Suy niệm các thánh vịnh 115, 30, 117 - thứ 5-6-7 Tuần Thánh

Những lời Thánh vịnh này đã vang lên trên môi miệng Đức Giêsu, giờ đây cũng phải được thốt lên từ môi miệng mỗi người chúng ta, của tất cả mọi người. Có biết bao bệnh nhân trong gia đình, trong các bệnh viện! Có biết bao người bị bách hại, bị khinh dể, biết bao người bị xem như những đồ vật! Có biết bao người bị bỏ rơi! Nhưng xin vui lòng đọc cho hết Thánh vịnh, chúng ta sẽ cùng dâng lời tạ ơn Chúa.

Suy niệm các thánh vịnh 115, 30, 117 - thứ 5-6-7 Tuần Thánh

Suy Niệm Thánh Vịnh 115  -  Thứ Năm Tuần Thánh
 
10 Tôi đã tin cả khi mình đã nói : "Ôi nhục nhã ê chề !"
11 Đã thốt ra trong cơn hốt hoảng : "Mọi người đều giả dối !"
12 Biết lấy chi đền đáp CHÚA bây giờ
vì mọi ơn lành Người đã ban cho ?
13 Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ
và kêu cầu thánh danh ĐỨC CHÚA.
14 Lời khấn nguyền với CHÚA, tôi xin giữ trọn,
trước toàn thể dân Người.
15 Đối với CHÚA thật là đắt giá
cái chết của những ai trung hiếu với Người.
16 Vâng lạy CHÚA, thân này là tôi tớ,
tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài,
xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi.
17 Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh ĐỨC CHÚA.
18 Lời khấn nguyền với CHÚA, tôi xin giữ trọn,
trước toàn thể dân Người,
19 tại khuôn viên đền CHÚA, giữa lòng ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem !
Ha-lê-lui-a. 
 
Hội Thánh đề nghị chúng ta hát Thánh vịnh 115 vào dịp Thứ Năm Tuần Thánh, nên chúng ta cần suy niệm cách đặc biệt. Chúng ta biết rằng theo sách Lễ Nghi Do Thái, đây là Thánh vịnh thứ tư của bài Tụng ca, nghĩa là bài ca tụng được hát sau bữa ăn Vượt Qua. Lập bí tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng, Đức Giêsu cũng đã cầu nguyện và hát Thánh vịnh này.
 
Cùng Đọc Với Dân Israel

Bữa ăn Vượt Qua được cử hành trong mỗi gia đình vào buổi chiều đầu tiên của cuộc lễ. Bữa ăn chiều hôm đó được chuẩn bị rất thịnh soạn. Ở đầu bàn, trước mặt người chủ gia đình, có đặt ba ổ bánh (bánh khổ nhục) không men (vì cha ông chúng ta đã không có đủ thời giờ để nhồi bột trong cuộc khởi hành vội vã ra khỏi đất nô lệ). Trên bàn để rau đắng, gợi lên nỗi cay đắng của cuộc đời nô lệ… xương dính thịt chiên nướng của con chiên vượt qua… Trước mỗi thực khách đặt một chén rượu nho. Trong suốt bữa ăn, mỗi người sẽ cạn chén bốn lần và mỗi lần đọc lời chúc tụng, dấu chỉ sự hạnh phúc và lòng tri ân đối với Thiên Chúa.

Trong bữa ăn, người ít tuổi nhất sẽ nêu lên những câu hỏi cho người gia chủ. Ông sẽ đáp lại bằng lời kinh Haggada, hay bài tường thuật giải phóng khỏi Ai cập.

Cuối bữa ăn, mọi người hát bộ Hallel, nghĩa là những Thánh vịnh từ 112 đến 117.

Thánh vịnh 115 gồm tóm tất cả tâm tình của dân Israel. Bị đàn áp khổ cực (ôi nhục nhã ê chề), dân Israel đã được Pharaon cho phép ra đi, thoát khỏi hỏa lò. Nhưng  này đây họ đang bị đạo quân Ai cập đuổi theo bén gót (đã thốt ra trong cơn hốt hoảng: mọi người đều giả dối!). Lòng dạ hai mặt của con người. Bị dồn vào chân tường, trước mặt là Biển Đỏ sau lưng các chiến xa của Pharaon, chính lúc đó biển đã tách ra (đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người).Dưới cảm xúc mạnh, tác giả Thánh vịnh đột ngột chuyển sang ngôi thứ hai: Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích tháo buộc con, Ngài đã tháo cỡi. Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, con sẽ dâng chén cứu độ…”

Vì thế, bữa ăn vượt qua chính là tiếng reo vui tạ ơn dâng lên Thiên Chúa cứu độ, Đấng cứu khỏi đau khổ và sự chết. Chính Đức Giêsu đã sống tâm tình của bữa ăn này, vào buổi tối sau cùng  trước khi chịu chết và sống lại.
 
