Tin Mừng Gio-an trình bày những yếu tố gây khủng hoảng trong cộng đoàn các môn đệ, đồng thời gợi lên nơi độc giả những yếu tố khủng hoảng đức tin ngày hôm nay. Người môn đệ có thể gặp khủng hoảng vì giáo huấn của Đức Giê-su; vì để mình thuộc về “bóng tối”; vì không biết, không hiểu lời Đức Giê-su; vì tưởng là Đức Giê-su vắng mặt và vì bị thế gian thù ghét và bách hại. Những yếu tố khủng hoảng này có thể làm lung lay niềm tin vào Đức Giê-su và có nguy cơ làm cho người môn đệ vấp ngã. Vì thế, cách hiệu quả nhất để vượt qua khủng hoảng niềm tin là không ngừng học hỏi giáo huấn của Đức Giê-su để xây dựng tương quan mật thiết và sống hiệp thông với Người.
Khủng hoảng niềm tin và giải pháp để giữ vững niềm tin trong Tin Mừng Gio-an
[The article in English] Crisis of faith and solution to overcome it in the Gospel of John
Tác giả: Giuse LÊ MINH THÔNG, O.P.
josleminhthong@gmail.com
Ngày 09 tháng 12 năm 2012
Nội dung
Dẫn nhập
I. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng niềm tin
1. Khủng hoảng vì giáo huấn của Đức Giê-su
2. Khủng hoảng vì thuộc về “bóng tối”
3. Khủng hoảng vì không biết
4. Khủng hoảng vì nghĩ Đức Giê-su vắng mặt
5. Khủng hoảng vì bị thế gian thù ghét và bách hại
II. Làm gì để giữ vững niềm tin?
1. Thực hành giáo huấn của Đức Giê-su
2. “Ở lại trong nhau” (Đức Giê-su – môn đệ)
3. Sự ở lại của Chúa Cha, Đức Giê-su, Đấng Pa-rác-lê
4. Bình an và niềm vui Đức Giê-su ban tặng
5. Hoạt động của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ
Kết luận
Dẫn nhập
“Tin” (pisteuô) là đề tài quan trọng trong Tin Mừng Gio-an, điều này đã phân tích trong mục từ TIN (pisteuô) trong Tin Mừng Gio-an. Bài viết này sẽ trình bày những yếu tố gây khủng hoảng niềm tin và giải pháp để vượt qua khủng hoảng, nhờ đó giữ vững niềm tin vào Đức Giê-su và sống niềm vui và bình an của Đức Giê-su ban tặng. Các trích dẫn Tin Mừng Gio-an lấy trong Bản văn Gio-an, Tin Mừng và Ba thư Hy Lạp – Việt.
I. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng niềm tin
Có nhiều yếu tố trong Tin Mừng Gio-an cho thấy tình trạng khủng hoảng niềm tin nơi các môn đệ. Có thể kể đến năm nguyên nhân gây ra khủng hoảng niềm tin:
(1) Khủng hoảng vì giáo huấn của Đức Giê-su.
(2) Khủng hoảng vì thuộc về “bóng tối”.
(3) Khủng hoảng vì không biết.
(4) Khủng hoảng vì nghĩ Đức Giê-su vắng mặt.
(5) Khủng hoảng vì bị thế gian thù ghét và bách hại.
1. Khủng hoảng vì giáo huấn của Đức Giê-su
Có thể chia ch. 6 Tin Mừng Gio-an thành bốn phần: (1) Trước hết là trình thuật Đức Giê-su thực hiện dấu lạ bánh hoá nhiều cho hơn năm ngàn người ăn no (6,1-15). (2) Sau đó, Người bày tỏ quyền năng bằng cách đi trên mặt biển hồ Ti-bê-ri-a đến với các môn đệ trong đêm tối (6,16-21) vào lúc “Biển đầy gió lớn đang thổi và giật mạnh” (6,18). (3) Tiếp theo là diễn từ bánh sự sống (6,25-59). (4) Phần cuối Ga 6 là phản ứng của các môn đệ về mặc khải của Đức Giê-su.
Qua những trao đổi và thắc mắc của đám đông và những người Do Thái, Đức Giê-su mặc khải những điểm thần học quan trọng về nguồn gốc và sứ vụ của Người. Theo mạch văn, các môn đệ hiện diện với Đức Giê-su trong tất cả các biến cố trên. Họ đã chứng kiến hai dấu lạ (6,1-15; 6,16-21) và đã nghe diễn từ bánh sự sống (6,25-59). Từ những gì đã thấy và đã nghe, nhiều người trong số các môn đệ đã thốt lên: “Lời này chướng tai quá! Ai có thể nghe nổi?” (6,60). Người thuật chuyện cho biết đã xảy ra điều đáng tiếc: “Từ lúc đó, nhiều môn đệ của Người bỏ đi và không còn đi với Người nữa” (6,66). Quyết định thôi không làm môn đệ Đức Giê-su nữa là khủng hoảng lớn về niềm tin vào Đức Giê-su. Tại sao nhiều môn đệ lại quyết định bỏ đi không làm môn đệ của Người nữa?
Các môn đệ quyết định rời bỏ Đức Giê-su là những người đã tin vào Người, vì họ được gọi là “môn đệ” (mathêtês) của Đức Giê-su (6,16.60.61.66). Họ vừa chứng kiến hai dấu lạ (6,1-15.16-21) và nghe diễn từ về bánh sự sống (6,25-59), trong đó Đức Giê-su mặc khải về nguồn gốc và căn tính của Người: Người là ai? Từ đâu tới? Ai có khả năng ban sự sống đời đời cho con người? Con người cần làm gì để có sự sống đời đời?... Những lời mặc khải của Đức Giê-su đầy nghịch lý. Nguồn gốc của Người là nghịch lý, bởi vì Đức Giê-su vừa là con ông Giu-se (6,42) vừa là Đấng từ trời xuống (6,38). Sứ vụ của Đức Giê-su cũng nghịch lý, bởi vì Đức Giê-su sẽ chết trên thập giá để ban sự sống đời đời cho người tin. Tại sao phải chết để ban sự sống? Người chết có thể ban sự sống được sao? Nghịch lý này diễn tả qua kiểu nói: “Ăn thịt và uống máu”. Đức Giê-su khẳng định: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì có sự sống đời đời, và Tôi sẽ làm cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (6,54). Như thế, chỉ những ai tin vào Đức Giê-su và hiệp thông với Người trong biến cố Thương Khó – Phục Sinh, mới được đón nhận sự sống đời đời. (Xem phân tích đoạn văn Ga 6,1-71 trongPhân tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư,tr. 110-146).
