Một Số Vấn Đề Liên Quan Đến Tình Cảm Và Tính Dục Của Linh Mục
Kính thưa Quý Cha,
Do sứ mệnh của Giáo Hội sống trong thế giới tục hóa hôm nay, và do tính thời sự nghiêm trọng của vấn đề lạm dụng tình dục, lần này con xin chia sẻ với quý Cha MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH CẢM VÀ TÍNH DỤC CỦA LINH MỤC. Con tin tưởng vào sự tốt lành thánh thiện, bầu nhiệt huyết hăng say mục vụ và sự tươi mới trong đời linh mục của quý cha. Nhưng với kinh nghiệm của một linh mục già đã từng lăn lộn giữa đời, cùng với những trăn trở và hiểu biết của một cha giáo và linh hướng cho nhiều người ở nhiều môi trường đào tạo khác biệt đa dạng, con muốn giới thiệu một số những biển báo để hành trình linh mục của quý cha được an toàn, thành công và hạnh phúc.
Trước hết, con đề cập đến tính tự do tự nguyện của chúng ta trong chọn lựa sống độc thân linh mục, trước lời mời gọi của Chúa và kỷ luật của Giáo Hội Công Giáo. Quả thật, không ai thúc ép hay bắt buộc chúng ta cả, mà chúng ta đã tự nguyện dấn thân. Biết rằng chọn lựa nào cũng có cái được cái mất, nhưng một khi đã chọn lựa thì sẽ cố gắng kiên trì sống chọn lựa đó cho đến cùng. Đó là điều kiện tiên quyết cho chúng ta kiên tâm sống trung tín, thành công và hạnh phúc đời linh mục của chúng ta, dù có khi có những mời gọi dễ dàng và hấp dẫn khác. Kính xin quý cha đọc riêng trong mục LINH MỤC TỰ NGUYỆN SỐNG LUẬT ĐỘC THÂN.
Tiếp đến, con sẽ trình bày đề tài TÌNH BẠN KHÁC PHÁI CỦA LINH MỤC. Câu hỏi được đặt ra là Linh mục có thể có tình bạn khác phái không? Câu trả lời là “Được, như Chúa Giêsu và các thánh vẫn có những tương quan tình bạn khác phái. Nhưng…, chúng ta đừng quên chữ nhưng quan trọng này, vì một điều rất rõ ràng là sự yếu đuối và những nguy hiểm đã không đe dọa Chúa Giêsu, lại có thể đe dọa linh mục trong những liên hệ như vậy”. Con sẽ khai triển phần này qua việc đặt vấn đề, rồi nói chi tiết cụ thể đến: tương quan với người nữ nói chung, tương quan với nữ tu, tương quan với bạn khác phái đời thường, trong đó phân biệt bạn khác phái công giáo, bạn khác phái không công giáo, tương quan với các góa phụ, dữ kiện tâm sinh lý hấp dẫn tính dục, cạm bẫy mỹ nhân kế, yêu và chia tay. Con cũng đưa ra những con đường tương quan tốt như tương quan với mẹ và chị em ruột của mình, coi các cụ bà như mẹ và các thiếu nữ trẻ như chị em. Ngoài ra cũng phải nhìn đến những cách ứng xử và mối tương quan hài hoà của Chúa Giêsu đối với phụ nữ.
Trong phần thứ ba, con sẽ trình bày về KHỦNG HOẢNG LẠM DỤNG TÌNH DỤC VÀ CÁC BIỆN PHÁP CỦA GIÁO HỘI VÀ THẾ GIỚI, trong đó con sẽ nói về phương diện cá nhân, nhất là nhấn mạnh như cảnh báo các biện pháp của Giáo Hội và Xã hội dân sự đối với tệ nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục cùng những gì liên hệ, để chúng ta đề phòng, như thánh Phaolô căn dặn “những sự việc ấy xảy ra để làm bài học răn dạy chúng ta đừng chiều theo…”[1].
Sau hết, con sẽ trích dẫn cuộc phỏng vấn của thông tấn xã Zenith với Đức Ông Rossetti, tác giả cuốn sách “Tại sao các linh mục hạnh phúc?” và bản kinh Linh mục dâng mình cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.
A. LINH MỤC TỰ NGUYỆN SỐNG LUẬT ĐỘC THÂN
Trong xã hội tục hóa hôm nay, ảnh hưởng của tinh thần tôn sùng vật chất đang thao túng mãnh liệt: Địa vị, tiền bạc và lạc thú được đại đa số xem như là tất cả hạnh phúc của con người. Sự phóng túng tình dục và chủ nghĩa hưởng lạc cuốn hút bao trái tim và đầu óc, nhất là của người trẻ. Do đó, độc thân khiết tịnh, nhất là nơi giới đàn ông, bị nghi ngờ và coi là không thể. Nhưng đối với Giáo Hội Công giáo Rôma, đời sống độc thân linh mục là một thực hành bắt buộc rất cựu trào dựa vào truyền thống Tông Đồ, chẳng hạn vào thế kỷ IV, Công Đồng Carthage (năm 390) đã nói: “Những người phục vụ các mầu nhiệm thánh phải hoàn toàn tiết dục hầu những gì các Tông Đồ đã giảng dạy và người xưa gìn giữ thì nay chúng ta cũng tuân giữ nó.” Từ Công đồng Latêranô I (năm 1123), luật độc thân được áp dụng trong Giáo Hội Công Giáo đối với mọi linh mục theo lễ nghi Latinh. Công đồng Trentô (năm 1543) là một cuộc canh tân thiêng liêng sâu xa và bền bỉ về chức linh mục và thừa tác mục vụ của linh mục.
Thời đại chúng ta chứng kiến nhiều cuộc tranh luận về vấn đề kỷ luật này. Một số người đã cho rằng chẳng mấy hữu lý khi đòi buộc những người sẽ chịu chức linh mục phải sống bậc độc thân; họ vịn cớ cả Chúa Giêsu lẫn thánh Phaolô không trình bày bậc độc thân như là một thực hành bắt buộc đối với các môn đệ. Một ít người còn đi xa hơn nữa đổ lỗi cho bậc độc thân phải chịu một phần trách nhiệm về cuộc khủng hoảng ơn gọi linh mục và những gương mù giới tính đã xảy ra tại nhiều nước Bắc Mỹ và Âu Châu.[2] Dù vậy, qua Sắc lệnh Chức vụ và Đời sống linh mục của Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội vẫn duy trì truyền thống không thay đổi, và nhấn mạnh đặc biệt đến mối liên hệ chặt chẽ giữa độc thân khiết tịnh và đức ái mục tử vì Nước Trời của chức linh mục thừa tác[3]. ĐGH Phaolô VI trong Sacerdotalis Coelibatus khẳng định: “Luật độc thân thánh, mà Giáo Hội canh giữ từ nhiều thế kỷ nay như một viên ngọc quý rạng ngời, bảo tồn toàn bộ giá trị của nó cả ở thời đại chúng ta vốn tiêu biểu bằng một sự biến đổi sâu xa các não trạng và các cơ cấu.”[4] THĐGMTG năm 1971 khẳng định sự cần thiết phải duy trì luật độc thân linh mục trong Giáo Hội Latinh, đồng thời đưa ra những giải thích về nền tảng, các động cơ và điều kiện ủng hộ nó mà linh mục thi hành với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô.[5]
Bộ Giáo luật 1983 lặp lại: “Các Giáo sĩ buộc phải giữ tiết dục hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời, và vì thế phải tuân giữ luật độc thân, ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban, nhờ đó các thừa tác viên chức thánh có thể kết hiệp dễ dàng hơn với Đức Kitô bằng một tâm hồn không chia sẻ, tự hiến trọn vẹn và tự do hơn cho việc phục vụ Chúa và con người.”[6] Tông huấn hậu THĐGMTG Pastores Dabo Vobis trình bày luật độc thân như một đòi hỏi căn bản trong toàn cảnh bốn chiều kích đào tạo nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ. Sách Giáo lý Công giáo số 1599 lặp lại: “Trong Giáo Hội Latinh, thường chỉ truyền chức linh mục cho các ứng viên tự nguyện sống độc thân và công khai biểu lộ ý muốn này vì yêu mến Nước Trời và phục vụ tha nhân.”
Trong cuộc họp với lãnh đạo các Bộ của Giáo triều ngày 16/11/2008, ĐTC Biển Đức XVI đã tái khẳng định giá trị của chọn lựa đời sống độc thân của các linh mục, hợp với truyền thống Công Giáo chưa bị gián đoạn và lập lại đòi buộc phải có một đào tạo nhân bản và Kitô giáo vững vàng cho cả các chủng sinh lẫn các linh mục đã chịu chức.
Chỉ Nam cho thừa tác vụ và đời sống linh mục năm 1994 (lẫn năm 2013) của Bộ Giáo sĩ khẳng định: “Xác tín vào những động cơ thần học và mục vụ sâu xa làm cơ sở cho mối tương quan giữa sự độc thân và chức linh mục, được soi sáng bằng chứng tá còn giá trị ngày hôm nay của rất nhiều cuộc đời linh mục vững mạnh về mặt thiêng liêng và Phúc Âm, mặc dầu xảy ra nhiều trường hợp đau thương, Giáo Hội đã tái xác nhận, qua Công đồng Vaticanô II và giáo huấn của các Giáo hoàng về sau, ‘ý muốn mãnh liệt duy trì luật đòi buộc tình trạng độc thân vĩnh viễn tự do chọn lựa cho các ứng viên linh mục theo nghi lễ Latinh,’[7] xác tín rằng đó là ân huệ mang lại thiện ích cho Giáo Hội và thế giới.”[8]
Từ thời các tông đồ, Giáo Hội đã muốn bảo tồn ơn tiết dục vĩnh viễn của giáo sĩ và hướng về giải pháp chọn ứng viên chức thánh nơi những người độc thân.[9] Sự dấn thân ơn gọi linh mục được lựa chọn cách tự do và quảng đại là lời đáp trả hồng ân quảng đại của Thiên Chúa.[10] Và thực tế hiện nay, để được thụ phong linh mục, ứng viên chức thánh phải lớn tiếng tuyên hứa với Giám Mục chủ phong, trước mặt cộng đoàn, vâng lời Giám Mục Bản Quyền và sống độc thân linh mục.
Độc thân linh mục được ghi tạc ngay tại nội tâm của một tương quan đối thoại liên lỉ giữa Thiên Chúa và mỗi linh mục. Qua việc cho đi chính đời sống mình bằng cách chọn đời sống độc thân, linh mục càng ngày càng sống cho Thiên Chúa và tha nhân hơn, lột bỏ liên lỉ như một sự “tự hủy” (Ph 2,7), làm cho mình “nhỏ bé đi để cho Chúa lớn lên” (Ga 3,30) và góp phần vào sự tăng trưởng của Giáo Hội. Độc thân linh mục không thể tách rời khỏi toàn bộ đời sống kitô “không còn là tôi sống, nhưng chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gal 2,19-20), và linh mục luôn cố gắng nên đồng hình dạng với Chúa Kitô Mục Tử “ban sự sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
Chính trong khung cảnh đó mà sự tự do của linh mục không ngừng được củng cố và trưởng thành để luôn sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa và dân Ngài. Chấp nhận sống độc thân, linh mục gặp được kho báu hàm chứa việc “mang trong thân xác sự chết của Chúa Giêsu, để sự sống của Ngài cũng được bày tỏ trong thân xác mình” (2 Cr 4,10), nhờ đó học biết ban phát sự sống mình cho đoàn dân được trao phó cho mình, được thúc đẩy loan báo Tin Mừng “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tim 4,2).