Cùng Đọc Với Đức Giêsu

Hòa cùng với lời kinh của dân tộc mình khi đọc lên Thánh vịnh này, Đức Giêsu đã thổi vào nó một chiều kích phổ quát. Thảm cảnh của dân Israel, cũng chính là cảnh cùng khốn của mọi người, dưới sức nặng của thân phận làm người…Lời chúc tụng của dân Israel trước việc lành mà Thiên Chúa đã thực hiện cho họ, chính là lời chúc tụng của mọi người trước sự sống lại được hứa ban.

Vâng, ngày mai Đức Giêsu sẽ chết. Ngài biết điều đó. Chiều nay, Giuđa ngay chính trong bữa ăn, đã rời nhóm và dấn bước vào hành trình cuối cùng. Thay vì để trôi qua cái thảm cảnh của thân phận kiếp người, Đức Giêsu ngẩng cao đầu đối diện nó một cách tự ý: Ngài đã diễn trước cái chết của chính mình. Cầm lấy bánh cùng cực, không men trước mặt, Ngài nói: Này là Mình Thầy bị nộp vì các con. Rồi, cầm lấy chén rượu nho, Ngài nói: Này là chén máu Thầy, đổ ra vì các con và muôn người. Thử tưởng tượng xem Đức Giêsu trong bối cảnh chính xác này, hát lên những lời gây bàng hoàng: “Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Ngài. Không! Thiên Chúa không vui thích nhìn thấy cái chết. Nó là thân phận con người, nó là thành phần những gì “không thuộc về Thiên Chúa…” Duy chỉ mình Thiên Chúa là hoàn hảo, là vĩnh cửu. Tuy thế, ý tưởng chủ đạo trong Thánh vịnh này và trong tâm hồn của Đức Giêsu chiều hôm nay, chính là hành vi chúc tụng. “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ…Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn” Tại sao? Bởi vì Đức Giêsu tin chắc Chúa Cha yêu thương Ngài: “Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người”. Và tình yêu đó Đức Giêsu biết là một tình yêu hữu hiệu. Thiên Chúa không muốn cái chết. Thiên Chúa sẽ giải cứu những kẻ Ngài yêu khỏi sự chết. Vâng, Đức Giêsu biết rằng, ngày mai, cái chết sẽ chẳng phải là chiếc cầu nhảy quăng ta vào cõi hư không, như những người vô thần nói, nhưng là cửa mở vào khuôn viên đền Chúa, để chúc tụng tạ ơn muôn đời.
 
Cùng Đọc Với Người Thời Nay

Cảm nghiệm về sự chết của Đức Giêsu cũng là cảm nghiệm của chúng ta, của chung mọi người. Mọi ý thức hệ, mọi nhân sinh quan đều xét đến sự kiện hiển nhiên này (sự chết), ngay cả các nền văn minh đều qua đi. Tất cả những gì chúng ta xây dựng được đều chóng qua. Những gì chúng ta để lại cho thế giới rồi sẽ qua đi… không đáng chúng ta quan tâm đến.

Người vô thần thời nay, một cách sáng suốt đã rút ra kết luận: thế giới thật phi lý. Còn chúng ta, phải thêm vào: “Nếu Thiên Chúa không hiện hữu, con người không có một cơ may nhỏ nào để sống…” Nhưng, cùng với dân Israel, cùng với Đức Giêsu, một ít người trong chúng ta tin vào Thiên Chúa. Chúng ta hạnh phúc vì niềm tin đó. Và chúng ta dám nói rằng đó chính là cơ may duy nhất để con người tồn tại.

Giờ đây chúng ta có thể hát bài Thánh vịnh này với niềm phấn khởi.
 
