Di chúc của Thánh GH Gioan Phaolô II

Tôi ao ước một lần nữa trao phó trọn vẹn bản thân tôi vào ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ mình Ngài sẽ quyết định khi nào và như thế nào về đời sống trần gian và chức phận mục vụ của tôi phải kết thúc. Trong cuộc sống và trong sự chết, “Tất cả dâng cho Mẹ” (Totus Tuus), qua Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội. Bằng cách chấp nhận ngay từ bây giờ sự chết này, tôi hy vọng rằng Đức Kitô sẽ ban ơn cho tôi cho đoạn đường cuối cùng, nghĩa là sự phục sinh của tôi.

Di chúc của Thánh GH Gioan Phaolô II

VRNs Sài Gòn - Chúa Giêsu đã hứa qua Thánh nữ Faustina: “Từ Balan sẽ trổi lên một tia sáng để chuẩn bị cho lần trở lại thế giới thứ hai của Ta”. Tia sáng đó chính là ĐGH Gioan Phaolô II, người thiết lập Đại Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót cho toàn thế giới, mừng kính vào Chúa Nhật II sau Lễ Phục Sinh. Ngài đã được phong chân phước vào chính ngày Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót, 01-05-2011, và nay được Giáo hội tuyên hiển thánh, ngày 27-4-2014, cũng là Lễ Kính Lòng Chúa Thuơng Xót.

Dưới đây là Di Chúc tâm linh của Thánh GH Gioan Phaolô II, Tòa Thánh Vatican ấn hành ngày 7-4-2005.

DI CHÚC

 

Di chúc ngày 6-3-1979 (và những lần thêm kế tiếp)

Con tùy thuộc tất cả về Mẹ (Totus Tuus ego sum), nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh. Amen.

“Hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào Chủ các con đến” (x. Mt 24, 42). Những lời này gợi trong tôi lời gọi cuối cùng sẽ đến vào lúc mà Chúa sẽ muốn. Tôi ao ước theo Ngài và tôi ao ước tất cả những gì thuộc về đời sống trần gian của tôi đều chuẩn bị tôi cho lúc này. Tôi không biết khi nào Ngài đến, nhưng như với mọi sự, tôi cũng đặt cả giây phút này trong tay Người Mẹ của Chúa tôi: Tất cả dâng cho Mẹ (Totus Tuus). Trong đôi tay mẫu tử, tôi đặt hết mọi sự và tất cả những người mà đời sống cũng như ơn gọi của tôi đã có mối dây liên lạc. Trong Đôi Tay này, tôi xin trao cách đặc biệt Giáo Hội cũng như Quê Hương tôi và tất cả nhân loại. Tôi cảm tạ tất cả. Tôi xin tất cả thứ lỗi cho tôi. Tôi cũng xin một lời nguyện để Lòng Nhân Từ của Chúa tỏ hiện lớn hơn sự yếu đuối và sự bất xứng của tôi.

Trong những dịp linh thao, tôi đã đọc lại lời di chúc của ĐGH Phaolô VI. Bài đọc đó thúc đẩy tôi viết bản di chúc này.

Tôi không để lại sau tôi một của cải gì mà cần thiết phải giữ cả. Về những đồ vật mà tôi dùng thường ngày và hữu ích cho tôi, tôi mong sao chúng được phân phối một cách thuận tiện nhất. Những điều ghi chép bằng tay, xin được đốt đi. Về điểm này, tôi yêu cầu Lm Stanislao lo liệu, người mà tôi cảm ơn về sự cộng tác và giúp đỡ trong suốt bao năm trường với đầy sự cảm thông. Ngược lại, tất cả những lời cảm tạ khác, tôi xin giữ trong tim tôi trước Thiên Chúa, bởi vì rất khó để diễn tả những lời đó.

Về phần mai táng, tôi lập lại những điều khoản mà ĐGH Phaolô VI đã đặt ra. (Ở đây có một lời ghi chú bên lề: Quan tài trong đất chứ không trong hòm đá, 13-3-1992).