Mỗi thời đại diễn tả và thực hành đức tin trong não trạng văn hóa riêng và tùy theo mức độ được đâm rễ chắc chắn trong Truyền Thống mà chúng ta sống nhờ đó. Giáo huấn của Giáo Hội cung cấp cho linh mục những căn bản cần thiết để suy nghĩ và định hình lời đáp trả của mình với hồng ân của Thiên Chúa trong bậc độc thân. Cuộc sống độc thân khiết tịnh tự bản chất là liên hệ, liên hệ với Thiên Chúa, liên hệ với con người và thế giới. Nó định phẩm căn tính linh mục là một con người của liên hệ, nhất là với Giám Mục và linh mục đoàn giáo phận mình. Nó mời gọi linh mục nhận rõ sự bổ túc của mình với các bậc sống khác và những mối liên hệ mình phải duy trì với họ. Nó cũng cho phép linh mục thiết lập các liên hệ nhân bản, kể cả các liên hệ bạn hữu chân chính với người nam lẫn người nữ.
Nói cách khác, nhờ đời sống độc thân thánh thiện, linh mục giáo phận thực sự trở nên người của Thiên Chúa[11]và người cho con người, qua những điểm giáo huấn nổi bật sau đây:[12]
Sống độc thân linh mục là một cách thức yêu mến và hiện hữu với tha nhân. Nó khai mở một cuộc sống không đóng kín nơi chính mình, nhưng khai sáng những liên hệ và đời sống cộng đồng, tôn trọng phẩm giá những người mình gặp gỡ, kêu gọi mọi người cùng nhau tìm kiếm sự thánh thiện và làm cho Nước Chúa ngự đến.
Sống độc thân khiết tịnh hệ tại sự dấn thân tất cả cuộc đời: Nhờ bí tích Truyền Chức, lời hứa sống độc thân linh mục đâm rễ sâu xa vào chính thực thể con người linh mục và phải được nhắc lại trong suốt chiều dài đời sống linh mục, đặc biệt trong Lễ Truyền Dầu Thứ Năm Tuần Thánh và dịp tĩnh tâm năm linh mục.
Đời sống độc thân linh mục tìm được tất cả ý nghĩa của nó trong liên hệ với các lời khấn khác, được diễn tả ra hay hiểu ngầm, mang dấu ấn cuộc sống giản dị và hướng tới một đời sống cầu nguyện chuyên cần, vì đây là một hồng ân phải nhận lãnh và làm mới lại không ngừng, khuôn mình cách mật thiết với những mầu nhiệm mình cử hành.
Đời sống độc thân linh mục giả thiết một khổ hạnh, dù ngày nay ít được nhấn mạnh, nhưng vẫn là thiết yếu. Sự thận trọng, dè dặt, tỉnh thức, từ bỏ, chấp nhận mọi thánh giá trong suốt cả đời sống, và những yếu tố khác cùng loại, làm thành bấy nhiêu phương diện của một quan niệm toàn vẹn về cuộc sống độc thân khiết tịnh.[13]
Chọn lựa sống độc thân linh mục là trao hiến đời sống mình để nhắm tới một sự phong phú đặc biệt.[14] Linh mục chọn sống độc thân phải có một quan niệm lành mạnh về tình phụ tử và danh hiệu “cha” mà những người được trao phó cho mình thường gọi mình. Đời sống của ngài phải hoàn toàn quy hướng về sự tăng trưởng của họ trong đức tin, đức cậy và đức mến.
Linh mục càng suy tư và cầu nguyện Thánh Kinh càng thấu hiểu căn bản Phúc Âm của bậc độc thân linh mục: kỷ luật của Giáo Hội Roma không chỉ thuộc về sự gắn bó với truyền thống lâu đời không hề xa lạ với Thánh Kinh, mà còn mặc lấy một hình thức bắt buộc, cho dù không được đặt định trong Tân Ước. Nhưng bằng nhiều cách, Tân Ước vẫn làm vang lên lời mời gọi vào bậc độc thân linh mục.
Đời sống độc thân linh mục phải tựa trên nền tảng thần học nghiêm chỉnh và sâu xa cho phép hiểu rõ ý nghĩa Kitô học, Giáo hội học, Thánh Kinh học, ý nghĩa hôn ước và tông đồ, cũng như tính “thích hợp” của bậc độc thân với chức vụ linh mục mà sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục nói đến.
Ngoài ra còn phải lưu ý đến tầm quan trọng của cộng đồng giáo dục như là yếu tố căn bản của việc đào tạo khởi đầu về đời sống độc thân linh mục, nhờ sự phân định và quân bình giữa những thời gian trao đổi và trầm mặc, những chia sẻ giữa chủng sinh và nhà đào tạo, trong sự tương tác với các cộng đồng khác, là những cộng đồng tự nhiên như gia đình hoặc cộng đồng Giáo hội như giáo xứ.
Như thế, độc thân linh mục phải là một chọn lựa dấn thân tự do và tự nguyện được Giáo Hội chuẩn nhận, chứ không phải là một gánh nặng áp đặt từ bên ngoài. Giáo Luật nhắc nhở: “Đương sự phải được tự do hoàn toàn, tuyệt đối không được cưỡng bách bằng bất cứ cách nào và vì bất cứ lý do gì, cũng không được ngăn cản người đủ khả năng xứng hợp theo Giáo luật.”[15]Và kỷ luật độc thân trở nên như một sự che chở bảo vệ và một gánh nhẹ nhàng làm cho linh mục càng được thăng tiến và triển nở,[16] nhờ đó linh mục thống nhất được đời sống nội tâm và hoạt động tông đồ, là điều kiện tất yếu để thành công, hạnh phúc và thánh thiện.
B. TÌNH BẠN KHÁC PHÁI CỦA LINH MỤC
Đặt Vấn Đề
Do hoàn cảnh cuộc sống, bên cạnh các bạn đồng giới, các ứng sinh có nhiều bạn là con gái, thậm chí có một số ứng sinh có bạn gái nữa. Vậy linh mục có thể có tình bạn khác phái không? Nếu Chúa Kitô đã đón nhận một số phụ nữ, cho họ cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ nhân loại, thì tương quan đó đã được Thiên Chúa phê chuẩn, và Chúa Giêsu trở thành mẫu gương hoàn hảo của tình bạn khác phái của người sống đời độc thân thánh hiến. Mẫu gương sống động về tình bạn của Chúa Giêsu với phụ nữ được họa lại rõ nét trong đời sống của nhiều vị thánh[17]. Và mẫu gương của Chúa Giêsu vẫn còn có giá trị cho những người theo Ngài, trong tất cả mọi chiều kích nhân bản và thiêng liêng của đời sống ơn gọi và sứ vụ. Như vậy, ứng sinh linh mục và linh mục có thể có bạn khác phái, nhưng phải khôn ngoan và cẩn trọng rất nhiều, phù hợp với phong cách và bối cảnh đời tu. Vì một điều rất rõ ràng là sự yếu đuối và những nguy hiểm đã không đe dọa Chúa Giêsu, lại có thể đe dọa những người nam và người nữ sống đời thánh hiến trong những liên hệ như vậy.
Chúng ta đừng bao giờ quên rằng mọi thân xác đều mang giới tính và bất cứ tương quan nam nữ nào cũng có yếu tố phái tính, thậm chí cả trong tương quan máu mủ và thiêng liêng mà thánh Phaolô khuyến cáo là ‘khởi đầu trong tinh thần nhưng lại kết thúc trong xác thịt’, và không ai được cả dám tự phụ cho rằng mình mạnh và sẽ không bao giờ bị vấp ngã! Quà tặng độc thân thánh hiến có thể bị nguy hiểm, nhất là trong quan hệ độc hữu, khi mà một người nam đơn độc ở với một người nữ đơn độc (solus cum sola), hay ngược lại (sola cum solo), lâu giờ trong một nơi kín đáo cửa khóa chặt, chẳng ai biết và trông thấy, mà không có bất cứ khoảng cách nào, cùng với những biên giới cần thiết về thể lý, tâm lý và thiêng liêng, nhất là ý thức về sự hiện diện thường hằng của Chúa[18].
Người đi tu không có sự quân bình tự nhiên của người sống đời đôi bạn theo nguyên lý bổ túc âm dương, nên phải thiết lập và sống cho được thế quân bình siêu nhiên bằng đời sống cầu nguyện, mật thiết với Chúa, tình huynh đệ, tận tụy với sứ vụ, cảnh giác toàn bộ cách ứng xử và cảm xúc của mình, ý thức rằng mình “gìn giữ kho tàng ấy trong những chiếc bình sành” dễ vỡ.[19] Sự thiếu quân bình trong đời sống và sứ vụ, cộng với những khó khăn thử thách đau khổ, sự yếu đuối nhân loại bên trong và những cám dỗ lôi cuốn từ bên ngoài, khiến người ta có khi đi tìm sự quân bình tự nhiên kia mà vấp ngã. Kinh nghiệm cho thấy những linh mục, tu sĩ thất bại trong sứ vụ, gặp thử thách buồn phiền, lại bỏ đời sống cầu nguyện, thiếu tình huynh đệ cộng đoàn và bỏ bê bổn phận sớm muộn gì cũng sẽ sa ngã, bỏ cuộc: nhất là người ta sẽ liều thua cuộc khi con tim thổn thức, mất hướng trước những thử thách buồn phiền, chán nản thất vọng gây nên bởi những người đáng ra phải yêu thương nâng đỡ mình.
Do đó, cần phải thiết lập mối tương quan trưởng thành, lành mạnh, hài hòa và quân bình giữa cả hai phái. Người ta nên tốt hay không đều do các mối tương quan của họ. Ngoài ra đừng để mình rơi vào những hoàn cảnh bi đát, và cũng đừng làm cho ai phải buồn phiền quá đỗi. ĐTC Biển Đức XVI khuyên “Hãy mạnh mẽ củng cố tình bạn của chúng ta với Chúa, nhất là qua lời cầu nguyện thường ngày, chăm chú trung thành và tích cực tham dự Thánh Lễ.” “Thánh Thể là một hồng ân tình yêu phi thường mà Thiên Chúa liên tục canh tân trong chúng ta, để dưỡng nuôi cuộc hành trình đức tin của chúng ta, tiếp thêm sức mạnh cho niềm hy vọng của chúng ta là khơi dậy tình bác ái của chúng ta để ngày càng trở nên giống Người hơn.”[20]
II. Linh mục tương quan với người nữ[21]
II.1 Với người nữ nói chung: Trợ Lực hay là Vấn Đề?
Theo sách Sáng Thế[22] và quan niệm Á Đông về Âm-Dương, người nam và người nữ rất gắn bó với nhau, hấp dẫn nhau, cần nhau và bổ túc cho nhau, không thể thiếu nhau. Người nam không thể là một con người nếu không có người nữ và ngược lại.[23] Điều này đã khởi sự tự nhiên ở trong gia đình, ngay từ thời niên thiếu, và sự sống quân bình, cả nhân bản và thiêng liêng, vẫn tiếp tục trải ra và phát triển.
Sự việc cũng như thế với các linh mục và người nữ, nữ tu hay nữ giáo dân. Trong những mối tương quan này, có nhiều phương diện của cuộc sống thật ý nghĩa, đẹp đẽ và có nhiều công việc thật tuyệt vời. Tuy nhiên, họ không luôn luôn là trợ lực, nhưng lắm khi cũng là vấn đề và sa lầy không lối thoát cho một số ứng sinh linh mục, ngay cả cho một số linh mục. Có khi vì một người đàn bà mà một số linh mục đã từ bỏ thừa tác vụ, nhất là trong bối cảnh tục hóa, vật chất, hưởng thụ khoái lạc, phim con heo và nhục dục, lấy cái tôi chủ nghĩa cá nhân làm trọng tâm, thay vì Chúa Kitô. Vì thế, đời sống độc thân linh mục cần được bảo vệ cách ý thức bằng việc đặc biệt giữ cảnh giác cảm xúc và toàn bộ cách cư xử của mình. Một lối sống phù hợp với chức linh mục không thể được phát triển, nếu dấn thân vào một mối quan hệ độc hữu với một phụ nữ.
II.2 Tương quan với nữ tu: khôn ngoan và tỉnh thức.
Chúng ta hãy giữ trong trí óc và tâm hồn sự lệ thuộc của chính mình, cũng như sự lệ thuộc của các nữ tu đối với Chúa, và luôn ý thức phải “trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”[24]: Cái đã cho rồi, không lấy lại mà cho người khác! Một lần đã quảng đại dâng hiến thì hãy cố gắng quảng đại cho đến cùng.