Nhiều môn đệ đã không chịu nổi những lời mặc khải của Đức Giê-su nên đã xầm xì: “Lời này chướng tai quá! Ai có thể nghe nổi?” (6,60). Trong mạch văn cụm từ “lời này” (ho logos houtos) gợi đến toàn bộ diễn từ bánh hằng sống của Đức Giê-su (6,25-59). Sau lời xầm xì của nhiều môn đệ, người thuật chuyện cho biết: “Đức Giê-su tự mình biết là các môn đệ của Người đang xầm xì về điều ấy,Người nói với các ông: ‘Điều đó làm anh em vấp ngã sao?’” (6,61). Nhiều môn đệ đã vấp ngã vì giáo huấn của Đức Giê-su. Nói cách khác, chính mặc khải của Đức Giê-su dẫn đến khủng hoảng niềm tin và đã có nhiều môn đệ không vượt qua được thử thách này, vì thế họ đã quyết định thôi, không làm môn đệ Đức Giê-su nữa. Họ vấp ngã vì đã hiểu lời của Đức Giê-su theo nghĩa “xác thịt” mà “xác thịt thì chẳng có ích gì” (6,63). Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thần khí thì làm cho sống, xác thịt chẳng có ích gì. Những lời chính Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (6,63). Các môn đệ bị vấp ngã vì họ đã không mở lòng ra để đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa như là điều kiện để đến với Đức Giê-su và tin vào Người. Trong diễn từ, Đức Giê-su nói ở 6,44a: “Không ai có thể đến với Tôi, nếu Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy” và ở 6,45b: “Mọi người nghe Cha và đón nhận giáo huấn của Người thì đến với Tôi.”
Đoạn văn 6,61-70 nói về phản ứng của các môn đệ gồm hai tiểu đoạn: Trong tiểu đoạn 1 (1,61-66) Đức Giê-su nói với “nhiều môn đệ”, và trong tiểu đoạn 2 (6,67-71) Đức Giê-su nói với Nhóm Mười Hai, như thế, bên cạnh Nhóm Mười Hai còn có nhiều môn đệ khác nữa. Nhiều môn đệ không thuộc Nhóm Mười Hai đã vấp ngã vì không hiểu giáo huấn của Đức Giê-su. Còn Nhóm Mười Hai thì sao? Họ phản ứng thế nào? Khi Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: “Phần anh em, anh em không muốn bỏ đi sao?” (6,67). Si-môn Phê-rô đại diện Nhóm tuyên xưng niềm tin: “68 Thưa Thầy, chúng con sẽ bỏ đi với ai? Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin và đã nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (6,68-69). Lời tuyên xưng này cho thấy hai cách hiểu đối lập nhau liên quan đến mặc khải của Đức Giê-su. Ở 6,60, nhiều môn đệ cho rằng giáo huấn của Đức Giê-su là “lời chướng tai không ai nghe nổi, ngược lại ở 6,68, Nhóm Mười Hai lại nhận ra đó là “lời đem lại sự sống đời đời.” Như thế, cách thức và thái độ nghe lời Đức Giê-su, dẫn con người đến tin hay không tin vào Đức Giê-su. Nói cách khác, không biết cách học hỏi và lắng nghe giáo huấn của Đức Giê-su, thì chính lời của Người có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng niềm tin. Trong đoạn văn Ga 6,60-71, Nhóm Mười Hai đã ở lại, nhưng Đức Giê-su lại báo trước một khủng hoảng khác ngay giữa Nhóm Mười Hai: Khủng hoảng vì thuộc về “bóng tối”, thuộc về thế lực đen tối.
2. Khủng hoảng vì thuộc về “bóng tối”
Sau khi Si-môn Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng niềm tin (6,68-69), Đức Giê-su không khen mà lại báo trước sự khủng hoảng về lòng trung tín của một môn đệ trong Nhóm Mười Hai. Đức Giê-su nói với họ: “Chẳng phải chính Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em là quỷ” (6,70). Cuộc trao đổi giữa Đức Giê-su và Nhóm Mười Hai kết thúc ở đây. Lời báo trước: “Một người trong anh em là quỷ” có thể hiểu là yếu tố gây khủng hoảng giữa Nhóm Mười Hai, bởi vì lời tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su vừa nói ra (6,68-69) không thể dung hoà với ý tưởng “một người trong anh em là quỷ” (6,70b), nghĩa là có một người trong Nhóm Mười Hai thuộc về bóng tối, thuộc về thế lực đen tối, “thuộc về quỷ”, “làm công việc của quỷ.” Ở 8,44, Đức Giê-su đã nói với những người Do Thái điều này: “Các ông thuộc về quỷ là cha các ông, và các ông muốn làm những ước muốn của cha các ông” (8,44a). Những người Do Thái trong đoạn văn 8,31-59 không những không đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su mà còn tìm cách giết Người (8,37.40). Hành động này đã làm cho họ thuộc về quỷ, có cha là quỷ và đang làm công việc của quỷ (8,44). Trong viễn cảnh này, khi nói “một người trong anh em là quỷ” (6,70), Đức Giê-su báo trước về “một người trong Nhóm Mười Hai” sẽ tiếp tay vào việc giết Đức Giê-su.
Vậy ai là quỷ ở 6,70? Nhóm Mười Hai là nhân vật trong câu chuyện, họ chưa biết ai là quỷ trong số họ, vì Đức Giê-su không giải thích gì thêm cho Nhóm Mười Hai về lời Người nói ở 6,70. Điều này gây ra khủng hoảng trong nội bộ Nhóm Mười Hai, vì không ai biết ai là quỷ, nhưng có “quỷ” ngay giữa Nhóm. Đức Giê-su sẽ chỉ cho các môn đệ biết người đó là ai trong bữa tiệc ly ở ch. 13. Nhưng, ngay từ 6,71, độc giả đã biết người đó là ai, bởi vì người thuật chuyện giải thích cho độc giả ở 6,71: “Người [Đức Giê-su] nói về Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt; vì ông ấy sẽ nộp Người, một người trong Nhóm Mười Hai.”
Trong Tin Mừng Gio-an, nhân vật Giu-đa là yếu tố khủng hoảng trầm trọng đối với chính Giu-đa và đối với nhóm các môn đệ. Đoạn văn 13,1-32, cung cấp đôi nét về nhân vật này. Nhân vật Giu-đa trong Tin Mừng Gio-an được xác định bởi bốn tương quan: (1) Tương quan với gia đình: Ông được gọi là “Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt” (6,71). (2) Tương quan với Đức Giê-su: Giu-đa được gọi là “kẻ nộp Thầy” (6,64; 13,2.11.21). (3) Tương quan với Nhóm Mười Hai: Giu-đa được gọi là “một người trong Nhóm Mười Hai” (6,71). (4) Tương quan với thế lực bóng tối: Giu-đa là “quỷ” (6,70). Tương quan thứ tư này được nhấn mạnh trong đoạn văn 13,1-32. Người thuật chuyện nói về Giu-đa khi bắt đầu kể về bữa tiệc ly: “Trong bữa ăn, quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Người [Đức Giê-su]” (13,2). Khi Đức Giê-su chấm miếng bánh và trao cho Giu-đa như là dấu hiệu để các môn đệ khác biết ai là kẻ sẽ nộp Thầy (13,26), người thuật chuyện cho biết: “Và khi nhận miếng bánh, Xa-tan liền nhập vào ông ấy [Giu-đa]” (13,27a). Theo cách trình bày của Tin Mừng Gio-an, câu chuyện về Giu-đa tiến triển qua bốn giai đoạn: (1) Đức Giê-su cho biết Giu-đa là quỷ ở 6,70. (2) Đến 13,2 thì quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa ý định nộp Đức Giê-su. (3) Sau khi đã nhận miếng bánh Đức Giê-su trao, thì Xa-tan đã nhập vào Giu-đa ở 13,27. (4) Cuối cùng, Giu-đa ra đi thực hiện công việc của quỷ. Người thuật chuyện kết thúc câu chuyện về Giu-đa như sau: “Sau khi nhận lấy miếng bánh, ông ấy đi ra ngay lập tức. Lúc đó, trời đã tối” (13,30). Nhân vật Giu-đa sẽ xuất hiện trở lại trong trình thuật Đức Giê-su bị bắt (18,1-3) nhưng ông hoàn toàn đứng về phía những kẻ tìm giết Đức Giê-su.