“Vì ở nơi Chúa là lòng nhân từ, và nơi Người là ơn cứu độ chan hòa” (kinh “Từ Vực Sâu) – De Profundis: “Qui apud Dominum misericordia: et copiosa apud Eum redemptio”.

Ký tên: GIOAN-PHAOLÔ II

o0o

Rôma, 6-3-1979

Sau khi tôi chết, tôi xin những thánh lễ và lời cầu nguyện.

Ngày 5-3-1990

Tôi diễn tả với lòng trông cậy sâu xa nhất, mặc dù với tất cả sự yếu đuối của tôi, rằng Chúa sẽ cho tôi tất cả ân sủng cần thiết để đối phó, theo Thánh Ý Ngài, bất cứ công việc nào, thử thách nào và khổ đau nào mà Ngài muốn cho đầy tớ của Ngài chịu trong cuộc sống. Tôi cũng tin tưởng rằng, qua thái độ của tôi: những lời nói, những công việc và những sơ sót, Ngài sẽ không bao giờ để tôi có thể phản bội những bổn phận của tôi trên Ngai Thánh giáo hoàng này.

24-2 tới 1-3-1980

Cũng trong dịp linh thao này, tôi đã suy ngẫm về chân lý của Chức Vụ Linh Mục của Đức Kitô trong viễn tượng của chuyến hành trình, đối với mỗi người trong chúng ta, là chính lúc mình chết. Đối với chúng ta, Sự Phục Sinh của Đức Kitô là một dấu chỉ hùng hồn (được viết thêm phía trên: “quan trọng”) của lúc từ giã cõi đời này, để được sinh ra trong thế giới bên kia, thế giới tương lai.

Như thế tôi cũng đã đọc lại bản di chúc của tôi viết hồi năm ngoái, cũng vào dịp cấm phòng – tôi đã so sánh bản ấy với bản di chúc của vị vĩ đại đi trước tôi là Cha Phaolô VI, với chứng tá tuyệt vời về sự chết của một Kitô hữu và một Giáo hoàng – và tôi đã canh tân trong tôi ý thức về những câu hỏi mà bản di chúc ngày 6-3-1979 đã đề cập mà tôi đã chuẩn bị (đúng hơn là chỉ tạm thời).

Hôm nay, tôi chỉ mong thêm vào bản di chúc đó điều này: Chớ gì mỗi người phải giữ trong tâm trí viễn tượng của sự chết và phải biết sẵn sàng trình diện trước Thiên Chúa là Đấng Thẩm Phán – đồng thời là Đấng Cứu Độ và Người Cha. Tôi cũng thế, tôi ý thức sự nối tiếp này, giao phó giờ quan trọng này cho Mẹ của Đức Kitô và của Giáo Hội – Người Mẹ của niềm hy vọng nơi tôi.

Thời gian mà chúng ta đang sống rất khó diễn tả, thật là khó khăn và đáng quan ngại. Con đường của Giáo Hội cũng thật khó khăn và khô cằn, bằng chứng tiêu biểu của thời đại này, vừa đối với các tín hữu cũng như các chủ chăn. Trong vài quốc gia (chẳng hạn quốc gia mà tôi đã đọc một vài điều liên quan đến trong những dịp cấm phòng), Giáo Hội lâm vào một giai đoạn của bách hại đến độ cũng chẳng kém gì những thế kỷ đầu, và còn hơn thế nữa, nó còn vượt quá bởi mức độ của sự khinh bỉ và oán ghét. “Máu các Thánh Tử Đạo – mầm giống của các Tín Hữu” (Sanguis martyrum – semen christianorum). Và thêm vào điều đó biết bao người vô tội mất tích, kể cả trong quốc gia mà chúng ta đang sống…