Nhưng do lý tưởng hiến dâng và môi trường mục vụ chung, linh mục và nữ tu có thể có mối tương quan thân mật, bằng sự cởi mở cho nhau, hiểu nhau và chia sẻ sứ vụ, những thành công cũng như những khó khăn thất bại, tin tưởng nhau, cảm thông nhau, quan tâm đến nhau. Chính từ sự thân mật này, một cảm nhận “yêu thương” có thể dễ dàng phát sinh và phát triển, rồi tình trạng có thể trở nên nguy hiểm hơn, với những hình thức được bộc lộ ra theo tiến trình: muốn chiếm hữu – ghen tuông – và độc quyền, là những cái gây ra rất nhiều phiền hà và tai tiếng. Nhiều trường hợp còn đi xa hơn trong chiều hướng tiêu cực. Những hình thức này dễ nhìn thấy bộc lộ nơi các cô bếp hay những nữ tu trẻ đẹp phục vụ và ở luôn trong nhà xứ. Và cũng phải kể đến những người nữ cùng làm việc tông đồ trong các đoàn hội, hay ân nhân, bảo trợ, mạnh thường quân: Không ai cho cái gì mà cho không cả, và nhiều khi ân đòi được trả bằng tình! Đừng quên nhận định bao đời của tiền nhân “lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy”! Không ai trách lửa tại sao đốt cháy rơm, và cũng không ai trách rơm tại sao để bị lửa đốt cháy, mà trách người đã để rơm gần lửa.
Hãy nhớ lời khuyên tỉnh thức và cầu nguyện của Chúa Giêsu, vì tinh thần thì nhẹ nhàng chóng vánh nhưng xác thịt lại nặng nề yếu đuối[25]: là những con người thánh hiến, chúng ta vẫn không thôi là những con người với những ham muốn và yếu đuối nhân loại. Thánh Phaolô chia sẻ: “Có ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối, có ai trong anh em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt?”
Chúng ta cũng phải ý thức rằng sự thân mật là nhu cầu của con người, nhưng sự thân mật trong đời sống độc thân thánh hiến không cần và không được biểu lộ có tính cách thể lý phái tính với những đòi hỏi tự nhiên cùng với hoạt động truyền sinh. Sự thân mật độc thân thánh hiến có mức độ riêng biệt thích hợp của nó. Chính mức độ này cung ứng đủ tự do để người sống đời thánh hiến yêu thương nhau và yêu thương mọi người mà không vượt qua các giới hạn.
Chúng ta hãy khuôn đúc các mối tương quan khác phái của mình theo gương mẫu đời sống của Chúa Ba Ngôi và kêu xin ơn can đảm để thăng tiến, vượt thắng và thánh hoá “tiếng gọi nhân loại” có thể chợt nghe vào một lúc nào đó, ngõ hầu giúp nhau sống và chu toàn những gì đã cam kết trong ơn gọi và sứ vụ của mỗi người, vì tình yêu nhiều khi không có tuổi và giờ hẹn[26]. Trong trường hợp ấy, phải biết tôn trọng: nơi chốn gặp gỡ – thời gian và thời lượng – khoảng cách thể lý và tâm lý – sự có mặt của những người thứ ba – nhất là ý thức sự hiện diện thấu suốt mọi bí ẩn của Thiên Chúa.
Cũng cần phải rõ ràng và thành thật với chính mình, với người khác và với Chúa, bởi vì lắm khi được che giấu dưới những cớ hợp pháp và chính đáng của các công tác và hoạt động tông đồ mục vụ, nhưng thực tế đó là cái bình phong của những nghiêng chiều nguy hiểm của con tim. Và chớ gì đừng vì thế mà dại dột can thiệp giữ lại hay cản trở việc thuyên chuyển chính đáng của Nhà Dòng, nhất là khi họ muốn rút về các nữ tu vì một lý do đặc biệt nào đó để bảo vệ người của họ, mà có khi chính chúng ta là nguyên nhân.
Mỗi người đều hãy nhớ rằng người đi tu vẫn không thôi là con người: Chúng ta có thể làm cớ cho người khác vấp phạm, và người khác cũng có thể làm cớ cho chúng ta vấp phạm. Trong hoàn cảnh tế nhị này, sự hiện diện yêu thương và đời sống huynh đệ cộng đoàn sẽ mang lại sự trợ giúp cần thiết[27]. Nhờ tình bạn dâng hiến và nhiệt tình, mỗi người có thể là sự trợ giúp lớn lao cho người khác trong việc soi sáng, chỉ bảo và khích lệ lẫn nhau, khi phải chịu đựng những hoàn cảnh nguy hại khác nhau, cũng như sự lây nhiễm một thứ tinh thần thế tục nào đó. Hơn nữa, cũng đừng cả dám tự phụ quên đi cái nghịch lý mà thánh Phaolô đã trăn trở: “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn…” Và ngài quả quyết “Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước”[28]
Ngoài ra, chúng ta không được quên nhu cầu cầu nguyện, khổ chế, ăn chay và chiêm niệm. Chúng ta không thể đi theo con đường khó ấy nếu không có một thứ khổ chế đặc biệt. Chúa Giêsu tha thiết cầu nguyện với Chúa Cha cho các tông đồ ngày xưa, và cho chúng ta hôm nay: “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ còn ở trong thế gian… Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hóa họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”[29].
Nhưng trên hết, mỗi người phải tin rằng tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tình yêu nhân loại (một tình yêu lớn hơn vượt thắng tình yêu nhỏ hơn và những hấp dẫn của nó); rằng chỉ có Thiên Chúa mới làm thoả mãn được con tim chúng ta và chúng ta thế nào thì Ngài yêu thương chúng ta thế ấy, và Ngài yêu thương chúng ta cho đến tận cùng; và rằng chúng ta cũng phải yêu thương Ngài đến tận cùng như vậy [sự chung thủy của giao ước nhiệm hôn]. Chúng ta cảm tạ Chúa và vui mừng vì tuy sự yếu đuối của con người luôn vẫn có đó, nhưng tuyệt đại đa số linh mục và tu sĩ đã luôn kiên trì giữ vững được đời sống và sứ vụ thánh thiện của mình. Chính họ thực sự là muối/men sự thánh thiện của Chúa giữa trần gian và là chứng tá hùng hồn cho đời sống cánh chung mai hậu, là lúc mọi người sẽ sống như con cái sự sáng của Thiên Chúa.
II. 3 Tương quan với bạn khác phái đời thường
Đối diện với những vấn đề này, chúng ta được thúc đẩy thiết lập một mối tương quan trưởng thành, lành mạnh, hài hoà và quân bình. Xin phân biệt hai trường hợp bạn là con gái và bạn gái Công giáo và không công giáo. Nếu những lưu ý về nơi chốn gặp gỡ, thời gian và thời lượng, khoảng cách thể lý và tâm lý, sự có mặt của những người thứ ba và ý thức sống sự hiện diện của Chúa đã được nhắc đến trên kia với giới nhà tu vì những yếu đuối của con người, thì ở đây càng được nhấn mạnh hơn nữa, nhất là đừng bao giờ mời hay nhận lời đi riêng một mình mình với một mình họ đến khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ, hay những nơi tương tự, vì bất cứ lý do gì[30]. Nhiều trường hợp đã gặp phải những hậu quả thê thảm, hỏng mất lý tưởng và cả đời người, đặc biệt khi uống quá nhiều chất kích thích [say rượu làm mù quáng lý trí, nhưng kích thích bản năng tình dục mạnh hơn].
II. 3a Đối với các bạn là con gái hay bạn gái Công giáo
Đối với các bạn là con gái hay bạn gái Công giáo thì dù gì cũng có một mẫu số chung là đức tin, luân lý và giáo lý công giáo. Chính mẫu số chung đó với quan niệm và lập trường về nhân đức hay tội lỗi tạo nên một môi trường tăng trưởng lành mạnh, được bảo vệ hữu hiệu và an toàn hơn. Tâm thức sợ tội và yêu mến sự thánh thiện được coi trọng, đề cao và chăm sóc gìn giữ bởi các thẩm quyền hữu trách trong Giáo hội, trong Dòng Tu, trong gia đình, trong cộng đồng giáo xứ và đoàn thể. Nếu người nào “xem ra có cái gì đó” thì sẽ có những can thiệp kịp thời và thích đáng. Thậm chí nếu ai thực sự “có vấn đề” thì cũng có mẫu số chung của Đạo để giải quyết. Tuy nhiên, “đừng đùa với lửa”, nhiều lúc trong tình trạng xem ra an toàn lại gặp phải nguy hiểm nhất. Chúng ta cũng đừng quên giữ luật giao tiếp: Ai giữ luật thì sẽ được luật gìn giữ cho.
II. 3b Bạn là con gái hay bạn gái không công giáo
Trái lại, nếu bạn là con gái hay bạn gái không công giáo thì vấn đề sẽ khác hẳn. Việc không có được mẫu số chung về đức tin và luân lý, về nhân đức và tội lỗi, về các qui tắc của Giáo Hội sẽ làm cho các mối tương quan trở nên phức tạp vì sự khác biệt căn bản về Đạo, mà sự thua thiệt chắc chắn sẽ về phía mình. Các bạn ấy chỉ biết yêu là cho và cho để chinh phục người mình yêu, thậm chí gài bẫy cho “có kết quả” rồi có muốn lui cũng chẳng được nữa. Đời có quá nhiều mánh lới và cạm bẫy không thể lường trước được, nhiều người đã chết vì không biết đủ. Dĩ nhiên đời cũng có rất nhiều người tốt, nhưng cũng có những cái tốt tự nhiên lại không phù hợp cho người sống đời thánh hiến, mà còn trở nên xấu và tác hại cho đời tu, chỉ vì cách nhìn, cách hiểu, cách suy nghĩ không chung hướng đạo đức tôn giáo.
Hy vọng nói ít nhưng hiểu được nhiều. Và nếu được phép khuyên thì xin khuyên rằng ai chưa có những liên hệ như thế thì đừng nên thiết lập, và ai đã có thì cố gắng cởi bỏ dần dần đi, cho tâm hồn được thanh thản, đường đời khỏi vướng bận, nhớ câu thơ của Xuân Diệu: “Đường êm quá ta đi mà quên ngó, đến khi hay thì gai nhọn đã vào thấu xương!” Mong mỗi người sẽ biết ứng xử thích đáng, sống và giữ đúng cương vị của mình, đừng làm cho họ hiểu sai và đánh giá sai về đời tu và về linh mục Công giáo. Đó là một gương xấu gây cản trở lớn lao cho chứng tá Tin Mừng và truyền giáo của Giáo Hội. Nếu mối quan hệ đã vượt giới hạn quá xa thì đòi hỏi đương sự phải cất đi thiệt hại cho Giáo Hội bằng cách tự ý rút lui và người có trách nhiệm cũng cần cương quyết trong việc này: Vâng lời Chúa hơn là vị nể con người. Chúng ta phải nhớ đến sứ mệnh và nỗ lực truyền giáo là làm cho Chúa Kitô được nhận biết và yêu mến, mà vẫn không quên nỗi lo sợ bị hư mất của thánh Phaolô.[31]
II. 3c Đối với các góa phụ
Chúng ta cũng phải cẩn trọng trong tương quan đối với các goá phụ. Một đàng là các góa phụ trưởng thành giàu có sẵn lòng giúp đỡ nơi ăn chốn ở, tiền bạc, xe cộ, máy móc… Nhớ cuộc điều tra về “sinh viên tầm gửi” của những chàng trai có sự “hấp dẫn tính dục”. Đàng khác, những góa phụ trẻ đẹp “mẹ dại con thơ” gặp khó khăn cần giúp đỡ, lòng trắc ẩn chăm sóc lo lắng của chúng ta đối với con cái họ hay chính bản thân họ và lòng trọng ân nghĩa của họ sẽ là bẫy ngầm không ngờ đó! Để cho lòng bác ái trắc ẩn ấy khỏi bị hiểu lầm là yêu, nên giúp đỡ qua người khác hoặc cơ quan bác ái xã hội của giáo xứ, đừng thường xuyên đến nhà họ và cũng đừng để họ thường xuyên đến nhà mình.