Như thế, Giu-đa đã để mình thuộc về thế lực đen tối và ông đi vào đêm tối để thực hiện công việc của quỷ (x. 8,44). Nhân vật Giu-đa trong trình thuật 13,1-32 không bày tỏ cảm xúc và ông không nói lời nào cả. Sự im lặng và vô cảm này làm cho nhân vật Giu-đa trở thành công cụ của quỷ và Xa-tan. Nhân vật Giu-đa, một môn đệ thuộc Nhóm Mười Hai, là hình ảnh người môn đệ ở trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng về lòng trung tín với Thầy. Lý do là ông đã để mình thuộc về quỷ, có lẽ vì ông không thực sự biết Đức Giê-su là ai. Đối với Nhóm Mười Hai, sự hiện diện của Giu-đa cũng như sự vắng mặt của nhân vật này trở thành yếu tố khủng hoảng cho Nhóm Mười Hai, bởi vì Giu-đa là thành viên của Nhóm. Giu-đa đã để lại dấu ấn trong Nhóm Mười Hai về vấn đề hiệp nhất giữa các môn đệ và về lòng trung tín của từng môn đệ với Thầy. Nhân vật Giu-đa là ví dụ điển hình về khủng hoảng niềm tin, bởi vì ngay cả thành viên của Nhóm Mười Hai, là nhóm môn đệ quyết định ở lại với Đức Giê-su và đã tuyên xưng niềm tin đích thực vào Người (6,68-69), vẫn có thể vấp ngã. (Xem phân tích nhân vật Giu-đa Ít-ca-ri-ốt trong tập sách KHỦNG HOẢNG VÀ GIẢI PHÁP cho các môn đệ trong Tin Mừng thứ tư, tr. 80-91).
3. Khủng hoảng vì không biết
Sự không biết của các môn đệ về Đức Giê-su, về vai trò và sứ vụ của Người, là những yếu tố gây khủng hoảng niềm tin. Sự không hiểu, không biết mặc khải cũng như không biết ý nghĩa của những biến cố đang xảy ra đã làm cho các môn đệ rơi vào trình trạng xao xuyến và sợ hãi. Đề tài “khủng hoảng vì không biết” này được trình bày trong Ga 13–16.
Trong bữa ăn cuối cùng giữa Đức Giê-su và các môn đệ (Ga 13), Phê-rô đã không hiểu ý nghĩa hành động Đức Giê-su rửa chân cho ông. Phê-rô quả quyết với Đức Giê-su: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con” (13,8a). Trên bình diện trần thế, phản ứng của Phê-rô bày tỏ lòng tôn trọng Thầy mình. Đức Giê-su là Thầy, là Chúa sao lại rửa chân cho môn đệ được. Nhưng khi Đức Giê-su nói với Phê-rô: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng có phần với Thầy” (13,8b) thì Phê-rô lại muốn điều ngược lại. Từ chỗ không chịu để Thầy rửa chân đến chỗ đòi rửa chân, tay và đầu. Phê-rô xin Đức Giê-su: “Thưa Thầy, không chỉ rửa chân con, nhưng cả tay và đầu” (13,9). Hình như Phê-rô muốn bằng mọi giá “có phần với Thầy” và có càng nhiều càng tốt. Bản văn có nét châm biếm và hài hước vì Phê-rô tưởng là mình biết, nhưng thực ra ông không hiểu và không biết điều mình xin. Bằng chứng là Đức Giê-su không đáp ứng cả hai lời yêu cầu của Phê-rô. Đức Giê-su không làm theo yêu cầu của Phê-rô vì ông đã không hiểu ý nghĩa của hành động rửa chân và ông phản ứng theo suy nghĩ trần thế. Cả hai lời xin ở hai thái cực (không rửa gì cả - rửa hết) đều không được toại nguyện. Trong bối cảnh này, Phê-rô đang ở trong tình trạng khủng hoảng vì không hiểu việc làm (rửa chân, x. 13,8a) và lời nói (có phần, x. 13,8b) của Thầy.
Bản văn Ga 13–16 cho thấy các môn đệ còn không biết nhiều thứ khác. Chẳng hạn, các môn đệ không biết ai là kẻ sẽ nộp Thầy. Thực vậy, khi Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (13,21), “Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai” (13,22). Sau khi Đức Giê-su chấm miếng bánh và trao cho Giu-đa con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt (13,26), nghĩa là các môn đệ biết ai là kẻ nộp Thầy, thì điều lạ lùng là không môn đệ nào phản ứng gì về điều này, mà họ lại rơi vào tình trạng không biết về một chuyện khác. Các môn đệ đã không biết ý nghĩa lời Đức Giê-su nói với Giu-đa ở 13,27: “Anh làm gì thì làm mau đi”. Người thuật chuyện cho biết ở 13,28-29: “28 Không ai trong những người đang dùng bữa biết tại sao Người nói với ông ấy như thế 29 Vì Giu-đa giữ túi tiền, có vài người nghĩ là Đức Giê-su nói với ông ấy: ‘Anh hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ’, hoặc bố thí cho người nghèo.” Một người trong Nhóm Mười Hai đi nộp Thầy mà không ai biết người ấy đi đâu và làm gì. Khủng hoảng về sự không biết này sẽ bùng nổ khi biến cố xảy ra như Đức Giê-su đã báo trước ở 16,32: “Này đến giờ – và đã đến rồi – anh em sẽ bị phân tán mỗi người về nhà mình và bỏ lại Thầy một mình.Nhưng Thầy không ở một mình vì Cha ở với Thầy.”
Đề tài các môn đệ không biết, không hiểu, chưa hiểu về Đức Giê-su và về giáo huấn của Người còn bộc lộ qua những câu hỏi. Chẳng hạn, Phê-rô hỏi Đức Giê-su:“Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” (13,36) “Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo Thầy bây giờ được?” (13,37). Tô-ma hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con có thể biết đường?” (14,5). Ngay trước lúc Đức Giê-su bước vào biến cố Giờ của Người mà các môn đệ không biết Thầy đi đâu, không biết mình đi con đường nào là những yếu tố khủng hoảng trong nhóm các môn đệ.