Noël Quesson, 50 Psaumes pour tous les jours, Tome I
 
 ==================
Suy Niệm Thánh Vịnh 30 - Thứ Sáu Tuần Thánh 
 
1 Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh. Của vua Đa-vít
2 Con ẩn náu bên Ngài, lạy CHÚA,
xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ.
Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con,
3 ghé tai nghe và mau mau cứu chữa.
Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn,
như thành trì để cứu độ con.
4 Núi đá và thành luỹ bảo vệ con, chính là Chúa.
Vì danh dự Ngài, xin dẫn đường chỉ lối cho con.
5 Lưới kẻ thù giăng, xin gỡ con ra khỏi,
vì nơi con trú ẩn, chính là Ngài.
6 Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con,
Ngài đã cứu chuộc con, lạy CHÚA TRỜI thành tín.
7 Ngài ghét bọn thờ thần hư ảo,
phần con đây, lạy CHÚA, chỉ tin tưởng nơi Ngài.
8 Được Ngài thương, con vui mừng hớn hở,
vì Ngài đã đoái nhìn phận con cùng khốn.
Con lâm cảnh ngặt nghèo, Ngài lo lắng chăm nom,
9 chẳng trao nộp thân này vào tay thù địch,
nhưng cho con rộng bước thênh thang.
10 Xin xót thương, lạy CHÚA, bởi vì con lâm cảnh ngặt nghèo,
quá sầu đau, mắt đà mòn mỏi,
hồn ảo não và thân hình tiều tuỵ.
11 Đời tiêu hao trong nỗi u buồn
và tháng năm tàn lụi giữa tiếng thở than.
Con kiệt lực vì gặp bước khốn cùng, gân cốt con rời rã.
12 Con đã nên trò cười cho thù địch
và cho cả hàng xóm láng giềng.
Bạn bè thân thích đều kinh hãi,
thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa.
13 Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ,
con hoá thành đồ hư vất bỏ.
14 Con nghe thấy những lời độc địa của bao người,
nhìn chung quanh : toàn những điều khủng khiếp.
Chúng toa rập chống con, và mưu toan lấy mạng.
15 Nhưng con đây vẫn tin tưởng nơi Ngài, lạy CHÚA,
dám thưa rằng : Ngài là Thượng Đế của con.
16 Số phận con ở trong tay ngài.
Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ,
khỏi người bách hại con.
17 Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời
trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ.
18 Lạy CHÚA, xin đừng để con phải nhục nhã, vì đã kêu cầu Ngài,
Nhưng ước gì ác nhân phải nhục nhã
mà ngậm miệng sa xuống âm ty.
19 Cho phường điêu ngoa phải câm họng ;
chúng kiêu ngạo khinh đời, buông những lời hỗn xược
chống lại người công chính.
20 Lạy Chúa, cao cả thay tấm lòng nhân hậu,
Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài,
và thi thố trước mặt phàm nhân
cho ai tìm đến Ngài nương náu.
21 Bên Thánh Nhan, Ngài giấu họ kỹ càng
khỏi người đời mưu hại.
Ngài che chở họ trong lều thánh, xa tầm lưỡi thị phi.
22 Chúc tụng CHÚA đã tỏ tình thương kỳ diệu đối với con
trong thành trì vững chắc.
23 Vậy mà con đã nói vì hốt hoảng :
"Con bị đuổi đi khuất mắt Chúa rồi !"
Thế nhưng Ngài đã nghe tiếng nài van
trong ngày con kêu cứu.
24 Hết mọi người hiếu trung với Chúa,
hãy yêu mến CHÚA đi !
CHÚA giữ gìn những ai thành tín
nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng.
25 Hỡi mọi người cậy trông vào CHÚA,
mạnh bạo lên, can đảm lên nào !
 