II.3d Sự hấp dẫn tính dục
Chúng ta cũng cần quan tâm đến dữ kiện tâm sinh lý này là sự hấp dẫn tính dục. Có sức hấp dẫn tính dục [như Giuse Ai cập với vợ ông quan] hay bị hấp dẫn tính dục [như Davít với vợ của Uria] đều là nguy hiểm đối với một con người, dù là người bình thường hay là người ngay chính và cả người tu hành, coi chừng kẻo bị tấn công hoặc tấn công mà vấp ngã. Ngoài ra, không chỉ các góa phụ có thể bị nhu cầu sinh lý đòi hỏi, mà một số phụ nữ dù đang có gia đình cũng không thể cưỡng lại những người đàn ông có sức hấp dẫn tính dục, hoặc không thể cưỡng lại dục vọng của chính họ mà muốn đi tìm thỏa mãn ở ngoài hôn nhân, đưa tới tình trạng ngoại tình hoặc mua dâm nơi đám “đĩ đực.”
II. 3e Cạm bẫy mỹ nhân kế
Chúng ta cũng cần tỉnh táo với cạm bẫy mỹ nhân kế:
- Có những cạm bẫy tự đến với thân phận con người yếu đuối “trai tài gái sắc”;
- Có những cạm bẫy được dàn dựng vì tiền;
- Có những cạm bẫy được sắp đặt vì thù oán;
- Có những cạm bẫy được dàn dựng cài đặt vì vấn đề chính trị, quyền lực;
- Có những cạm bẫy được tổ chức để phá hại tôn giáo, Giáo Hội.
II. 3f Yêu và chia tay
Như trên đã nói, tình yêu có thể đến trong tương quan nam nữ và có thể phát triển đi đến hôn nhân là lẽ bình thường. Nhưng nếu khám phá rằng đó không phải là con đường sống và ơn gọi của mình thì người ta có thể chia tay để đi đúng định hướng và ơn gọi của cuộc đời mình như Chúa đã an bài. Có nhiều lối chia tay:
Cả hai đồng thuận: Cả hai đồng thuận chia tay, không ai bỏ ai, không ai níu kéo ai. Cuộc chia tay diễn ra khi hai người hoàn toàn thông cảm với nhau: hoặc vì phải trải qua một bước ngoặt trong đời như vì lý tưởng, hoặc cảm thấy không thể duy trì một mối tình “ngõ cụt” như thế. Đừng tưởng khi quyết định đường ai nấy đi, người trong cuộc không cảm nhận đau khổ, mất mát, tùy mức độ và thời gian gắn bó… Lời khuyên cho người trong cuộc là hãy để thời gian giúp chữa lành, đừng bắt mình phải nhanh chóng vượt qua.
Tan vỡ vì lạm dụng: Một mối quan hệ trong đó có lạm dụng hay lợi dụng tự nó đã mang dấu hiệu dự báo về cuộc chia tay sẽ xảy ra. Nhưng khi điều đó xảy ra, dù là cần thiết, người trong cuộc vẫn cảm thấy đau đớn. Nguời khác có thể không hiểu nổi tại sao bạn vẫn yêu và nhớ nhung kẻ đã xử tệ với bạn. Có lúc bạn muốn gọi điện hay gặp lại, nhưng xin đừng, vì làm vậy chỉ thua thiệt cho bạn thôi, không nên tiếp tục sự tự mâu thuẫn đó.
Người ta bỏ bạn: Rơi vào kiểu chia tay này, ngoài đau đớn ra còn bị sốc, thậm chí ôm một vết thương rất lâu mới có thể lành. Hãy xóa số điện thoại của người ấy để ngăn bạn gọi điện. Cố gắng giải tỏa tâm trí, thanh thản vượt lên cho một khởi đầu mới.
Bạn bỏ người ta: Bạn đã mất thời gian cân nhắc và quyết định nói lời chia tay, nhưng một khi nói ra rồi lại thấy mất mát và tiếc nuối. Cần biết rằng rất nhiều người tiếc nuối ngay sau khi chia tay, nhưng đó chỉ là một giai đoạn nhất thời. Hãy để quá khứ ngủ yên.
Không gây hiểu lầm cho người yêu cũ: Sau khi chia tay, cả hai đều nói “coi nhau như là bạn bình thường.” Điều đó không luôn luôn dễ dàng, và thậm chí không thể, vì “tình cũ không rủ cũng tới” và “bén mùi chùi chẳng sạch.” Nếu không muốn “người xưa” hiểu lầm mà nghĩ rằng mình còn tình cảm và muốn quay lại với người ta thì đừng có liên lạc nữa. Làm như vậy sẽ gây hại cho cả đôi bên. Một cậu trai và một cô gái có thể là bạn của nhau, và người này có thể sẽ yêu người kia: có thể rất sớm, có thể rất muộn, nhưng cũng có thể không bao giờ… Tình yêu có thể đến sau tình bạn, nhưng tình bạn không thể có sau tình yêu, vì thuốc uống chỉ hữu ích trước khi chết chứ không thể sau khi chết. Thật khôi hài, ảo tưởng và nguỵ biện những kẻ đã quan hệ thân xác rồi phải chia tay mà còn du dưa lui tới lại bảo rằng chúng tôi coi nhau nhưng là “bạn bè bình thường”!
Nếu không dứt khoát mà vẫn còn rất trân trọng kỷ niệm giữa hai người như vẫn đang trông chờ một điều gì đó… là đang đi nước đôi, rất nguy hiểm: những người thương anh và lo cho Giáo Hội sẽ không chấp nhận cảnh anh chân trong chân ngoài đó; còn những người ghét anh và bảo vệ Giáo Hội sẽ tố cáo anh; và có khi chính “người ấy” sẽ tìm cách đòi lại anh (vì thái độ mập mờ của anh dường như bảo người ta chờ đợi). Cần phải dứt khoát để tự trắc nghiệm bản thân và người khác cũng yên tâm là anh đã đứng lên được, hoàn toàn thay đổi và kiên trì trên con đường mới: “Đường anh anh đi, đường em em đi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi, đã quyết không mong sum họp nữa, bận lòng chi nữa lúc chia phôi” (Nửa Chừng Xuân). Nếu đã có cái gì đó rất sâu đậm với nhau, thì nên tự động rút lui, đừng để Bề Trên phải can thiệp sa thải[32].
Hãy để “đứt đuôi nòng nọc”:Cóc đẻ trứng dưới nước, nở ra nòng nọc. Khi nòng nọc biến thái, đứt đuôi thành cóc thì lên sống trên khô. Cóc không xuống sống dưới nước, nếu lỡ bị rơi hay bị ném xuống nước, cóc sẽ vội vã tìm cách lên khô. Sự dứt khoát đoạn tuyệt với các tình huống tình cũ cũng phải như thế. Tuy nhiên, khi tình cờ gặp lại, hãy cư xử cách tao nhã có văn hóa và cao thượng, cứ tự nhiên chào hỏi chân tình, nhưng hãy lịch sự từ chối, không nể mất lòng, yếu mềm thương hại mà nhận lời hay rủ rê người ấy đi riêng với nhau tới những nơi trước đây đã từng tới, không chuyện vãn lâu giờ, không nhắc lại những kỷ niệm và những việc đã qua. Hãy để quá khứ qua đi, và mỗi người vun đắp cho cuộc sống hiện tại của mình.
II.4 Những con đường tương quan tốt
II.4a Tương quan với mẹ và chị em ruột của mình
Mối tương quan đầu tiên và cơ bản nhất của chúng ta với người nữ phải kể cụ thể là mối tương quan với chính mẹ và chị em ruột thịt của mình. Mẹ linh mục là người nữ mà ngài đã nhận được sự sống, và nhờ mẹ mà ngài có được ơn kêu gọi như hôm nay. Sự dịu dàng và chăm sóc yêu thương của tình mẹ nâng đỡ và bảo vệ ngài, giúp ngài lớn lên trong đời sống nhân bản làm người cũng như đời sống thiêng liêng làm tông đồ của Chúa. Mẹ và chị em ruột thịt luôn tiếp tục đồng hành cùng linh mục, với tình yêu thương, cầu nguyện, với chăm sóc canh phòng nhưng đầy an toàn và kính trọng. Một linh mục tốt luôn giữ mối liên hệ mật thiết với mẹ và các chị em ruột thịt của mình, đặc biệt trong thời gian gặp thử thách, thất bại, bị hiểu lầm, đau ốm bệnh hoạn, buồn phiền chán nản, lại bị dao động tình cảm, bị cám dỗ và cả khi bị yếu đuối vấp ngã nữa.
II. 4b Coi các Cụ Bà như mẹ và thiếu nữ như chị em
Để sống hồng ân quí giá là đời sống độc thân linh mục vì Nước Trời trong con đường trưởng thành và trong sáng, điều xem ra đặc biệt quan trọng là chúng ta phải phát triển cách sâu xa trong chính mình hình ảnh của các phụ nữ như mẹ và chị em mình, với cùng một lòng yêu thương và kính trọng như đối với mẹ và chị em mình, mà thánh Phaolô đã khuyên nhủ Timôtê: “Con hãy coi các cụ bà như mẹ, các thiếu nữ như chị em, với tấm lòng hoàn toàn trong sạch.”[33]
Trong thời đại hôm nay, chúng ta phải biết khám phá ra phẩm giá và ơn gọi của phụ nữ trong Giáo Hội và trong thế giới. Hơn bao giờ cả, ngày nay người ta nói nhiều đến giải phóng, bảo vệ và thăng tiến phụ nữ, và xem ra ngoài xã hội nhiều hơn trong Giáo Hội! Thật ra không phải thế, vì ngay từ thời của Ngài, Chúa Giêsu đã ân cần đón nhận sự cộng tác của nhiều phụ nữ theo giúp Ngài và cho họ một vị trí đặc biệt quan trọng, nhất là vai trò của Mẹ Maria và Maria Madalêna dưới chân thập giá, trong biến cố Phục sinh và thời kỳ đầu của Giáo Hội sơ khai, bắt đầu với Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
Có thể nói Giáo Hội dần dần lấy lại cái đã đánh mất hay lãng quên từ hai mươi thế kỷ nay.[34] Sự thăng tiến này làm cho người nam và người nữ cảm thấy bình đẳng và biết tôn trọng nhau trong mọi khía cạnh. Một biến cố chứng minh điều vừa nói là ngày 21/1/2010, ĐTC Biển Đức XVI đã bổ nhiệm Cô Flaminia Giovanelli là người phụ nữ đầu tiên nắm giữ vị trí Phó Thư Ký của Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình.[35]Một nữ giáo dân người Úc, Rosemary Goldie, cũng đã ở vị trí tương đương tại Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân từ 1966 đến 1976. Một nữ tu người Ý, Soeur Enrica Rosanna, hiện đang giữ cùng chức vụ tại Thánh Bộ Tu Sĩ[36].
ĐTC Phanxicô đang có những động thái nâng vai trò nữ giới lên một tầm cao mới: Sau khi nhắc đến giáo huấn của các vị tiền nhiệm về vai trò quan trọng của phụ nữ, Ngài khẳng định: “Cả tôi cũng đã từng nhắc đến sự đóng góp không thể thiếu được của phụ nữ trong xã hội, đặc biệt là với sự nhạy cảm và trực giác của phụ nữ đối với tha nhân, người yếu thế và người vô phương thế tự vệ; tôi vui mừng khi thấy nhiều phụ nữ chia sẻ một số trách nhiệm mục vụ với các linh mục qua việc tháp tùng các cá nhân, gia đình và nhóm, cũng như trong việc suy tư thần học. Và tôi cầu mong không gian dành cho sự hiện diện của phụ nữ được nới rộng một cách sâu rộng và quan trọng hơn trong Giáo Hội… Những năng khiếu tế nhị, đặc biệt nhạy cảm và dịu dàng mà tâm hồn phụ nữ vốn rất phong phú, không những là một sức mạnh chân thực cho đời sống gia đình, làm lan tỏa bầu không khí thanh thản và hòa hợp, nhưng còn là một thực tại mà nếu không có thì ơn gọi của con người không thể thực hiện được”[37].