Đồng thời, việc các môn đệ đặt câu hỏi cũng là kỹ thuật hành văn của người thuật chuyện. Qua lối hành văn: Các môn đệ hỏi, Đức Giê-su trả lời, người thuật chuyện trình bày Đức Giê-su như là Đấng mặc khải, Đấng biết mọi sự. Người trả lời những thắc mắc của các môn đệ, cũng là thắc mắc của cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I và của độc giả qua mọi thời đại. Qua lối hành văn “hỏi - đáp”, Đức Giê-su mặc khải ý định của Chúa Cha và mặc khải về căn tính và sứ vụ của Người. Như thế, biết giáo huấn của Đức Giê-su sẽ giúp độc giả vượt qua khủng hoảng và giữ vững niềm tin.
4. Khủng hoảng vì nghĩ Đức Giê-su vắng mặt
Trong Ga 13–16, các môn đệ đang bị khủng hoảng trầm trọng vì Đức Giê-su sắp đi về với Cha của Người qua biến cố Thương Khó – Phục Sinh. Các môn đệ đang buồn rầu, xao xuyến và sợ hãi. Đức Giê-su khích lệ các môn đệ ở đầu ch. 14: “Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy” (14,1). Đến cuối ch. 14 Đức Giê-su ban bình an của Người cho các môn đệ và nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (14,27). Biến cố Đức Giê-su đi về với Cha đã làm cho “nỗi ưu phiền tràn ngập lòng” các môn đệ như Đức Giê-su đã nói: “Vì Thầy nói ra các điều ấy, nỗi ưu phiền tràn ngập lòng anh em” (16,6). Tuy nhiên Đức Giê-su hứa sẽ gặp lại họ. Người nói với các môn đệ: “Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ lại thấy anh em, và lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy khỏi anh em được” (16,22).
Hoàn cảnh buồn rầu, xao xuyến và sợ hãi của các môn đệ trước biến cố Thương Khó trong Tin Mừng Gio-an gợi đến sự khủng hoảng của cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ thứ I về sự hiện diện của Đức Giê-su. Trong lúc cộng đoàn đang gặp khó khăn thử thách thì Đức Giê-su như thể không hiện diện với cộng đoàn. Không thấy Đức Giê-su lên tiếng, cộng đoàn cảm giác như thể bị bỏ rơi và đang sống trong tình trạng mồ côi. Trong hoàn cảnh này, lời Đức Giê-su nói với các môn đệ cũng là lời Người nhắn gửi cộng đoàn: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến với anh em” (14,18). Ngày nay, cảm nhận về Đức Giê-su vắng mặt vẫn còn đó. Sự im lặng của Đức Giê-su có thể làm cho lòng trông cậy bị sa sút và lòng tin bị lung lay. Nhiều người tin tự hỏi, nếu có Chúa hiện diện thì làm sao lại có thể xảy ra những chuyện đau thương, bi đát và bất công như thế được. Nhận ra sự hiện diện của Đức Giê-su trong mọi hoàn cảnh là thách đố lớn của niềm tin. Làm thế nào nhận ra Đức Giê-su đang ở với mình? Phần sau sẽ trình bày gợi ý câu trả lời theo Tin Mừng Gio-an.
5. Khủng hoảng vì bị thế gian thù ghét và bách hại
Trong đoạn văn Ga 15,18–16,4a, Đức Giê-su báo cho các môn đệ biết họ sẽ bị thế gian thù ghét và bách hại: “18 Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19 Nếu anh em thuộc về thế gian, thế gian đã yêu thích cái gì là của riêng nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, vì điều này, thế gian ghét anh em” (15,18-19).
Thế gian ghét các môn đệ, thế gian này là ai? Để trả lời câu hỏi này, cần xác định nghĩa của từ “thế gian” (kosmos) theo thần học Tin Mừng Gio-an. Trong bài viết “Thế gian là gì? Thế gian là ai? Trong Tin Mừng Gio-an” đã trình bày năm nghĩa của từ Hy Lạp “kosmos” (thế gian) trong Tin Mừng Gio-an. Đó là “thế gian vũ trụ”, “thế gian trái đất”, “thế gian nhân loại”, “thế gian chưa tin” và “thế gian thù ghét”. Các nghĩa này được dùng để xây dựng thần học Tin Mừng Gio-an, qua đó diễn tả tương quan giữa những thực tại trần thế và sứ vụ của Đức Giê-su. Thần học Tin Mừng Gio-an định nghĩa “thế gian thù ghét” trong tương quan với Đức Giê-su và với các môn đệ. Vì ghét Đức Giê-su và ghét các môn đệ nên thế gian này được gọi là “thế gian thù ghét.” Đó là một nhóm người đã nghe những lời Đức Giê-su nói và đã thấy những dấu lạ Người làm nhưng họ vẫn không tin vào Đức Giê-su (15,22-24). “Thế gian thù ghét” trong Tin Mừng Gio-an vừa gợi đến những kẻ chống đối Đức Giê-su trong sứ vụ công khai của Người (những người Do Thái, những người Pha-ri-sêu và các thượng tế). Họ là những người không tin, chống đối, thù ghét và tìm cách giết Đức Giê-su. “Thế gian thù ghét” cũng gợi đến những kẻ bách hại cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I và những kẻ bách hại người tin qua mọi thời đại.
Lý do thế gian thù ghét các môn đệ là vì các môn đệ không thuộc về thế gian và vì các môn đệ được Đức Giê-su tuyển chọn. Vì được chọn, nên các môn đệ thuộc về Đức Giê-su chứ không thuộc về thế gian. Đức Giê-su giả thiết rằng: “Nếu anh em thuộc về thế gian, thế gian đã yêu thích cái gì là của riêng nó”, nghĩa là nếu các môn đệ thuộc về thế gian, họ sẽ được thế gian yêu mến và đương nhiên sẽ không bị thù ghét. Nhưng nếu thuộc về thế gian thì các môn đệ lại không thuộc về Đức Giê-su, tức là cành nho (các môn đệ) không còn trên thân nho (Đức Giê-su) nữa. Trong trường hợp này, hậu quả sẽ như lời Đức Giê-su nói ở 15,6: “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và bị khô héo. Người ta thu lượm chúng, bỏ vào lửa và chúng bị đốt cháy.” Như thế, các môn đệ ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Tin vào Đức Giê-su, thuộc về Đức Giê-su thì có sự sống đời đời, nhưng lại có nguy cơ bị thử thách và bách hại. Không tin vào Đức Giê-su, nghĩa là thuộc về thế gian thì được thế gian yêu mến, nhưng lại bị hư mất, bị loại ra ngoài và không có sự sống của Thiên Chúa nơi mình.
Hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan như trên vẫn kéo dài suốt dòng lịch sử. Cụ thể là cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I đang gặp khó khăn thử thách, thậm chí mạng sống các thành viên trong cộng đoàn bị đe dọa. Đức Giê-su báo cho các môn đệ biết điều đó khi nói: “Họ sẽ làm cho anh em thành những người bị khai trừ khỏi hội đường. Sẽ đến giờ, kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa” (16,2). Đức Giê-su báo trước cho các môn đệ biết để họ giữ vững niềm tin. Người nói: “Những điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em không bị vấp ngã” (16,1). Lời này cho thấy, trong hoàn cảnh bị bách hại, có thể đã xảy ra trường hợp vấp ngã và chối bỏ niềm tin. Một số môn đệ có thể đã để quỷ gieo vào lòng mình những ý định đen tối, đã để mình thuộc về quỷ và làm công việc của quỷ như Giu-đa (6,71; 13,2.27.30). Việc Phê-rô chối Thầy được Đức Giê-su báo trước (13,38) và được thuật lại chi tiết (18,17.25.26-27) trong Tin Mừng Gio-an gợi đến tình trạng khủng hoảng của cộng đoàn, có thể một số môn đệ đã thầm kín hay công khai chối Thầy như Phê-rô.
Tin Mừng Gio-an gợi lên những yếu tố khủng hoảng niềm tin, đồng thời chính bản văn Tin Mừng đã cho độc giả biết phải làm gì để tránh vấp ngã. Trong hoàn cảnh khó khăn và thử thách đến từ bên trong và bên ngoài cộng đoàn như đã trình bày, Đức Giê-su đã động viên các môn đệ nhiều điều. Đặc biệt lời cuối cùng Đức Giê-su nói với các môn đệ trong các diễn từ từ biệt (Ga 13–16), cũng là lời Đức Giê-su khích lệ cộng đoàn Gio-an cuối thế kỷ thứ I và các môn đệ qua mọi thời đại đang gặp khó khăn thử thách. Đức Giê-su kết thúc những lời từ biệt như sau: “Những điều này, Thầy nói với anh em để trong Thầy, anh em có sự bình an. Trong thế gian, anh em có sự khốn khó, nhưng anh em hãy can đảm, chính Thầy đã thắng thế gian” (16,33). Trong ch. 13–16, ngoài những lời khích lệ, Đức Giê-su còn mặc khải những giải pháp thiết thực để các môn đệ vượt qua thử thách. Những giải pháp đó là gì?
II. Làm gì để giữ vững niềm tin?
Có nhiều việc cần làm để giữ vững niềm tin, nhưng có thể quy vào điều này: Lắng nghe và đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su để có thể sống và ở lại trong lời của Người. Phần sau bàn đến các giải pháp giúp vượt qua khủng hoảng niềm tin qua năm mục:
(1) Thực hành giáo huấn của Đức Giê-su.
(2) Xây dựng tương quan với Đức Giê-su bằng cách “ở lại trong nhau” (Đức Giê-su – môn đệ).
(3) Xác tín sự ở lại của Chúa Cha, Đức Giê-su, Đấng Pa-rác-lê nơi mình.
(4) Sống niềm vui và bình an của Đức Giê-su ban tặng.
(5) Mở lòng ra đón nhận hoạt động của Đấng Pa-rác-lê.
1. Thực hành giáo huấn của Đức Giê-su
Trước những khó khăn thử thách xảy đến vì “tin vào Đức Giê-su” như trên, chính Đức Giê-su đã an ủi và khích lệ các môn đệ giữ vững niềm tin. Vì thế, cách tốt nhất để xây dựng tương quan mật thiết và bền vững với Đức Giê-su là học hỏi giáo huấn của Người. Theo thần học Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su đã trao ban toàn bộ mặc khải cho các môn đệ. Người nói với các môn đệ vào cuối sứ vụ công khai: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết điều chủ mình làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe nơi Cha của Thầy, Thầy đã làm cho anh em biết” (15,15). Tất cả những gì Đức Giê-su đã nghe nơi Cha của Người, Người đã làm cho các môn đệ biết hết. Nghĩa là toàn bộ mặc khải đã được trao ban cho các môn đệ, không cần phải đi tìm ở nơi nào khác; nhưng các môn đệ đã hiểu hay chưa hiểu mặc khải lại là chuyện khác. Bối cảnh Ga 13–16 cho thấy các môn đệ chưa thể hiểu hết mặc khải ấy, vì họ đang sống trong tâm trạng buồn sầu, xao xuyến và sợ hãi, nên họ không mang nổi những lời giáo huấn của Đức Giê-su. Người nói với các môn đệ: “Thầy vẫn có nhiều điều để nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không thể mang nổi” (16,12). Chỉ sau khi Đức Giê-su đi về với Cha và Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – được gửi tới, lúc này Đấng Pa-rác-lê sẽ dẫn các môn đệ đi trong sự thật toàn vẹn (16,13) và dạy các môn đệ mọi điều Đức Giê-su đã nói (14,26), xem giải thích tại sao lại gọi là “Đấng Pa-rác-lê” trong ĐẤNG PA-RÁC-LÊ – Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư, tr. 73-80 và mục từ “PA-RÁC-LÊ (Đấng), dt., Paraklêtos, trong Tin Mừng Gio-an”).
Như thế, việc lắng nghe, học hỏi và tìm hiểu giáo huấn của Đức Giê-su dưới sự hướng dẫn của Đấng Pa-rác-lê là việc làm suốt cả đời người môn đệ. Nhờ Đấng Pa-rác-lê dạy và hướng dẫn mà các môn đệ hiểu được ý nghĩa lời giáo huấn của Đức Giê-su trong từng hoàn cảnh sống cụ thể. Nghĩa là giáo huấn của Đức Giê-su là lương thực không hư nát, là bánh sự sống, là nước sự sống, là ánh sáng soi dẫn cuộc sống của người môn đệ. Nhờ được giáo huấn của Đức Giê-su soi sáng, người môn đệ sẽ tìm được ý nghĩa cao quý của lựa chọn tin vào Đức Giê-su và thuộc về Người. Có thể nói, toàn bộ nội dung mặc khải trong Tin Mừng Gio-an là giáo huấn của Đức Giê-su. Phần sau sẽ trình bày một số đề tài quan trọng giúp người môn đệ sống và giữ vững niềm tin.
2. “Ở lại trong nhau” (Đức Giê-su – môn đệ)
Lời mời gọi “ở lại trong nhau” (Đức Giê-su – môn đệ) được Đức Giê-su nói đến nhiều lần trong Tin Mừng Gio-an. “Ở lại trong nhau” theo thần học Tin Mừng Gio-an là bước vào tương quan với nhau cách chủ động và từ hai phía. “Đức Giê-su ở trong các môn đệ” và “các môn đệ ở trong Đức Giê-su.” Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,20: “Trong ngày đó, anh em sẽ biết rằng: Thầy trong Cha Thầy, anh em trong Thầy và Thầy trong anh em.” Ở lại trong nhau là điều kiện để tồn tại và sinh hoa trái (x. 15,1-8). Đức Giê-su mời gọi các môn đệ: “Anh em hãy ở lại trong Thầy, như Thầy trong anh em. Như cành nho không thể sinh hoa trái tự nó nếu không ở lại trong cây nho, anh em cũng không, nếu anh em không ở lại trong Thầy” (15,4).
