mọi sai lầm", đã chấp thuận sắc lệnh về nguồn mạc khải vào ngày 8 tháng Tư năm 1546. Tuy không minh nhiên nêu tên, nhưng Công Đồng bác bỏ nguyên tắc sola scriptura (chỉ có Kinh Thánh) bằng cách lập luận chống lại việc cô lập Kinh Thánh ra khỏi thánh truyền. Công Đồng ra lệnh rằng tin mừng, "nguồn gốc trọn sự thật về cứu rỗi và quy tắc ứng xử," được duy trì "trong các sách viết và các truyền thống bất thành văn", tuy nhiên, không giải quyết mối tương quan giữa Thánh Kinh và thánh truyền. Hơn nữa, còn dạy rằng các truyền thống tông đồ liên quan đến đức tin và luân lý đã được "duy trì một cách liên tục trong Giáo Hội Công Giáo". Thánh Kinh và thánh truyền phải được chấp nhận "với cùng một tâm cảm như nhau về lòng đạo đức và tôn kính" (20).
81. Sắc Lệnh công bố một bảng liệt kê các sách qui điển của Cựu Ước và Tân Ước (21). Công Đồng nhấn mạnh rằng Thánh Kinh không thể bị giải thích trái ngược với giáo huấn của Giáo Hội cũng như mâu thuẫn với "giáo huấn nhất trí của các Giáo Phụ" của Giáo Hội. Cuối cùng, Công Đồng tuyên bố rằng phiên bản Latin Phổ Thông xưa của Kinh Thánh là bản văn "chân thực" để sử dụng trong Giáo Hội (22).
Công chính hóa
82. Về sự công chính hóa, Công Đồng đã bác bỏ một cách minh nhiên cả hai học lý về tính công chính nhờ việc làm của Pêlagiô và học lý về công chính hóa chỉ nhờ đức tin mà thôi (sola fide), trong khi hiểu đức tin chủ yếu như là sự chấp nhận học lý mạc khải. Công Đồng khẳng định cơ sở Kitô học của công chính hóa bằng cách khẳng định rằng con người được tháp nhập vào Chúa Kitô và ơn thánh của Chúa Kitô là điều cần thiết đối với toàn bộ diễn trình công chính hóa, mặc dù diễn trình này không loại trừ các việc sẵn lòng đón nhận ơn thánh hay sự hợp tác của ý chí tự do. Nó tuyên bố rằng yếu tính của công chính hóa không phải chỉ là sự tha tội mà thôi, mà còn là "việc thánh hóa và đổi mới con người nội tâm" nữa nhờ đức ái siêu nhiên (23). Nguyên nhân mô thức (formal cause) của công chính hóa là "công lý của Thiên Chúa, không phải điều nhờ đó chính Người được công chính, nhưng là điều nhờ đó, Người làm cho chúng ta công chính", và nguyên nhân cuối cùng của công chính hóa là" vinh quang của Thiên Chúa và của Chúa Kitô và sự sống đời đời"(24). Đức tin được khẳng định là "khởi đầu, là nền tảng và gốc rễ" của công chính hóa (25). Ơn công chính hóa có thể bị mất bởi tội trọng, chứ không phải chỉ bởi việc mất đức tin, mặc dù nó có thể lấy lại được nhờ bí tích giải tội (26). Công Đồng khẳng định rằng sự sống đời đời là một ơn thánh, không chỉ đơn thuần là một phần thưởng (27).
Các bí tích
83. Tại kỳ họp thứ bảy, Công Đồng đã trình bày các bí tích như là phương tiện bình thường nhờ đó "mọi công lý chân thật hoặc bắt đầu, hoặc khi đã nhận lãnh, thì tăng sức mạnh, hoặc, nếu bị mất, sẽ được phục hồi" (28). Công Đồng truyền rằng Chúa Kitô đã thiết lập bảy bí tích và xác định chúng là các dấu chỉ hữu hiệu tạo ra ơn thánh bởi chính nghi thức của chúng (ex opere operato) chứ không đơn giản chỉ do đức tin của người nhận lãnh.
84. Cuộc tranh luận về rước lễ dưới cả hai hình nói lên học lý này: dưới một trong hai hình, trọn vẹn Chúa Kitô không bị phân chia đã được lãnh nhận (29). Sau khi kết thúc Công Đồng (ngày 16 tháng 4 năm 1565), Đức Giáo Hoàng cho phép giáo dân uống chén thánh trong một số điều kiện nhất định tại một số giáo tỉnh của Đức và các vùng lãnh thổ thừa kế của nhà Habsburgs.
85. Để trả lời phê phán của các nhà cải cách, không coi Thánh Lễ là lễ hy sinh, Công Đồng khẳng định rằng Thánh Lễ là lễ hy sinh chuộc tội, làm cho hy tế thập giá trở thành hiện thực. Công Đồng dạy rằng, vì trong Thánh Lễ, Chúa Kitô linh mục dâng cùng một của lễ hy sinh như trên thập giá, nhưng theo một cách khác, nên Thánh Lễ không phải là một sự lặp lại hy lễ một lần vĩnh viễn của Canvariô. Công Đồng xác định rằng Thánh lễ có thể được dâng để tôn kính các thánh và cho các tín hữu, còn sống và đã chết (30).