Ngài còn nói mạnh mẽ hơn: “Chúng ta có thể nào hình dung một Giáo hội không có họ không? Không, chúng ta không thể nào hình dung được; đó là món quà của lòng thương xót của Chúa, là men bột để cho sự tăng trưởng của xã hội được công chính hơn, cho tình huynh đệ được thắt chặt hơn, họ đã mang ánh sáng của Chúa Kitô đến những nơi còn tăm tối, để gieo hy vọng cho những quả tim đã tuyệt vọng, họ đã chia sẻ cuộc sống của họ cho những người nhỏ bé, cho những người nghèo. Các nữ tu của chúng ta thật cao cả, họ đã tận hiến cuộc sống của họ, họ đã mang Lời Chúa đến với thế gian!”[38].
Ngược lại, Đức Phaolô VI cũng nhắc Dân Chúa trách nhiệm của họ là cầu nguyện và chân thành trợ giúp các linh mục vượt qua mọi nỗi khó khăn, tận tình yêu thương các ngài với tình con thảo và sẵn sàng cộng tác với các ngài, với kính trọng và tế nhị dè giữ, khích lệ và an ủi, vì các ngài là những người hoàn toàn tận hiến cho Chúa Kitô và Giáo Hội.
II.4c. Nhìn cách ứng xử và mối tương quan hài hoà của Chúa Giêsu đối với phụ nữ
Phúc Âm cho chúng ta biết rằng thái độ ứng xử của Chúa Giêsu mang lại tự do và hòa điệu giữa Ngài và các phụ nữ. Chúng ta cần học từ Chúa Giêsu, là Thầy và Chủ của mình, cách thức tương quan và ứng xử thế nào cho đúng mực với các phụ nữ. Chúng ta hãy xem vài khuôn mặt chính:
Mẹ Maria, người mà Chúa Giêsu đã tỏ lòng yêu thương của một người con và hết lòng kính trọng vâng phục và Mẹ đã trở nên bản đối chiếu mật thiết của Ngài trong việc lắng nghe và thực thi ý Chúa;
Mattha và Maria ở Bêtania, nơi mà Chúa thường ghé qua trong cuộc hành trình truyền giáo và Ngài đã trở nên rất gần gũi với họ;
Người phụ nữ xứ Samaria, được hoán cải và đổi mới, đã giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng vốn không biết đến căn tính đích thực của Ngài;
Maria Madalêna, người được cứu sống và hoàn toàn biến đổi nhờ Chúa Giêsu, cô đã được gặp Chúa Phục Sinh và nhận lãnh trực tiếp từ Ngài sứ vụ loan báo tin mừng sống lại;
Người phụ nữ vô danh đã lên tiếng ca tụng hạnh phúc của Mẹ Chúa và nhân đó Chúa đã dạy cho biết hạnh phúc lớn lao hơn là lắng nghe và thực hành lời Chúa;
Các con gái thành Giêrusalem đã theo khóc thương Chúa trên con đường khổ nạn.
Tóm lại, trong các mối tương quan của tình bạn khác phái, dù với người tu hay ở giữa thế gian, chúng ta phải luôn qui hướng về Chúa Kitô, khiêm tốn nhìn nhận những điều kiện con người yếu đuối của mình, lắng nghe sự khôn ngoan và kinh nghiệm từng trải của kẻ khác, đừng bao giờ dám tự phụ cho mình là mạnh,[39] trái lại nhớ luôn rằng “con chim nhát là con chim sống” hay “tam thập lục kế, vi tẩu thượng sách.” Chúng ta phải luôn khiêm tốn và bền bỉ cầu xin ơn trung thành: những cây đại thụ trong Giáo Hội còn ngã (có vị TGM bị ĐGH bãi luôn cả tình trạng giáo sĩ) huống gì nhỏ bé dòn mỏng như chúng ta! Hãy xem câu chuyện Samson-Dalila trong sách Thủ Lãnh và lấy đó làm gương răn mình.[40]
Ngoài ra, phải phát huy tình huynh đệ bí tích linh mục. Khi anh em linh mục thực sự yêu thương nhau, ai cũng thỏa mãn được nhu cầu tâm lý căn bản yêu và được yêu của con người, thì chẳng ai thèm đi tìm bù trừ hay đón nhận một tình cảm nào khác, dù là rất ngọt ngào của người khác phái vừa ý. Thế nhưng trong bất cứ cuộc chiến đấu nào cũng có chiến thắng và chiến bại. Nếu gặp phải trường hợp chiến bại, hãy cư xử theo lòng nhân hậu của Chúa Kitô, giúp nhau chuyển bại thành thắng, chỗi dậy đứng lên tiếp tục hành trình với bài học kinh nghiệm và tâm hồn đổi mới. Hãy coi lầm lỗi như một lúc con tàu bị trật bánh ra khỏi đường ray. Nếu khéo léo điều chỉnh, bánh xe sẽ lại trở về đúng vị trí để con tàu tiếp tục vận hành. Câu chuyện ông Samson vẫn giữ luôn ý nghĩa này là ngay cả khi con người sa ngã vì lầm lỗi, Thiên Chúa vẫn có thể ban ân nghĩa như trước.[41]Người lầm lỗi được chân thành thương yêu, quảng đại tha thứ và nhân từ nâng đỡ sẽ đủ nghị lực kiên trì biến đổi nên tốt, với sự trợ giúp của ơn thánh Chúa: Mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai.
Tâm lý chung của những người cầu toàn khi phát hiện một lầm lỗi là muốn làm om sòm lên. Nhưng liệu sự om sòm ấy có làm thay đổi được tình hình, hay nó lại càng “vạch áo cho người xem lưng” về tình trạng thiếu yêu thương của mình. Trước hết nên bình tĩnh, nhìn lại chính mình. Ai cũng có thể bị “vi-rút” tình cảm và tình dục tấn công. Vấn đề là cần có sức đề kháng tốt để tránh được bệnh. Sức đề kháng đó nằm ở chính sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và tình huynh đệ bí tích của linh mục với nhau, là nhân tố làm thỏa mãn nhu cầu yêu và được yêu trong bối cảnh của đời sống ơn gọi, được đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu, và kiên trì chu toàn bổn phận theo đấng bậc của mình cho các linh hồn được giao phó.
Ngày trước, khi còn dâng lễ latinh, cần có lời dẫn giải để giáo dân hiểu ý nghĩa của các cử chỉ, nghi thức và lời đọc để tham dự thánh lễ sốt sắng và hữu ích, tôi rất thích lời dẫn khi linh mục rửa tay sau dâng của lễ: “Khi linh mục rửa tay, chúng ta phải nguyện rằng ở giữa thế gian mà giữ linh hồn vẹn sạch thì rất khó.” Ấy vậy mà Thiên Chúa vẫn giúp thực hiện điều khó ấy cho hàng hàng lớp lớp giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân hằng kiên tâm thực thi giới răn của Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Cảm tạ Chúa và ước gì mỗi người chúng ta đều được nằm trong số ấy.
C. Khủng hoảng Lạm Dụng Tình dục và các Biện pháp của Giáo Hội và Thế Giới
1. Về phương diện bản thân
Xét về mặt thể lý, mọi tế bào trong cơ thể cứ từng 7 năm một lần đều được thay thế để tăng trưởng. Vấn đề sinh lý và tính dục cũng thế với các tuyến nội tiết và các loại hooc-môn đặc trưng qua từng giai đoạn của tuổi đời “không ai dạy cho khỉ mà khỉ vẫn biết leo cây”. Và ngày nay trẻ trưởng thành sinh học sớm hơn, lại có những cách giáo dục giới tính vội vàng không thích hợp, khiến có những cơn sóng ngầm nguy hiểm kích thích nạn lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên. Chúng ta cũng cần hiểu biết những xúc cảm bản thân hơn để sống giới tính của mình với tâm hồn bình an thanh thản trong đời tu, thoát khỏi những áp lực căng thẳng của cám dỗ và ham muốn gây nên mặc cảm sợ hãi về sự yếu đuối con người của mình, đôi khi tự đặt vấn đề không biết liệu có tu bền đỗ được không?
Chúng ta đi tu nhưng vẫn không thôi là con người có những ham muốn sinh lý tính dục tự nhiên. Nguyên khởi cảm nhận những ham muốn tự nhiên ấy không tội lỗi gì hết, hãy hiểu biết điều đó để tâm hồn bằng an thanh thoát, vì đấy là sự phát huy chức năng của các cơ quan thể xác mà Chúa đã an bài để tiếp tục thực hiện công trình sáng tạo. Chỉ thứ phát dừng lại ở những ham muốn đó và tìm cách thỏa mãn trái qui trình bậc sống mới là tội. Để vận dụng tốt các qui trình tự nhiên ấy, chúng ta cần cẩn thận trong những giao tiếp gần gũi thân mật với người khác giới. Cần phải triệt để lưu ý và thực hiện năm yếu tố cần giữ gìn trong các mối tương quan khác phái: – nơi chốn gặp gỡ, – thời gian và thời lượng, – khoảng cách thể lý và tâm lý, – sự có mặt của những người thứ ba – và sống ý thức sự hiện diện khuất ẩn nhưng rất thật của Chúa.
Ai ai cũng đều biết rõ rằng mọi thân xác đều có tính dục và mọi tương quan đều có tính cách phái tính. Có những hoàn cảnh khiến các hấp dẫn và khao khát tự nhiên về tình cảm và tính dục bộc lộ mãnh liệt hơn. Cần lưu ý dữ kiện tâm sinh lý này là sự hấp dẫn tính dục. Có sức hấp dẫn tính dục [như Giuse Ai cập với vợ ông quan] hay bị hấp dẫn tính dục [như vua Đavít với vợ của Uria] đều là nguy hiểm: dù là đối với người độc thân hay có gia đình, người thường hay người tu, coi chừng kẻo cả gan tấn công hoặc bị tấn công mà vấp ngã. Trong lãnh vực này không ai được phép cho rằng mình mạnh cả. Thánh Phaolô thú nhận: “Có ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối; có ai trong anh em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt”[42] và Ngài nhắc nhở “ai tưởng rằng mình đang đứng vững hãy coi chừng kẻo ngã”[43]. Hãy xem câu chuyện Samson-Dalila trong sách Thủ Lãnh và lấy đó mà răn mình. Gương vua Salomon vào cuối đời cũng là một bài học nhắc nhở quý báu[44]. Chúa Kitô dạy phải dùng đến hợp lực của sức Chúa và sức con người chúng ta: “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì nhẹ nhàng chóng vánh nhưng xác thịt thì nặng nề yếu đuối”[45]. ĐHY Carlo Maria Martini nói: “Mọi người, tín hữu, Giám mục, linh mục phải xác tín rằng không ai chắc chắn bền đỗ được; mối nguy lớn nhất là tưởng rằng mình đã đạt đến một mức ổn định đến nỗi không cần thận trọng nữa”[46].
Và khi nhỡ yếu đuối mà sa ngã, hãy khiêm tốn cầu xin ơn mau mắn chỗi dậy, sám hối dứt khoát lật sang trang đời mới, đứt đuôi nòng nọc, đứng hẳn về phía Chúa và Giáo Hội[47]. Nói nguyên tắc là vậy, nhưng không dễ đâu, bản thân mình đã rồi mà còn phía kia nữa, “cây muốn lặng mà gió không ngừng”. Do vậy cần phải có thời gian và ơn Chúa, cùng với sự quyết tâm bản thân cao và sự giúp đỡ của người khác. Thế gian không chỉ ghi nhận mọi sơ hở, mà còn gài bẫy để mặc cả, đặt điều kiện ép buộc có lợi cho họ, bất chấp thiệt hại của Giáo Hội, của các linh hồn và của chính bản thân linh mục. Nếu chẳng may vấp phải, hãy khiêm tốn thành thật trình bày với Bề trên Giáo Hội, các ngài sẽ có cách giúp đỡ giải quyết, càng muốn che đậy càng bị kẹt vì phải chấp nhận hết điều kiện nọ đến điều kiện kia, luôn sống trong bất an và sợ hãi (x. câu chuyện xảy ra tại Ba Lan). Nỗ lực sống trong sáng và triệt để những đòi hỏi của đời tu, thông cảm nâng đỡ anh em và khiêm tốn cầu xin, vì nếu Chúa không thương che chở thì có khi mình đã sa ngã nặng nề hơn. Ngoài ra, nhớ thực hiện năm phương thế sống lành mạnh các mối tương quan vừa nhắc: Nơi chốn gặp gỡ – Thời gian và thời lượng – Khoảng cách thể lý và tâm lý – Sự có mặt của những người thứ ba – Sống ý thức sự hiện diện khuất ẩn nhưng rất thực của Chúa.