Đề tài “ở lại trong nhau” giữa Đức Giê-su và các môn đệ gợi đến mặc khải quan trọng về đề tài “ở lại trong nhau” giữa Đức Giê-su và Cha của Người. Trong đoạn văn 14,8-11, Đức Giê-su nhấn mạnh tương quan này. Khi Phi-líp-phê nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, hãy tỏ cho chúng con Cha là đủ cho chúng con” (14,8), Đức Giê-su nói với Phi-líp-phê: “Anh (số ít) không tin rằng: Thầy trong Cha và Cha ở trong Thầy sao?” (14,10) Rồi Người mời gọi tất cả các môn đệ tin vào tương quan mật thiết giữa Người và Chúa Cha. Đức Giê-su nói tiếp: “Anh em (số nhiều) hãy tin Thầy: Thầy trong Cha và Cha trong Thầy” (14,11). Như thế, ở lại trong Đức Giê-su và được Đức Giê-su ở lại trong mình là bước vào tương quan hiệp thông sâu xa với Đức Giê-su, đồng thời tham dự vào tương quan mật thiết giữa Đức Giê-su và Cha của Người.
“Ở lại trong Đức Giê-su” còn là lựa chọn mang tính sống còn của người môn đệ: “Ở lại” là sống, “không ở lại” là chết, là hư mất, là “bị quăng ra ngoài như cành nho và bị khô héo” (15,6a). Như đã phân tích, “ở lại trong Đức Giê-su” đồng nghĩa với thuộc về Người. Điều này bao hàm nguy cơ bị thù ghét và bách hại. Như thế, lựa chọn “ở lại trong Đức Giê-su” đem lại sự sống đích thực cho người môn đệ, nhưng cũng hàm ẩn sự can đảm đón nhận thử thách gian nan. Tóm lại, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ ở lại trong Người và để Người ở lại trong từng môn đệ, đây là lời mời gọi hiệp thông trong tương quan lòng mến với Đức Giê-su và là một trong những giải pháp giúp các môn đệ vượt qua khủng hoảng niềm tin.
3. Sự ở lại của Chúa Cha, Đức Giê-su, Đấng Pa-rác-lê
Đức Giê-su mặc khải cho các môn đệ biết phải làm gì để được Chúa Cha, Đức Giê-su và Đấng Pa-rác-lê ở lại và đồng hành với mình. Lời hứa về sự ở lại của ba Đấng được trình bày trong đoạn văn 14,15-24. Ba Đấng sẽ đến và ở lại nơi các môn đệ với điều kiện các môn đệ “yêu mến Đức Giê-su” và “giữ các điều răn của Người”. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,15-16: “15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy; 16 và chính Thầy sẽ can thiệp với Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Pa-rác-lê khác để Người ở với anh em mãi mãi.” Ở 14,21 Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Ai có các điều răn của Thầy và giữ chúng, người ấy là người yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Chính Thầy sẽ yêu mến người ấy và Thầy sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” Đến 14,23, Đức Giê-su mặc khải cho các môn đệ: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời của Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Tôi sẽ đến với người ấy và sẽ làm chỗ ở nơi người ấy” (14,23).
Những trích dẫn trên cho thấy các môn đệ sẽ được cả Ba Đấng (Chúa Cha, Đức Giê-su, Đấng Pa-rác-lê), đến ở với họ với điều kiện là các môn đệ “yêu mến Đức Giê-su” (14,15.23), “giữ lời Người” (14,23); “có các điều răn” (14,21) và “giữ các điều răn của Người” (14,15). Các yếu tố này liên kết chặt chẽ đến mức có thể hoán chuyển cho nhau. Có thể nói, theo thần học Gio-an “yêu mến thì tuân giữ” (14,15) và ngược lại “tuân giữ thì yêu mến” (14,21), nghĩa là trong “yêu mến” có “tuân giữ” và trong hành động “tuân giữ” luôn bao hàm “yêu mến”.
“Các điều răn của Đức Giê-su” ở 14,15.21 song song với “lời của Đức Giê-su” ở 14,23, nên có thể hiểu “các điều răn” (số nhiều) là tất cả giáo huấn của Đức Giê-su được trình bày trong Tin Mừng Gio-an. Muốn biết thế nào là “yêu mến Đức Giê-su” và “các điều răn của Người” là gì, chỉ cần đọc toàn bộ sách Tin Mừng thì sẽ biết. Như thế, học hỏi Tin Mừng sẽ giúp các môn đệ nhận ra và sống điều Đức Giê-su hứa: Chính trong từng môn đệ có “sự hiện diện” và “sự ở lại” của Đức Giê-su, Chúa Cha và Đấng Pa-rác-lê. Sự ở lại huyền nhiệm của ba Đấng nơi các môn đệ là nguồn khích lệ và an ủi lớn lao trong hành trình làm môn đệ Đức Giê-su, nhất là những lúc gặp khó khăn thử thách.
4. Bình an và niềm vui Đức Giê-su ban tặng
Ngay trong lúc các môn đệ đang ở trong tình trạng xao xuyến và sợ hãi (14,27), Đức Giê-su hứa ban bình an và niềm vui của Người cho họ. Đề tài “niềm vui” và “bình an” trong Ga 14–17 mang đậm nét Ki-tô học, vì đó là “bình an của Đức Giê-su” và “niềm vui của Đức Giê-su” chứ không phải của thế gian, cũng không phải của Thiên Chúa. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Không như thế gian ban mà chính Thầy ban cho anh em. Lòng anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (14,27).
Ở 15,11, Đức Giê-su mong muốn niềm vui của Người trở thành niềm vui của các môn đệ, Người nói với họ: “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em và niềm vui của anh em được trọn vẹn” (15,11). “Các điều ấy” trong câu này là những điều Đức Giê-su vừa nói với các môn đệ trước đó. Trong mạch văn gần “các điều ấy” là 15,1-10, trong bối cảnh rộng hơn đó là những gì Đức Giê-su đã mặc khải từ 13,1 đến 15,10. Đối với độc giả “các điều ấy” được hiểu là giáo huấn của Đức Giê-su. Như thế, cần hiểu mặc khải của Đức Giê-su trong Tin Mừng mới có thể đón nhận niềm vui Đức Giê-su ban tặng và có khả năng làm cho niềm vui của Đức Giê-su trở thành niềm vui của chính mình.
Đó là niềm vui trọn vẹn và bền bỉ, bởi vì không ai có thể lấy niềm vui ấy khỏi các môn đệ được. Đức Giê-su nói với các môn đệ trước biến cố Thương Khó – Phục Sinh: “Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ lại thấy anh em, và lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy khỏi anh em được” (16,22). Lời cuối cùng Đức Giê-su nói với các môn đệ trong ch. 13–16 là lời ban bình an và khích lệ: “Những điều này, Thầy nói với anh em để trong Thầy, anh em có sự bình an. Trong thế gian, anh em có sự khốn khó, nhưng anh em hãy can đảm, chính Thầy đã thắng thế gian” (16,33). Động từ “ekhô” (có) trong cụm từ “có sự bình an” được chia ở thì hiện tại lối tiếp thuộc “ekhête”. Cách chia động từ này đề cao giá trị hiện tại. Theo mạch văn, cần hai điều kiện để có bình an của Đức Giê-su: Lắng nghe, đón nhận những gì Đức Giê-su mặc khải (16,33a). Tóm lại, có niềm vui và bình an Đức Giê-su ban tặng sẽ giúp các môn đệ giữ vững niềm tin. Họ sẽ vượt lên trên sự xao xuyến và sợ hãi (14,1.27), từ đó can đảm làm chứng cho niềm tin trong hoàn cảnh bị thế gian thù ghét và bách hại (15,18-21).