Cùng Đọc Với Dân Israel

Thánh vịnh 30 được hát vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, bởi vì Đức Giêsu trên thập giá đã đọc những lời của Thánh vịnh này trước khi tắt thở: ‘Lạy Cha, Con xin phó thác hồn con trong tay Cha’ (Lc 23,46). Nhưng trọn cả Thánh vịnh được áp dụng hoàn toàn cho Đức Giêsu chịu đóng đinh. Ngay trước khi Đức Giêsu dùng như  kinh nguyện cá nhân của Ngài, Thánh vịnh này đã là một lời nguyện với hai hồi: Mở đầu là lời van xin của một bị cáo vô tội, của một người đau bệnh, một người sắp chết đang phải đối phó với cơn bách hại: tên bị chúc dữ, bị loại khỏi cộng đoàn, bạn bè thân thích đều kinh hãi, như người bị mắc bệnh dịch truyền nhiễm… -- nhưng phần cuối của Thánh vịnh lại là lời kinh nguyện êm dịu thân tình của một người nhà của Đức Chúa: dù trở nên đối tượng cho những tố cáo bất công, kẻ sắp chết vẫn tiếp tục, vẫn ca tụng hạnh phúc của đời sống thân tình với Chúa: “Nhưng con đây vẫn tin tưởng nơi Ngài, Lạy Chúa…Số phận con ở trong tay Ngài…Chúa đã tỏ tình thương kỳ diệu đối với con…Cao cả thay tấm lòng nhân hậu, Chúa dành cho ai tìm đến Ngài nương náu.
 
Cùng Đọc Với Đức Giêsu

Con đã nên trò cười cho thù địch…” Các Biệt phái, Luật sĩ, tên trộm phỉ báng Ngài. Người ta không chỉ bằng lòng giết chết Ngài mà còn muốn làm Ngài xấu hổ, giao nộp cho quân lính sỉ vả…ngay chính bản án trên đầu Ngài cũng làm cớ để người ta chế giễu: Giêsu Nagiarét, Vua dân Do Thái, được viết bằng ba thứ tiếng.

Bạn bè thân thích đều kinh hãi….Thấy con ngoài đường ai cũng tránh xa…” Một vài giờ sau bữa ăn cuối cùng với Thầy, các tông đồ đã trốn chạy hết khi Thầy bị bắt nơi Vườn Giếtsêmani.

Chúng toa rập chống con và mưu toan lấy mạng…” Đám đông do các lãnh tụ khích động đòi tử hình Ngài: ‘Đóng đinh nó vào thập giá! Máu nó đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi’. Chúng ta mong muốn cái chết của những người thân và của chính chúng ta phải là một cái chết an bình, có mặt những người thân yêu xung quanh. Thật may mắn cho một người nào đó khi chết được ở trong vòng tay của một người yêu thương. Đức Giêsu, trái lại, xung quanh Ngài toàn những bộ mặt ganh ghét.  “Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ, con hóa thành đồ hư vất bỏ”. Cái chết của Đức Giêsu không phải là một cái chết “bình thường”..nhưng là một cái chết bị khinh bỉ, cái chết của những tên nô lệ, của những kẻ bị kết án, của một thứ đồ vật mà người ta có thể đóng đinh vào.

Nhưng con đây vẫn tin tưởng nơi Ngài, Lạy Chúa, dám thưa rằng: Ngài là Thượng Đế của con.” Đức Giêsu vẫn thường cầu nguyện với những “nhịp đôi”, cấu trúc của rất nhiều Thánh vịnh: tiếp theo lời than thở là lời tạ ơn chúc tụng. Ta gặp thấy sự chuyển nhịp này nơi Thánh vịnh 21, khởi đầu bằng tâm tình bị bỏ rơi nhưng kết thúc bằng lời tạ ơn đầy phấn khởi.

Số phận con ở trong tay Ngài…Trong tay Ngài con xin phó thác hồn con” Những lời của Thánh vịnh xuất hiện cách tự nhiên trên môi Ngài, trước khi Ngài bước vào giấc ngủ của sự chết. Và Hội Thánh, trong giờ kinh Tối, dạy chúng ta đọc lại mỗi buổi tối trước khi ngủ: con xin phó thác hồn con trong tay Cha.

Xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ…Lạy Chúa, cao cả thay tấm lòng nhân hậu, Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài và thi thố trước mặt phàm nhân cho ai tìm đến Ngài nương náu”. Từ do thái HESSED, tình thương. Sự phục sinh đã gần kề. Đức Giêsu biết chắc như thế. Lẽ nào Ngài lại quên trong giây phút này?

Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” Đức Giêsu ý thức rõ ràng điều này, nhưng không chỉ cho riêng mình Ngài, mà còn muốn nhắn gởi cho chúng ta là những người phải chết: can đảm lên nào!
 