Trong lãnh vực này, chúng ta đừng quên có ba thứ tội tối kỵ đối với linh mục kèm theo vạ tiền kết dành riêng cho Tòa Thánh: Lỗi ấn tòa giải tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm. Chúng ta hãy biết điều đó để tránh khỏi cái vạ rắc rối kia, ai có lỡ mà sa ngã thì đừng giải tội cho người đồng phạm, dù có sợ bị lộ phải xấu hổ, hầu khỏi nguy cơ tội chồng chất thêm tội phạm thánh, sống bất an suốt đời, và khi chết biết đi đâu!?
2. Biện pháp đối với tệ nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục
Những tổn thương lạm dụng tình dục đã và đang xảy ra đó đây do hàng giáo sĩ khiến Giáo Hội đang nỗ lực siết chặt kỷ luật và tìm kiếm các biện pháp thích ứng để sửa chữa, uốn nắn và thanh lọc. Lập trường của ĐTC Biển Đức XVIlà ‘tuyệt đối không khoan nhượng đối với tội ác đó’. Ngài nhắc trong thư gửi người công giáo Ái Nhĩ Lan: “Những tệ hại đó do các thủ tục thiếu sót trong việc ấn định ra tư cách xứng đáng của các ứng viên chức linh mục và cuộc sống tu trì; thiếu sót trong việc đào tạo nhân bản, luân lý, tri thức và thiêng liêng trong các chủng viện và tập viện.” Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trước đó, năm 2002, cũng đã nói: “Không có chỗ đứng trong hàng linh mục và trong đời tu trì cho những kẻ làm hại người trẻ… Cần phải giáo dục cho các ứng sinh linh mục và tu sĩ biết quí chuộng đức khiết tịnh và sự độc thân cũng như trách nhiệm làm cha tinh thần, và cần giúp họ đào sâu kiến thức về kỷ luật Giáo Hội liên quan đến những vấn đề này”.
Quả thật ngày nay đời sống đạo đức của một số linh mục đang thay đổi rất nhiều và xuống cấp vì tình trạng lạm dụng tình dục, không phải chỉ với trẻ em, mà còn lén lút với người lớn, cả nữ tu và người có gia đình nữa, mà mỗi bên đều có thể vừa là nạn nhân vừa là nguyên nhân, như người Miền Trung thường nói “tại cả anh tại cả ả, tại cả và hai”. Bộ Giáo Lý Đức Tin đã ra một Thư Luân Lưu[48] nhằm giúp các HĐGM trên khắp thế giới soạn thảo các đường hướng chỉ đạo xử lý nghiêm khắc những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục. Bộ yêu cầu mỗi HĐGM gửi về Bộ trước cuối tháng 5 năm 2012 một bản sao những đường hướng và các biện pháp nghiêm khắc vừa nói. Trong các cách xử lý có bao hàm việc áp đặt một hình phạt chung thân như việc rút khỏi bậc giáo sĩ.[49]
Đức Thánh Cha Phanxicô đã tái khẳng định tiếp tục đường hướng mà ĐTC Biển Đức XVI đã vạch ra để hành động kiên quyết liên quan đến các trường hợp lạm dụng tính dục. Ngài nói: “không thể ở địa vị có quyền thế để rồi hủy hoại đời một người khác… phải lấy lại “bài sai”, không cho phép người đó thi hành chức linh mục nữa, và nên khởi sự một phiên tòa theo Giáo luật. Tôi nghĩ đó là việc phải làm ngay. Tôi không tin vào việc chủ trương rằng cần phải duy trì một tinh thần hợp đoàn để tránh gây thiệt hại cho hình ảnh của định chế… Tôi ngưỡng mộ sự can đảm và chính trực của Đức Bênêđictô về vấn đề này. Nếu linh mục nào đến cho tôi hay đã làm cho một phụ nữ có thai, tôi sẵn sàng lắng nghe, rồi từ từ giúp ông hiểu ra rằng luật tự nhiên đã lấn át chức linh mục của ông. Ông phải rời bỏ thừa tác vụ để chăm sóc đứa trẻ kia, dù ông quyết định không kết hôn với người phụ nữ đó đi nữa, vì đứa trẻ có quyền có một người mẹ thế nào, thì nó cũng có quyền có một người cha như thế. Tôi cam kết sẽ dàn xếp mọi giấy tờ cho ông ở Rôma, nhưng ông phải rời bỏ mọi sự. Linh mục nào cho tôi hay đã sa ngã, nhưng muốn ăn năn, tôi sẵn sàng giúp ông chỗi dậy. Có linh mục chỗi dậy được, có linh mục không. Thậm chí có những linh mục không chịu nói chi với Giám mục của mình… Chỗi dậy là làm việc đền tội, duy trì việc độc thân của mình. Sống hai mặt là điều chẳng tốt đẹp gì cho ai cả. Tôi không thích lối sống ấy vì nó giả dối, bởi thế tôi thường nói: ‘nếu không thắng vượt được, thì nên quyết định ra đi”[50].
Trong bản tuyên bố của Phòng báo chí Tòa Thánh sau cuộc gặp các Giám mục Hòa Lan ngày 2/10/2013 có viết: “Khi Đức Giáo Hoàng và toàn thể Giáo Hội đang tiếp tục giải đáp cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục, chữa lành các nạn nhân, xử lý người phạm tội, đưa ra các biện pháp hợp động và các môi trường lành mạnh để che chở và bảo vệ các vị thành niên và mọi người yếu thế, điều quan trọng không kém là đánh giá sự thay đổi lớn lao đang diễn ra cả ở hạ tầng lẫn ở các bình diện cao nhất của Giáo Hội trong việc giải quyết sự ác, các hành động phạm pháp lạm dụng tình dục đã xẩy ra… Trong số các ưu tiên của ĐGH Phanxicô, cao nhất chắc chắn là những người phải chịu lạm dụng tình dục trong đời họ. Ngài sẽ tiếp tục giải quyết vấn đề này một cách rõ ràng, trong sáng, cương quyết, công bình, có định hướng và đầy cảm thương”[51].
ĐTC Phanxicô đã chấp nhận đề nghị của Hội đồng Hồng Y để quyết định thành lập một ủy ban đặc biệt để bảo vệ trẻ em. Ủy ban sẽ tư vấn cho ĐTC về bảo vệ trẻ em và chăm sóc mục vụ cho các nạn nhân bị lạm dụng, cách riêng nghiên cứu các chương trình bảo vệ trẻ em hiện nay và đề xuất các sáng kiến mới cho giáo triều Rôma, phối hợp với các Giám mục và HĐGM, các Bề trên Dòng tu và các Hiệp hội Bề trên; giới thiệu những người có khả năng trong lĩnh vực tâm lý hay pháp luật (giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân) để thực hiện các chương trình này. Ủy ban còn đảm trách các biện pháp chung về việc bảo vệ trẻ vị thành niên; các thủ tục và chiến lược để ngăn ngừa vi phạm; các chương trình dành cho trẻ em, phụ huynh và các giáo lý viên, các chủng sinh và linh mục tiếp xúc với người trẻ; các quy tắc ứng xử, thẩm tra hồ sơ tư pháp, hợp tác với toà án, mục vụ nâng đỡ và trợ giúp tinh thần cho các nạn nhân và gia đình, truyền thông và thông tin cho các tín hữu, đối thoại với các nạn nhân và cải huấn các giáo sĩ vi phạm. ĐTC sẽ sớm phát hành một tài liệu chi tiết[52].
Các lãnh đạo HĐGM Mỹ mau mắn tuyên bố hỗ trợ Uỷ ban này của Tòa Thánh. Đức TGM Joseph E. Kurtz, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ giải thích rằng các giám mục Hoa Kỳ đã học được nhiều biện pháp quan trọng (sau khi đã mất 2,2 tỷ mỹ kim, một số giáo phẩm phải từ chức và sáu giáo phận phải tuyên bố phá sản vì không đủ tiền bồi thường do nạn giáo sĩ lạm dụng) để giúp ngăn chặn tình trạng lạm dụng, bao gồm cả kiểm tra lý lịch, giáo dục trẻ em và người lớn về an toàn trẻ em, loại bỏ nhanh chóng người phạm tội, và sự cần thiết các cơ quan Giáo Hội và chính quyền dân sự làm việc cùng nhau[53].
Trong cuộc gặp 120 Bề trên Tổng Quyền Dòng Nam ngày 29/11/2013, ĐTC Phanxicô không quên ca ngợi những cố gắng của ĐGH Biển Đức 16 trong việc ngăn chặn nạn giáo sĩ, tu sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chọn lọc các ứng viên vào đời sống tu trì, để loại bỏ những người có những lầm lỗi không thể chữa trị được. Ngài nói: “Tất cả chúng ta đều là người tội lỗi, nhưng không phải tất cả chúng ta đều là những người ung thối hư hỏng. Người tội lỗi được chấp nhận, nhưng không thể chấp nhận những người ung thối, hư hỏng” (CNS 3-1-2014).
Trong bài giảng lễ ngày 16/1/2014 tại nhà Martha, khi đề cập đến những gương mù, những xì căng đan trong Giáo Hội, ĐTC Phanxicô mạnh mẽ tố giác các tư tế hư hỏng bằng đặt câu hỏi: “Chúng ta có xấu hổ không? Có bao nhiêu gương mù mà tôi không muốn nêu riêng rẽ ở đây, nhưng tất cả chúng ta đều biết chúng ở đâu. Những xì căng đan mà một số người đã bắt phải trả bao nhiêu tiền. Thật là một ô nhục cho Giáo Hội. Chúng ta xấu hổ vì những xì căng đan, những chiến bại của các linh mục, giám mục, giáo dân? Lời Chúa trong những xì căng đan ấy thật là hiếm hoi! Họ không có quan hệ với Thiên Chúa! Họ có một địa vị trong Giáo Hội, một địa vị quyền lực, và thoải mái. Nhưng lời Chúa thì họ không có… Tội nghiệp dân! Chúng ta không cho họ bánh sự sống để ăn, chúng ta không cho họ chân lý! Thậm chí chúng ta cho họ ăn bánh bị nhiễm độc, bao nhiêu lần! Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta đừng bao giờ quên Lời Chúa, xin cho Lời Chúa đi vào tâm hồn chúng ta và không bao giờ quên dân thánh trung thành của Chúa đang xin chúng ta bánh mạnh mẽ!”[54]
Ước gì tất cả những nỗ lực ấy đều nhằm đến sự biến đổi tốt đẹp hơn, thánh thiện hơn, làm cho nhiều người được hạnh phúc cứu độ và Danh Chúa được cả sáng hơn. Thế mà thật đáng tiếc là ngày 5/2/2014, Ủy ban về quyền trẻ em của LHQ gay gắt cáo buộc Tòa Thánh để mặc nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục và thúc giục mở hồ sơ về các người phạm tội ấu dâm cũng như các giáo phẩm che đậy các tội ác của họ, trong khi đó Giáo Hội luôn nhận trách nhiệm đối với các linh mục và giám mục từng góp phần vào việc lạm dụng này, và đã đưa ra nhiều biện pháp quyết liệt và hữu hiệu để xử lý các vấn đề này. Ngoài ra Ủy ban này còn chỉ trích Tòa Thánh về các thái độ đối với đồng tính luyến ái, ngừa thai và phá thai, đồng thời yêu cầu Tòa Thánh nên duyệt lại các chính sách của mình.