86. Sắc lệnh về các chức thánh xác định đặc điểm bí tích của việc phong chức và sự hiện hữu của phẩm trật Giáo Hội dựa trên pháp lệnh của Thiên Chúa (31).
Các cải cách mục vụ
87. Công Đồng cũng khởi diễn các cải cách mục vụ. Các sắc lệnh cải cách của nó cổ vũ việc công bố Lời của Thiên Chúa qua việc thành lập các chủng viện để đào tạo các linh mục cách tốt hơn và thông qua việc đòi phải giảng thuyết vào Chúa Nhật và các ngày lễ. Các giám mục và mục tử buộc phải cư ngụ trong các giáo phận và giáo xứ của họ. Công Đồng loại bỏ một số lạm dụng trong các vấn đề quyền tài phán, phong chức, bảo hộ, đặc quyền (benefice), và các ân xá, và cùng một lúc mở rộng quyền hạn của giám mục. Các ngài được ban quyền thăm viếng các giáo xứ đặc quyền miễn trừ (exempt parochial benefices) và giám sát công việc mục vụ của các dòng và các hội kinh sĩ miễn trừ. Nó qui định các công đồng giáo tỉnh và giáo phận. Để truyền đạt đức tin cách tốt hơn, Công Đồng khuyến khích thói quen lúc ấy mới xuất hiện nhằm viết các sách giáo lý, như các sách của (Thánh) Peter Canisius, và dự liệu sẽ viết cuốn Sách Giáo Lý Rôma.
Các hậu quả
88. Công Đồng Trent, dù phần lớn nhằm trả lời Phong Trào Cải Cách Thệ Phản, tuy không lên án các cá nhân hay cộng đồng, nhưng đã lên án các lập trường tín lý chuyên biệt. Vì các sắc lệnh tín lý của Công Đồng phần lớn nhằm đáp ứng điều nó coi là sai lạc của Thệ Phản, nên nó đã lên khuôn một môi trường luận chiến giữa người Thệ Phản và người Công Giáo, một cuộc luận chiến có xu hướng định nghĩa Đạo Công Giáo như là Đạo chống lại Thệ Phản. Trong phương thức này, nó phản ánh nhiều trước tác của Tuyên Tín Luthêrô, là các trước tác cũng định nghĩa các lập trường Luthêrô bằng các chống đối. Các quyết định của Công Đồng Trent đặt nền tảng cho việc hình thành căn tính Công Giáo cho tới tận Công đồng Vatican II.
89. Đến cuối kỳ họp thứ ba của Công Đồng Trent, người ta phải tỉnh táo thừa nhận rằng sự hợp nhất của Giáo Hội ở thế giới Tây Phương đã bị tan vỡ. Các cơ cấu mới của Giáo Hội đã được triển khai tại các lãnh thổ của người Luthêrô. Hòa Ước Augsburg năm 1555, thoạt đầu, đã bảo đảm được các mối tương quan chính trị ổn định, nhưng nó không ngăn chặn được cuộc xung đột lớn của Châu Âu ở thế kỷ XVII, tức cuộc Chiến Tranh Ba Mươi Năm (1618-1648). Việc thành lập ra các nhà nước duy thế tục với những đặc điểm duy tuyên tín mạnh mẽ vẫn là một gánh nặng thừa hưởng từ thời kỳ Cải Cách.
Công Đồng Vatican II
90. Dù Công Đồng Trent phần lớn để xác định các mối tương quan của người Công Giáo với người Luthêrô trong nhiều thế kỷ, nhưng hiện nay, di sản của nó phải được nhìn qua lăng kính hành động của Công Đồng Vatican II (1962-1965). Công Đồng này đã giúp Giáo Hội Công Giáo có khả năng bước vào phong trào đại kết và để lại đằng sau không khí nặng mùi luận chiến của thời đại hậu Cải Cách. Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), Sắc Lệnh về Đại Kết (Unitatis Redintegratio), Tuyên bố về Tự Do Tôn Giáo (Dignitatis Humanae), và Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải (Dei Verbum) là các văn kiện nền tảng cho phong trào đại kết của Công Giáo. Vatican II, trong khi khẳng định rằng Giáo Hội của Chúa Kitô tồn tại (subsist) trong Giáo Hội Công Giáo, cũng thừa nhận rằng "nhiều yếu tố thánh hóa và chân lý được tìm thấy ở bên ngoài cơ cấu hữu hình của nó. Những yếu tố này, như những hồng phúc thuộc về Giáo Hội của Chúa Kitô, là các lực lượng thúc đẩy ta tiến tới sự hợp nhất phổ quát"(LG 8). Có một sự đánh giá tích cực điều người Công Giáo có chung với các Giáo Hội Kitô giáo khác như các kinh tin kính, phép rửa, và Kinh Thánh. Nền thần học về sự hiệp thông Giáo Hội đã khẳng định rằng người Công Giáo đang ở trong sự hiệp thông thực sự, tuy không hoàn hảo, với tất cả những ai tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô và đã chịu phép rửa (UR 2).
Vũ Văn An
Kỳ sau: Chương IV: Chủ đề cơ bản của thần học Martin Luther dưới ánh sáng các cuộc đối thoại Luthêrô-Công Giáo Rôma