Cùng Đọc Với Người Thời Nay

Những lời Thánh vịnh này đã vang lên trên môi miệng Đức Giêsu, giờ đây cũng phải được thốt lên từ môi miệng mỗi người chúng ta, của tất cả mọi người. Có biết bao bệnh nhân trong gia đình, trong các bệnh viện! Có biết bao người bị bách hại, bị khinh d
, biết bao người bị xem như những đồ vật! Có biết bao người bị bỏ rơi! Nhưng xin vui lòng đọc cho hết Thánh vịnh, chúng ta sẽ cùng dâng lời tạ ơn Chúa. 

Noël Quesson, 50 Psaumes pour tous les jours, Tome II

=====================
Suy Niệm Thánh Vịnh 117 - Canh Thức Phục Sinh, Chúa Nhật I & II Phục Sinh
Ngày Thiên Chúa đã làm ra.
 
1 Hãy tạ ơn CHÚA vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
2 Ít-ra-en hãy nói lên rằng :
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
3 Nhà A-ha-ron hãy nói lên rằng :
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
4 Ai kính sợ CHÚA hãy nói lên rằng :
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
5 Giữa cảnh gian truân, tôi đã kêu cầu CHÚA,
CHÚA đáp lời và giải thoát tôi.
6 Có CHÚA ở cùng tôi, tôi chẳng sợ gì,
hỏi người đời làm chi tôi được ?
7 Có CHÚA ở cùng tôi mà bênh đỡ,
tôi dám nghênh lũ địch thù tôi.
8 Ẩn thân bên cạnh CHÚA TRỜI,
thì hơn tin cậy ở người trần gian.
9 Cậy vào thần thế vua quan,
chẳng bằng ẩn náu ở bên CHÚA TRỜI
10 Chư dân xúm lại bủa vây tôi,
nhờ danh CHÚA, tôi đã trừ diệt chúng.
11 Chúng bủa vây tôi, trùng điệp tư bề,
nhờ danh CHÚA, tôi đã trừ diệt chúng.
12 Chúng bủa vây tôi như thể bầy ong,
chúng như lửa bụi gai cháy bừng bừng,
nhờ danh CHÚA, tôi đã trừ diệt chúng.
13 Chúng xô đẩy tôi, xô cho ngã,
nhưng CHÚA đã phù trợ thân này.
14 CHÚA là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi,
chính Người cứu độ tôi.
15 Kìa nghe tiếng reo mừng chiến thắng
trong doanh trại chính nhân :
16 "Tay hữu CHÚA đã ra oai thần lực, tay hữu CHÚA giơ cao,
tay hữu CHÚA đã ra oai thần lực."
17 Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống,
để loan báo những công việc CHÚA làm.
18 Sửa phạt tôi, vâng CHÚA sửa phạt tôi,
nhưng không nỡ để tôi phải chết.
19 Xin mở cửa công chính cho tôi
để tôi vào tạ ơn ĐỨC CHÚA.
20 Đây là cửa dẫn vào nơi CHÚA ngự,
chỉ những người công chính mới được qua.
21 Lạy Chúa, con xin tạ ơn Ngài
vì đã đáp lời con và thương cứu độ.
22 Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
lại trở nên đá tảng góc tường.
23 Đó chính là công trình của CHÚA,
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
24 Đây là ngày CHÚA đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
25 Lạy CHÚA, xin ban ơn cứu độ,
lạy CHÚA, xin thương giúp thành công.
26 Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành
cho người tiến vào đây nhân danh CHÚA.
Từ nhà CHÚA, chúng tôi chúc lành cho anh em.
27 ĐỨC CHÚA là Thượng Đế, Người giãi sáng trên ta.
Tay cầm lá, hãy sắp thành đám rước đến bên cạnh bàn thờ.
28 Lạy Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa của con,
xin dâng Ngài muôn câu cảm tạ ;
lạy Thiên Chúa con thờ, xin dâng Ngài vạn tiếng tôn vinh.
29 Hãy tạ ơn CHÚA vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
  