Đề tài “niềm vui” và “bình an” trong Ga 14–17 có thể hiểu theo “chiều ngang” và theo “chiều dọc”. Cách hiểu “chiều ngang” là hiểu theo giòng thời gian (trước – sau). Cách hiểu này phù hợp với bối cảnh lịch sử thời Đức Giê-su. Các môn đệ buồn rầu, sợ hãi, xao xuyến khi Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó. Nhưng các môn đệ sẽ vui mừng trong tương lai, khi Thầy trò gặp lại nhau sau biến cố Phục Sinh. Hiểu niềm vui và bình an theo chiều ngang đề cao biến cố nền tảng của niềm tin: Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giê-su. Biến cố quan trọng này có khả năng đem lại bình an và niềm vui đích thực cho các môn đệ. Tuy nhiên, sau biến cố Phục Sinh cộng đoàn các môn đệ vẫn gặp thử thách và bị bách hại. Cách hiểu “niềm vui” và “bình an” theo chiều dọc giúp các môn đệ sống và giữ vững niềm tin ngay trong lúc đang gặp thử thách và khủng hoảng.
Thật vậy, cách hiểu “chiều dọc” (trên – dưới) của đề tài “niềm vui” và “bình an” được áp dụng cho cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I và cho người tin qua mọi thời đại. Trong Ga 14–17, Đức Giê-su không chỉ hứa ban niềm vui và bình an “trong tương lai” (sau biến cố Phục Sinh) mà Người còn ban cho các môn đệ niềm vui và bình an “trong hiện tại” (ngay lúc các môn đệ đang xao xuyến và sợ hãi). Điều này rất có ý nghĩa đối với cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I, vì lúc ấy cộng đoàn đang bị khủng hoảng và bị thế gian thù ghét và bách hại.
Hiểu “niềm vui” và “bình an” theo chiều dọc là hiểu theo chiều từ trên xuống. “Bình an” và “niềm vui” của Đức Giê-su là ơn ban từ trên. Nghĩa là nhờ “bình an” và “niềm vui” từ trên (thượng giới) ban xuống mà các môn đệ có thể đón nhận hoàn cảnh sống ở trần gian (hạ giới) và nhờ đó vượt qua thử thách trong cuộc sống. Bình an và niềm vui của Đức Giê-su là những thực tại được ban từ trên cao, từ nơi Thiên Chúa. Cách hiểu theo chiều dọc giúp các môn đệ sống trọn vẹn hai thực tại đối lập nhau: “Niềm vui và nỗi buồn”, “khủng hoảng và bình an”. Nhưng các thực tại này được đặt trên hai bình diện khác nhau: “Nỗi buồn” và “khủng hoảng” là thực tại thuộc về hạ giới (thế gian này); “niềm vui” và “bình an” của Đức Giê-su là thực tại thuộc về thượng giới (thế giới của Thiên Chúa), nhưng được ban cho các môn đệ đang sống trong thế gian này.
Đọc và hiểu bản văn theo “chiều ngang” và “chiều dọc” như trên là một trong những nét độc đáo của thần học Tin Mừng Gio-an. Cách đọc này có ý nghĩa thiết thực vì vừa cho phép đề cao biến cố Thương Khó – Phục Sinh (hiểu chiều ngang), vừa cho phép hiện tại hóa không ngừng hoàn cảnh sống của các môn đệ (hiểu theo chiều dọc). Đức Giê-su còn mặc khải một giải pháp quan trọng khác, đó là vai trò và hoạt động của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ.
5. Hoạt động của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ
Sau khi Đức Giê-su về với Cha của Người, Đấng Pa-rác-lê được gửi đến với các môn đệ (16,7). Như thế, từ sau biến cố Thương Khó – Phục Sinh, các môn đệ qua mọi thời đại đang sống trong thời kỳ Đấng Pa-rác-lê hiện diện và hoạt động nơi mình và nơi cộng đoàn. Vai trò của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ là đề tài quan trọng trong Ga 14–16. Các môn đệ chỉ có thể đón nhận Đấng Pa-rác-lê với điều kiện: “Yêu mến Đức Giê-su” và “giữ các điều răn của Người” (14,15). Hoạt động phong phú của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ có thể quy về ba lãnh vực: (1) Đấng Pa-rác-lê ở với và hướng dẫn các môn đệ; (2) Đấng Pa-rác-lê giảng dạy và làm cho các môn đệ biết mặc khải của Đức Giê-su; (3) Đấng Pa-rác-lê làm chứng “trước” và “trong” các môn đệ. Xem mục từ: Đấng PA-RÁC-LÊ (Paraklêtos), trong Tin Mừng Gio-an và phân tích chi tiết về hoạt động của Đấng Pa-rác-lê trong ĐẤNG PA-RÁC-LÊ – Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư, tr. 153-330).
(1) Trước hết, Đấng Pa-rác-lê sẽ “ở với” các môn đệ, “ở giữa” cộng đoàn và “ở trong” từng môn đệ mãi mãi (14,16-17). Đấng Pa-rác-lê ở lại và đồng hành với các môn đệ, đồng thời dẫn các môn đệ “đi trong sự thật toàn vẹn” (16,13a). Bất cứ ai “yêu mến Đức Giê-su và giữ các điều răn của Người” thì đã được Đấng Pa-rác-lê, là Thánh Thần, là Thần Khí sự thật, ở lại mãi mãi với mình rồi. Vì thế, theo thần học Tin Mừng Gio-an, người môn đệ không cần phải xin “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – Thánh Thần” đến với mình nữa. Thiết nghĩ điều cần xin là ý thức sự hiện diện, hướng dẫn và hoạt động của Thánh Thần ở nơi mình.
(2) Đấng Pa-rác-lê sẽ “dạy các môn đệ” tất cả những gì Đức Giê-su đã nói, và “làm cho các môn đệ nhớ lại” giáo huấn của Đức Giê-su (14,26). Đấng Pa-rác-lê sẽ lấy những gì của Đức Giê-su mà loan báo cho các môn đệ (16,13-15). Đối với thế gian thù ghét, Đấng Pa-rác-lê sẽ cho các môn đệ biết sự thật về thế gian và số phận của thủ lãnh thế gian. Thế gian có tội vì đã không tin vào Đức Giê-su (16,9) và thủ lãnh của thế gian đã bị xét xử rồi (16,11). Đấng Pa-rác-lê sẽ làm cho các môn đệ biết sự thật về Đức Giê-su và biết ý nghĩa của biến cố Thương Khó. Trên bình diện lịch sử, Đức Giê-su đã bị giết chết trên thập giá, nhưng trên bình diện mặc khải, đó là biến cố Đức Giê-su đi về với Cha của Người (16,10), đó là Giờ Người được tôn vinh và là Giờ Người tôn vinh Chúa Cha (13,31-32; 17,1).