Quả thật, “tài liệu này là dấu hiệu cho thấy thảm kịch ấu dâm được dùng làm cớ để tấn Công Giáo Hội” bằng mưu tính củng cố một đường lối ý thức hệ. Tòa Thánh đã tỏ ý tiếc đối với việc ủy ban LHQ “mưu toan can thiệp vào giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về phẩm giá con người và việc thi hành tự do tôn giáo”. Nếu tính đến những phương thuốc thực tế để ngăn ngừa các trường hợp lạm dụng trẻ em qua việc sử dụng luật lệ, các quyết định của các HĐGM và việc huấn luyện các chủng sinh, thì thật khó “mà tìm được các định chế quốc tế hay quốc gia nào khác đã làm được nhiều như thế một cách chuyên biệt để bảo vệ trẻ em, như Giáo Hội Công Giáo”.
TGM Tomasi, quan sát viên thường trực của Toà Thánh tại LHQ cho biết trong Lời Nói Đầu Công Ước Bảo Vệ Trẻ em có nói về việc bảo vệ sự sống và bảo vệ trẻ em trước và sau khi sinh, trong khi ấy khuyến cáo của ủy ban lại khuyên Tòa Thánh phải thay đổi lập trường để cho phép phá thai! Một đứa trẻ bị giết thì làm sao có quyền nữa! Thành thử điều này là một mâu thuẫn thực sự đối với mục tiêu căn bản của Công Ước bảo vệ trẻ em. Ủy Ban này không phục vụ tốt đối với LHQ, khi tìm cách dẫn dụ và yêu cầu Tòa Thánh thay đổi một giáo huấn không thể nào thay đổi được của mình![55]
Sơ Mary Ann Walsh, Giám đốc quan hệ truyền thông của HÐGM Hoa Kỳ phê bình báo cáo của Ủy ban LHQ bị mất giá trị khi cố đưa ra những phản đối giáo huấn Công Giáo về vấn đề hôn nhân đồng tính, phá thai và ngừa thai. Ủy ban này sẽ có uy tín hơn nếu nó bảo vệ các quyền cơ bản nhất của một đứa trẻ: đó là quyền được sống. Khi Ủy ban này của LHQ sa đà vào các cuộc chiến tranh văn hóa để thúc đẩy việc phá thai, ngừa thai và hôn nhân đồng tính, nó đang làm xói mòn chính nghĩa cao quý của nó dành cho trẻ em, và bán đứng mối quan tâm về trẻ em cho các chương trình nghị sự khác. Thật là một cơ hội bị đánh mất[56].
Và chính ĐTC Phanxicô đã trả lời phỏng vấn của nhật báo Ý Corriere della Sera rằng: “Tôi muốn nói hai điều. Các trường hợp lạm dụng là khủng khiếp vì chúng để lại những vết thương rất sâu. Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI đã rất dũng cảm và đã chỉ rõ con đường. Giáo Hội đã làm rất nhiều trên con đường này. Có lẽ nhiều hơn bất cứ ai. Các thống kê về hiện tượng bạo lực đối với trẻ em gây sốc, nhưng chúng cũng cho thấy rõ ràng rằng phần lớn các vụ lạm dụng diễn ra trong môi trường gia đình và xung quanh gia đình. Giáo Hội Công Giáo có lẽ là cơ cấu công cộng duy nhất đã hành động với tính minh bạch và trách nhiệm. Không có cơ cấu nào khác đã làm được hơn. Thế mà Giáo Hội là người duy nhất bị tấn công”[57].
Tuy nhiên, qua những mưu tính thù nghịch cách bất công đó mà hiện nay đang có những thế lực vận động tẩy chay Tòa Thánh ra khỏi LHQ để Tòa Thánh không có tiếng nói ở LHQ nữa. Thế giới Công giáo cũng có những nỗ lực ngược lại. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện và nỗ lực hết mình cho tiếng nói của Chân Lý luôn được vang lên.
Một động thái mới nhất của Tòa Thánh là Uỷ ban bảo vệ trẻ vị thành niên – được Đức Thánh Cha Phanxicô thành lập ngày 22/03/2014 với 8 thành viên– đã có cuộc họp đầu tiên từ ngày 1-3/5/2014 tại Nhà khách Santa Martha. Uỷ ban bàn thảo về bản chất và phạm vi công việc của mình, cũng như việc phối hợp các thành viên đại diện cho các khu vực địa lý khác nhau trên thế giới[58]. Ủy Ban tuyên bố: “Đang khi cùng nhau bắt đầu công việc của mình, chúng tôi mong muốn bày tỏ tình liên đới sâu xa của chúng tôi đến tất cả các nạn nhân, trẻ em hay người lớn tuổi yếu thế, đã chịu những lạm dụng tình dục, và chúng tôi muốn cho thấy rằng từ khởi đầu công việc, chúng tôi đã thông qua nguyên tắc rằng thiện ích của một trẻ em hay của một người lớn tuổi yếu thế là ưu tiên trong mọi quyết định được đưa ra”.
Với tư cách một Uỷ ban tư vấn cho Đức Thánh Cha, vào lúc thích hợp chúng tôi sẽ đưa ra các sáng kiến để khuyến khích các địa phương trên toàn thế giới nhận trách nhiệm và chia sẻ với nhau các “thực hành tốt nhất” để bảo vệ tất cả trẻ vị thành niên, bao gồm các chương trình huấn luyện, giáo dục, đào tạo, và ứng phó với nạn lạm dụng. Chúng tôi cho rằng việc bảo đảm nhận trách nhiệm trong Giáo hội là đặc biệt quan trọng, bao gồm việc khai triển các cách thức cho việc tố tụng được hiệu quả và minh bạch.
Chúng tôi muốn trình bày những đề nghị đặc thù nhấn mạnh những con đường phải theo để giúp người ta nhạy bén với những hậu quả bi thảm của những cuộc lạm dụng tình dục và những hậu quả tai hại của việc thiếu lắng nghe, thiếu những báo cáo trong trường hợp có nghi ngờ lạm dụng, và thiếu nâng đỡ các nạn nhân bị lạm dụng tình dục và gia đình của họ… chúng tôi dấn thân với những người thiện chí để bảo đảm rằng các trẻ em và những người lớn tuổi yếu thế được bảo vệ khỏi những cuộc lạm dụng. Chúng tôi xin tất cả những ai muốn nâng đỡ công việc của Ủy ban cầu nguyện cho chúng tôi”[59].
Chúng ta hãy gia tăng cầu nguyện và nỗ lực sống tốt hơn mỗi ngày đời sống và sứ vụ linh mục của chúng ta bằng việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Xin cho Lời Chúa thực sự soi sáng trí khôn, mời gọi tới đức tin, mở lớn niềm hy vọng, thức tỉnh và đổi mới tình yêu của chúng ta: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”[60]. Chúng ta hãy đặt cuộc sống mình dưới sức mạnh của Lời Chúa và làm cho Lời Chúa phát sinh hiệu quả: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”[61]
Trong niềm tin tưởng vào lời hứa của Chúa Cứu Thế bảo vệ Giáo Hội khỏi sức mạnh tàn phá của hỏa ngục và sự đổi mới không ngừng của Chúa Thánh Linh, tôi xin mượn cuộc phỏng vấn thú vị của Zenith với Đức ông Rossetti, tác giả cuốn “Tại sao các linh mục hạnh phúc” phát hành ngày 12/10/2011. Đức ông Rossetti là một nhà tâm lý học chuyên sâu, trước đây là Chủ tịch và Giám đốc điều hành trung tâm điều trị và giáo dục dành cho hàng giáo sĩ và tu sĩ, hiện là Phó Giám đốc các chương trình hội thảo và sứ vụ tại các Đại học Công giáo Mỹ.[62]
Các linh mục có thuộc nhóm những người hạnh phúc nhất không?
- Một số nghiên cứu ở Mỹ trong vài năm qua phát hiện khoảng 90% các linh mục nói rằng họ hạnh phúc. Trong khảo sát của Đức Ông Rosetti với 2.500 linh mục, tỉ lệ này cao tới 92,4%. Các yếu tố dự báo mạnh mẽ nhất cho hạnh phúc của linh mục là sự “an bình nội tâm.” Nếu chúng ta cảm thấy an bình nội tâm, thì cũng cảm thấy được hạnh phúc với những gì xung quanh. Nhưng đây cũng là một thách đố: Nếu chúng ta không hạnh phúc với cuộc sống của mình, thì đừng chỉ trích bên ngoài, nhưng hãy nhìn vào nội tâm chúng ta. Yếu tố dự báo mạnh mẽ nhất của an bình nội tâm là mối quan hệ của ta với Thiên Chúa. Khi ta có mối quan hệ vững chắc với Thiên Chúa, ta sẽ có an bình nội tâm. Chúa Giêsu hứa ban cho chúng ta ơn này: “Thầy để lại bình an của Thầy cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em.” Chúng ta chỉ tìm thấy sự bình an đích thực và lâu dài trong Thiên Chúa. Đời sống thiêng liêng của chúng ta là một đóng góp mạnh mẽ cho an bình nội tâm lẫn hạnh phúc cá nhân. Chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy an bình nội tâm và niềm vui cho đến khi thực sự có mối quan hệ cá nhân với Thiên Chúa. Hầu hết các linh mục đã tìm thấy mối quan hệ như vậy, và họ là những người đàn ông hạnh phúc.
Vai trò của các mối quan hệ liên nhân vị trong hạnh phúc của linh mục?
- Yếu tố góp phần vào mối quan hệ tích cực với Thiên Chúa là có các người bạn thân. Việc phát triển mối quan hệ lành mạnh với người khác giúp chúng ta kết nối với Thiên Chúa. Nhiều lần Phúc Âm đã nói về việc mến Chúa yêu người như là hai mặt của một thực tại: “Người nào không yêu thương anh em mà mình nhìn thấy thì không thể yêu Chúa mà mình không nhìn thấy.” Kết quả thống kê đã khẳng định giáo huấn Tin Mừng này: yêu thương người lân cận và xây dựng mối quan hệ bác ái với bạn bè, gia đình và người lân cận giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa, và ngược lại. Điều này thật quan trọng để trở thành người hạnh phúc. Sự cô lập gây ra bất hạnh. Cần phải liên kết với các người khác. Điều đáng mừng là trên 90% các linh mục báo cáo là có tình bạn vững chắc với các linh mục khác và giáo dân. Con số các linh mục hạnh phúc đã gia tăng, và có thể sẽ tăng lên cao hơn, chỉ có 3,1% linh mục đôi khi nghĩ đến việc rời khỏi chức linh mục.
Đời sống độc thân liên quan đến hạnh phúc của linh mục thế nào?
- Linh mục nào cảm thấy được Thiên Chúa kêu gọi sống đời độc thân và cảm nghiệm sống đời độc thân như là một ân sủng cá nhân, bất chấp những thách đố của nó, thì họ là người đàn ông hạnh phúc. Thật vui là trên 75% linh mục đã thấy đời độc thân là một phần tích cực của cuộc sống họ. Tỉ lệ này có khả năng tăng cao hơn trong tương lai. Chính các linh mục trẻ tuổi nhất là người mạnh mẽ ủng hộ việc sống độc thân bắt buộc. Nhưng đây là một thách thức: chấp nhận việc sống độc thân như là một phần cần thiết của đời sống linh mục đòi hỏi một mức độ sâu sắc hơn về tâm linh để cảm nghiệm đời độc thân như một ơn ban của Thiên Chúa, và là một ân sủng cá nhân.