Cùng Đọc Với dân Israel

Thánh vịnh này đã được sử dụng lần đầu tiên vào năm 444 trước Công Nguyên vào dịp Lễ Lều (Nkm 8,13-18). Ngày nay Thánh vịnh này vẫn luôn là thành phần nghi thức của Lễ Lều. Theo Ông M.Mannati, chuyên viên nghiên cứu Thánh vịnh, đây là cuộc thoại giữa những thành phần khác nhau của cuộc lễ: Các Thầy Lêvi… Đức Vua…Dân chúng. Ta có thể nghĩ đến  niềm vui của cả cộng đồng òa vỡ trong bài ca với nhiều giọng khác nhau. Lễ Lều là một lễ rất bình dân: sân dành cho phụ nữ (Đền Thờ) được thắp sáng suốt đêm… người ta tổ chức cuộc rước kiệu kín ‘nước hằng sống’ nơi hồ Siloe…và trong vòng bảy ngày liên tục, người ta ở dưới các lều làm bằng cành cây để nhớ những năm của cuộc hành trình giải phóng dài đằng đẳng trong sa mạc… Trong Đền Thờ, người ta diễn tả niềm vui bằng một vũ khúc quanh bàn thờ: một tay vẫy cành lá xanh, một tay đặt trên vai người bên cạnh,  họ quay tròn quanh bàn thờ, đong đưa theo nhịp hát: Hôsanna! (Xin ban ơn cứu độ!) Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến!
 
Cùng Đọc Với Đức Giêsu

Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều minh chứng rằng Đức Giêsu đã ứng dụng Thánh vịnh này để kết thúc dụ ngôn về những tá điền vườn nho sát nhân (Mt 21,42; Mc 12, 10; Lc 20,17): tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Qua đoạn trích này, Đức Giêsu tự ví mình như viên đá bị các đầu mục dân chúng loại bỏ (loan báo về cái chết của Ngài) sẽ trở thành nền tảng cả tòa nhà thiêng liêng của dân Chúa.

Trong ngày Lễ Lá, các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đã ghi nhận tỉ mỉ lời tung hô Đức Giêsu của đám đông, chính là những lời của Thánh vịnh: Hôsanna, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến!   

Đừng quên rằng Đức Vua cũng cất lời trong Thánh vịnh này. Các nhà chú giải Kinh Thánh đều đồng ý đặt việc sáng tác Thánh vịnh này vào thời kỳ sau cuộc lưu đày, nghĩa là vào một thời đại mà Israel không còn vua nữa. Phải chăng chỉ hoàn toàn là một sự sắp xếp của tác giả?  Không phải thế. Bởi vì Đức Vua chiến thắng mọi quân thù chính là Vua Cứu Thế. Và cuộc chiến thắng được tổ chức mừng ở đây, chính là cuộc chiến thắng cánh chung, cuộc chiến thắng hoàn toàn và dứt khoát của Thiên Chúa trên mọi quyền lực sự dữ. Công trình của Chúa chính là ơn cứu độ khỏi tội lỗi và sự chết. Và ngày mà Thiên Chúa đã làm ra, chính là Ngày của Giavê, ngày mà Vương Quyền Ngài thống trị.

Vì thế, bạn không còn thấy ngạc nhiên khi đặt những lời của Thánh vịnh này trên môi miệng Đức Giêsu : Đức Vua cất lời và kéo theo cả đám dân cùng chúc tụng tạ ơn, chính là Vua Giêsu. Hãy đọc Thánh vịnh trong chiều hướng này. Hoàn toàn không mang tính nhân tạo khi nói Thánh vịnh này là lời kinh nguyện của Đức Giêsu Nagiarét, bởi vì, thực sự Ngài đã hát Thánh vịnh này sau bữa ăn Vượt Qua, hàng năm trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài, và đặc biệt vào chiều Thứ Năm Thánh.    
 
Cùng Đọc Với Người Thời Nay

Vâng, Lễ Phục Sinh là ngày Thiên Chúa đã làm ra. Vâng, đây là công trình tay Chúa. Thật vô ích khi lật lại quá khứ để tìm xem chiến thắng nào trong lịch sử, biến cố cụ thể nào của dân Israel giúp tạo nên bài kinh tạ ơn tuyệt vời này. Quả thật, tác giả Thánh vịnh không hề biết Đức Giêsu Nagiarét, cái chết và sự sống lại của Ngài; nhưng ông đã đợi chờ Đấng Cứu Thế, Đức Vua, Đấng Được Xức Dầu, Đức Kitô. Cùng đọc lại Thánh vịnh này với Đức Giêsu vào ngày Lễ Phục Sinh, chúng ta  hát mừng chiến thắng của Thiên Chúa trên sự dữ. Hãy hân hoan mừng lễ. Đức Giêsu đã hát mừng sự sống lại của chính Ngài, vào chiều hôm ấy!
 
Noël Quesson, 50 Psaumes pour tous les jours, Tome I

Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê chuyển dịch