(3) Đấng Pa-rác-lê giữ vai trò làm chứng về Đức Giê-su “trước” và “trong” các môn đệ. “Làm chứng trước các môn đệ”, vì Đấng Pa-rác-lê giúp các môn đệ hiểu biết và xác tín về nguồn gốc và sứ vụ của Đức Giê-su cũng như giáo huấn của Người. Đấng Pa-rác-lê “làm chứng trong các môn đệ”, khi các môn đệ làm chứng về Đức Giê-su trước thế gian. Trong trường hợp này, Đấng Pa-rác-lê sẽ hướng dẫn, soi sáng từ bên trong, để các môn đệ can đảm làm chứng về Đức Giê-su trong mọi hoàn cảnh sống.
Nếu các môn đệ hiểu biết và đón nhận tất cả vai trò và hoạt động phong phú của Đấng Pa-rác-lê như trên thì niềm tin của họ sẽ ngày càng được củng cố. Nhờ đó, các môn đệ có thể sống niềm tin cách sống động, mạnh mẽ và vững vàng.
Kết luận
Tin Mừng Gio-an trình bày những yếu tố gây khủng hoảng trong cộng đoàn các môn đệ, đồng thời gợi lên nơi độc giả những yếu tố khủng hoảng đức tin ngày hôm nay. Người môn đệ có thể gặp khủng hoảng vì giáo huấn của Đức Giê-su; vì để mình thuộc về “bóng tối”; vì không biết, không hiểu lời Đức Giê-su; vì tưởng là Đức Giê-su vắng mặt và vì bị thế gian thù ghét và bách hại. Những yếu tố khủng hoảng này có thể làm lung lay niềm tin vào Đức Giê-su và có nguy cơ làm cho người môn đệ vấp ngã. Vì thế, cách hiệu quả nhất để vượt qua khủng hoảng niềm tin là không ngừng học hỏi giáo huấn của Đức Giê-su để xây dựng tương quan mật thiết và sống hiệp thông với Người.
Người tin xác tín là tin vào Đức Giê-su thì có sự sống đời đời, nhưng hành trình làm môn đệ trong thế gian này vẫn còn nhiều thử thách cam go. Có trường hợp người tin phải hy sinh cả mạng sống mình để bảo toàn “tình yêu”, “lòng trung tín” và “sự sống đích thực” mà Đức Giê-su ban tặng. Vậy phải làm gì khi bị khủng hoảng niềm tin? Tin Mừng Gio-an đưa ra nhiều giải pháp cụ thể để các môn đệ có thể giữ vững niềm tin.
Đức Giê-su mời gọi các môn đệ gắn kết với Người qua việc “ở lại trong Người” và để “Người ở lại trong mình.” Tương quan hai chiều với Đức Giê-su, như Người đã nói với các môn đệ: “Anh em trong Thầy và Thầy trong anh em” (14,20b) là tương quan hiệp thông sâu xa giữa Đức Giê-su và các môn đệ. Tương quan này được diễn tả theo cùng một cách thức như sự hiệp thông nên một giữa Đức Giê-su và Cha của Người: “Thầy trong Cha và Cha trong Thầy” (14,11). Sự ở lại với Đức Giê-su như cành nho trên thân nho tạo nên sức mạnh tâm linh giúp các môn đệ đứng vững trong thử thách và sinh nhiều hoa trái.
Đức Giê-su hứa sự ở lại của ba Đấng nơi người tin. Chúa Cha, Đức Giê-su và Đấng Pa-rác-lê sẽ đến, hiện diện và ở lại nơi những ai yêu mến Đức Giê-su và giữ các điều răn của Người. Theo thần học Tin Mừng Gio-an, vấn đề không phải là xin Đấng Pa-rác-lê – Thánh Thần đến với mình mà là thực hiện điều kiện để đón nhận Đấng Pa-rác-lê: “yêu mến Đức Giê-su” và “giữ các điều răn của Người”, nghĩa là toàn bộ giáo huấn của Đức Giê-su. Sự ở lại của ba Đấng là điều khích lệ lớn lao khi người môn đệ cảm thấy mình như bị bỏ rơi, bị mồ côi vì tưởng rằng Đức Giê-su không ở với mình.
Dù còn nhiều gian lao khốn khó trong thế gian, người tin vẫn có niềm vui và bình an của Đức Giê-su ban tặng. Theo cách đọc chiều ngang, biến cố Phục Sinh mang lại cho các môn đệ một niềm vui không ai lấy mất được. Biến cố Phục Sinh đã xảy ra gần 2000 năm rồi, liệu nơi người tin còn có niềm vui bền bỉ và lớn lao này không? Theo cách đọc chiều dọc, quà tặng niềm vui và bình an không làm biến đi những khó khăn thử thách trong hiện tại, nhưng niềm vui và bình an của Đức Giê-su là quà tặng đến từ trên cao, giúp người tin đón nhận và sống trọn vẹn thực tại trần thế; bởi vì niềm vui và bình an của Đức Giê-su đã trở thành niềm vui và bình an của chính mình và đó là niềm vui và bình an đích thực.
Một trong những nét độc đáo của thần học Tin Mừng Gio-an là hoạt động của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ. Trong Tin Mừng Gio-an, Đấng Pa-rác-lê (14,16.26; 15,26; 16,7) được đồng hoá với Thần Khí sự thật (14,17; 15,26) và Thánh Thần (14,26). Hoạt động phong phú đa dạng của Đấng Pa-rác-lê quy về ba lãnh vực: (1) Ở lại và hướng dẫn các môn đệ; (2) Giảng dạy và làm cho các môn đệ biết mặc khải; (3) Làm chứng “trước” và “trong” các môn đệ. Ước mong người tin vào Đức Giê-su ý thức và xác tín về sự hiện diện và hoạt động của Đấng Pa-rác-lê nơi mình, nhờ đó có thể giữ vững niềm tin và can đảm làm chứng về Đức Giê-su. Đấng Pa-rác-lê sẽ là nguồn sức mạnh tâm linh giúp các môn đệ hiểu giáo huấn của Đức Giê-su và vượt qua thử thách.
Với đề tài “khủng hoảng niềm tin và giải pháp để giữ vững niềm tin” trình bày trong Tin Mừng Gio-an như trên, Tin Mừng này đã góp phần quan trọng cho độc giả qua mọi thời đại. Những ai đang khủng hoảng niềm tin hay lạnh nhạt với niềm tin, thậm chí đã mất niềm tin, đều có thể tìm lại được sức sống và lòng cam đảm để giữ vững niềm tin, nhờ học hỏi và suy gẫm Tin Mừng Gio-an. Cho dù khó khăn và thử thách xảy ra ở đâu và vào thời đại nào, người tin vẫn có thể áp dụng giáo huấn của Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an vào hoàn cảnh cụ thể để vượt qua, vượt lên trên khủng hoảng niềm tin và sống niềm vui và bình an của Đức Giê-su ban tặng. Xem tài liệu phân tích về đề tài này: KHỦNG HOẢNG VÀ GIẢI PHÁP cho các môn đệ trong Tin Mừng thứ tư./.
Ngày 09 tháng 12 năm 2012.