ĐHY Claudio Hummes lúc còn là Tổng Trưởng Bộ Giáo Sĩ đã nhận định lạc quan, hy vọng và đầy an ủi: “tuyệt đại đa số các linh mục là những người rất xứng đáng, toàn tâm toàn ý cho thừa tác vụ linh mục, những người chuyên tâm cầu nguyện và làm việc bác ái mục vụ, đặt cả cuộc đời vào việc thực hiện ơn gọi và sứ mệnh của mình… Giáo Hội muốn nói trước hết với các linh mục rằng Giáo Hội hãnh diện biết bao về các linh mục của Giáo Hội; Giáo Hội yêu mến, tôn kính, ngưỡng mộ họ dường nào và nhìn nhận với lòng tri ân công tác mục vụ của họ và cuộc đời chứng nhân của họ.” [63]
Nếu chúng ta thuộc nhóm những linh mục này, xin Chúa gìn giữ chúng ta được như vậy mãi. Nhưng nếu chúng ta không được ở trong nhóm đó, thì xin Chúa thương tha thứ và dẫn đưa chúng ta vào. Amen.
Huế, tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu
Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss
Kinh Linh mục dâng mình cho Thánh Tâm Chúa Giêsu
Lạy Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc rất đáng mến yêu, và là linh mục đời đời, chúng con sấp mình xin Chúa đoái xem chúng con, là những người được Chúa gọi là bạn hữu, và được Chúa cho tham dự vào chức linh mục của Chúa.
Chúng con đây là của riêng Chúa, và chúng con muốn thuộc về Chúa mãi mãi. Vì vậy, chúng con hiến toàn thân chúng con cho Trái Tim Cực Thánh Chúa, là nơi nương ẩn độc nhất bảo đảm phần rỗi Chúa đã ban xuống cho nhân loại lầm than.
Chúa đã hứa ban những thành quả dồi dào cho việc tông đồ của các linh mục tôn sùng Trái Tim Chúa. Chúng con nài xin Chúa làm cho chúng con được chuyên cần làm việc trong vườn nho Chúa, được thực tình khiêm tốn và dịu hiền, được đầy tinh thần sốt sắng và nhẩn nại, được nóng lên trong tình mến Chúa, hầu luôn luôn khêu lên và bồi dưỡng ngọn lửa tình yêu ấy trong tâm hồn các tín hữu. Xin Chúa nung đốt trái tim chúng con cho nên mới, để chúng con không còn lo tìm gì khác, ngoài việc tìm làm vinh danh Chúa và sinh lãi cho Chúa các linh hồn mà Chúa đã chuộc lấy bằng máu châu báu Chúa.
Lạy Đấng Chăn Chiên Nhân Lành, xin thương xót nhất là anh em linh mục chúng con. Hoặc có ai trong chúng con lỡ bước sa vào phù hoa thế tục, làm cực lòng Chúa và Giáo Hội bạn chí ái của Chúa, thì xin cho chúng con biết dẫn họ trở về bên lòng Chúa ấp yêu, hay ít nữa cho chúng con được yêu mến Chúa hơn, hầu đền tạ những lỗi lầm, sửa chữa những thiệt hại do các anh em ấy gây nên, và yên ủi Chúa giảm được sầu buồn.
Sau hết, xin cho mỗi người chúng con được dùng lời của Thánh Augustinô mà than thở cùng Chúa rằng: “Ôi Chúa Giêsu nhân ái, xin sống trong con; xin một tia lửa sống của tình yêu Chúa hãy bén lên trong tâm trí con, xin cho nó bùng cháy lên thành ngọn lửa hoàn toàn, để tim con luôn là bàn thờ nóng bỏng, ngõ hầu chuyền sức nóng vào tận ruột gan con, cho thiêu đốt đến tận cùng đáy sâu của tâm hồn con. Đến ngày tàn lụi của đời con, chớ gì con được tiêu tan nơi Chúa, là Đấng hằng sống hằng trị cùng Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần muôn đời’. Amen.
[1] Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa… (1 Cr 10,6).
[2] Các nước Á châu, và ngay cả tại Việt Nam, không phải là không có đâu, nhưng không bị bạch hóa ồn ào vì tâm thức dè dặt kín đáo và tế nhị của người mình thôi.
[3] Presbyterorum Ordinis, số 16.
[4] Sacerdotalis Coelibatus số 12.
[5] Pastores Dabo Vobis số 29.
[6] x. GL 277,1.
[7] PDV. 29; PO. 16; Sacerdotalis Coelibatus 14; GL 277,1.
[8] Chỉ Nam 1994 số 57.
[9] x. 2 Th 2,15; 1 Cor 7,5; Tt 1,6-8; Chỉ nam 1994 số 59.
[10] Bộ GDCG, Đường hướng giáo dục trong việc huấn luyện độc thân linh mục số 16.
[11] 1 Tm 6,11.
[12] x. Những khái niệm về việc đào tạo bậc độc thân linh mục của Hội Xuân Bích số 27.
[13] x. Bộ Giáo dục Công giáo, Huấn luyện thiêng liêng trong các chủng viện II,3 “những khổ chế thiêng liêng”; Jean-Jacques OLIER, “Con đường nên thánh là con đường thập giá.”
[14] x. 1 Co 4, 14-15 về tình phụ tử của thánh Phaolô đối với các tín hữu.
[15] GL 1026.
[16] Chỉ Nam 1994 số 58.
[17] Cha Felix M. Padimatham nói rằng Chúa Giêsu trở thành mẫu gương hoàn hảo của tình bạn khác tính luyến ái. Ngài cũng chỉ ra nhiều mẫu gương các Thánh và Chân Phước đã có loại tình bạn này trong cuộc đời các ngài, như thánh Hiêrônimô và bà quả phụ Paula, thánh Gioan Kim Khẩu và nữ trợ tế Olympias, thánh Phanxicô Assisi và thánh nữ Clara, thánh nữ Catarina Siena và Chân Phước Raymon Capua, thánh nữ Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá, v.v…
[18] x. Câu chuyện ‘một nơi kín đáo không ai nhìn thấy’ của thầy Dòng nọ.
[19] 2 Cr 4,7.
[20] CNS 25.11.2010 ghi lại bài giáo lý của ĐTC Biển Đức trong buổi triều yết chung ngày 24/11/2010.
[21] x. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, Đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng của linh mục tương lai trong bối cảnh Việt Nam ngày nay, tr.283-291.
[22] St 2, 18-24.
[23] Xem Câu chuyện truyền thuyết về tạo dựng người nữ.
[24] Mc 12,17.
[25] x. Mt 26,41; Mc 14,38.
[26] Chúa đã gọi, sao còn một tiếng gọi? Lòng nhủ lòng can đảm dẹp mến thương, Vâng tiếng Chúa, sống cho tròn sứ mệnh.
[27] Nói về tình bạn của thánh Phanxicô Assidi và Clara, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI dạy: Tình bạn của hai đấng là một sức mạnh giúp theo đuổi con đường nên thánh. Cả hai vị thánh bổ túc cho nhau trong việc tìm kiếm Thiên Chúa. Cả hai đều xây dựng đời mình trên sự đòi hỏi tận căn của Tin Mừng: “Tình bạn là một trong những tình cảm nhân loại cao quý nhất mà ân sủng của Thiên Chúa thanh tẩy và biến đổi.” Đức Thánh Cha cũng nói: “các vị thánh khác cũng đã sống một tình bạn sâu xa trên con đường tiến tới sự hoàn thiện thiêng liêng, như thánh Phanxicô Salê và thánh Jeanne-Françoise de Chantal. Chính thánh Phanxicô Salê đã viết: ‘Thật đẹp thay có thể yêu mến trên trần gian như ta yêu mến trên trời, và học biết yêu thương nhau trong thế giới này như chúng ta sẽ yêu thương nhau trong thế giới vĩnh hằng. Ở đây, tôi không đơn giản nói về tình yêu đức ái, vì chúng ta phải có tình yêu này đối với hết mọi người; tôi nói về tình bạn thiêng liêng, trong khuôn khổ đó, hai, ba hay nhiều người trao đổi cho nhau những lòng sùng mộ, những tình cảm thiêng liêng và thực sự trở nên một tâm trí duy nhất’.” Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “Các thánh nam nữ là những ân nhân của nhân loại. Họ canh tân thế giới bằng cách tỏa lan tình yêu được Tin Mừng gợi hứng. Như các ngài, ước gì chúng ta cũng có thể để mình được chỉ dẫn bởi ‘sự nghèo khó diễm phúc, sự khiêm tốn thánh thiện và đức ái khôn tả’ của Chúa Kitô” (Theo Anita S. Bourdin trong http://www.zenit.org/article-25377?l=french, ngày 15/9/2010.
[28] Gl 5,17.24-25.
[29] Ga 17,11.15-19.
[30] Nhớ bài “Lý Con Quạ” Nam Bộ: “Quạ kêu, cái mạ quạ kêu, nam đáo bất đáo nữ phong, người dưng khác họ, chẳng nọ thời kia, ban ngày mắc cỡ, tối ở quên về, chừng ra í a ra về, tình tình mà nhớ thương, chừng ra í a ra về, tình tình mà nhớ thương.”
[31] 1 Cr 9,27: Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại.
[32] Xin xem các biện pháp đối với tệ nạn lạm dụng tình dục.
[33] 1 Tm 5,2.
[34] x. Bài thuyết trình “Giáo Hội cảm phục và biết ơn những gười nữ sống đời thánh hiến” của lm. Micae-Phalô Trần Minh Huy pss tại Đại Hội Tu sĩ tòan quốc lần thứ IV ngày 8-10/3/2010 tại Bùi Chu..
[35] Vatican CNA ngày 21/1/2010 http://www.catholicnewsagency.com. Hãng CWN ngày 22/1/2010 còn ghi thêm: “Một nữ giáo dân người Úc, Rosemary Goldie, cũng đã ở vị trí tương đương tại HĐ giáo hoàng về Giáo Dân từ 1966 đến 1976.
[36] CWN ngày 22/1/2010.
[37] Trích bài phát biểu trong buổi tiếp kiến sáng thứ bẩy 25/1/2014, dành cho 300 tham dự viên hội nghị toàn quốc do Trung Tâm Phụ Nữ Italia tổ chức.
[38] ĐTC nói trong ngày đời sống thánh hiến 2/2/2014.
[39] x. 2 Cr 12,7-10.
[40] Tl 16,4-6.16-21.
[41] Tl 16, 22-31.
[42] 2 Cr 11, 29.
[43] 2 Cr 11,29; 1 Cr 10,12.
[44] x. Tl 16,4-6.16-21; Hc 47,13-20.
[45] Mc 14,38.
[46] ĐHY Carlo Maria Martini, Phaolô đối diện với chính mình, trích trong Alleluiah số 109.
[47] x. Rm 13,11-14.
[48] Ra ngày 3/5/2011 và công bố hôm 16/5/2011.
[49] Có ai biết bản kế hoạch và biện pháp của HĐGMVN thế nào không?
[50] ĐTC Phanxicô phát biểu hôm 5/4/2013, theo CNA/EWTN News.
[51] http://www.vietcatholic.net/News/Html/119481.htm
[52] Vatican City, 5 December 2013 (VIS, CNA/EWTN News).
[53] WASHINGTON DC, 08 Tháng 12 (CNA / EWTN Tin tức).
[54] SD 16-1-2014 – http://vietvatican.net/
[55] http://vietcatholic.org/News/Html/121467.htm
[56] http://vietcatholic.org/News/Html/121503.htm
[57] Trích từ cuộc phỏng vấn ngày 5/3/2014 ĐTC Phanxicô của nhật báo Ý- CNA/EWTN News.
[58] Theo Vatican Radio- http://www.hdgmvietnam.org/tuyen-bo-ket-thuc-khoa-hop-thu-tu-cua-hoi-dong-hong-y-tu-van/6006.57.7.aspx
[59] Theo ZENIT -http://xuanbichvietnam.net/trangchu/thien-ich-cua-tre-em-la-uu-tien-trong-moi-quyet-dinh/
[60] Dt 4,12
[61] Is 55,10-11
[62] Viết theo bài của Nguyễn Trọng Đa trong Vietcatholic.net từ nguồn Zenith.org ngày 6/10/2011.
[63] ĐHY Cláudio Hummes, Thư nhân Năm Linh Mục Zenit.org ngày 27/5/2009.
(http://xuanbichvietnam.net/)