Tôi ao ước một lần nữa trao phó trọn vẹn bản thân tôi vào ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ mình Ngài sẽ quyết định khi nào và như thế nào về đời sống trần gian và chức phận mục vụ của tôi phải kết thúc. Trong cuộc sống và trong sự chết, “Tất cả dâng cho Mẹ” (Totus Tuus), qua Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội. Bằng cách chấp nhận ngay từ bây giờ sự chết này, tôi hy vọng rằng Đức Kitô sẽ ban ơn cho tôi cho đoạn đường cuối cùng, nghĩa là sự phục sinh của tôi. Tôi cũng hy vọng là Ngài sẽ biến sự chết này thành hữu ích cho cả mục tiêu quan trọng hơn mà tôi hằng kiếm cách phục vụ: Sự cứu rỗi con người, sự bảo trì gia đình nhân loại, và qua nhân loại, tất cả các quốc gia và các dân tộc (trong các quốc gia này, tôi cũng đặc biệt xin cho Quê Hương trần gian của tôi), hữu ích cho những người mà Ngài đã giao phó cho tôi một cách đặc biệt, cho vấn đề của Giáo Hội, cho sự vinh danh của chính Chúa nữa.

Tôi không muốn thêm gì nữa vào điều đã được viết cách đây một năm, chỉ nhắc lại sự bộc phát tự nhiên và cùng lúc với sự tin tưởng mà tuần linh thao này đã lại khơi dậy trong tôi lần nữa.

Ký tên: GIOAN-PHAOLÔ II

o0o

Totus Tuus ego sum”

Ngày 5-3-1982

Qua dịp linh thao của năm nay, tôi đã nhiều lần đọc bản di chúc ngày 6-3-1979. Mặc dù tôi cho rằng bản đó còn tạm thời, tôi để lại nó dưới hình thức như thế. Tôi không thay đổi gì cả (trong lúc này), và tôi cũng chẳng thêm gì liên quan các dự định được viết trong bản di chúc.

Vụ ám sát tôi vào ngày 13-5-1981, một hình thức nào đó, đã xác định sự chính xác của những lời đã được ghi chép trong dịp linh thao của năm 1980 (từ 24-2 đến 1-3).

Tôi lại càng cảm thấy sâu xa hơn khi tôi thấy mình hoàn toàn ở trong bàn tay của Thiên Chúa – và tôi luôn sẵn sàng theo Ý Chúa, từ bỏ mình cho Ngài qua Mẹ Vô Nhiễm của Ngài.

Ký tên: GIOAN-PHAOLÔ II

o0o

5-3-1982

Liên quan câu cuối cùng của bản di chúc của tôi viết ngày 6-3-1979 (về điều liên quan nơi chốn, nghĩa là nơi chôn cất, xin Hội Đồng Hồng Y và các đồng bào của tôi quyết định), tôi muốn nói là Đức TGM thành Cracovie hay Hội Đồng Giám Mục Ba Lan. Như thế, tôi xin Hội Đồng Hồng Y thỏa mãn, nếu có thể, những yêu cầu của những người đã được kể trên.

Ngày 1-3-1985 (trong dịp cấm phòng)

Một lần nữa, về điều liên quan câu “Hồng Y Đoàn và các đồng hương”: “Hồng Y Đoàn” không có sự bắt buộc nào phải kêu gọi các “người đồng hương” về điều liên quan vấn đề này. Tuy nhiên, Hồng Y Đoàn có thể làm điều đó, nếu vì một lý do nào đó Hồng Y Đoàn cảm thấy điều đó phải làm.

Ký tên: GIOAN-PHAOLÔ II

o0o

Dịp linh thao của Năm Thánh năm 2000, từ 12 đến 18-3-2000 (cho bản di chúc)

1. Ngày 16-10-1978, khi Hội Đồng Mật các Hồng Y chọn Gioan-phaolô II, Vị Giáo Trưởng Giáo Hội Ba Lan, ĐHY Stefan Wyszynski nói với tôi: “Bổn phận của Đức Tân Giáo Hoàng sẽ là phải đưa Giáo Hội vào đệ tam thiên niên kỷ”. Tôi không nhớ chính xác những lời nói của ngài, nhưng đại ý là lời của Nhân Vật đã đi vào lịch sử như Vị Giáo Trưởng của thiên niên kỷ, một vị Giáo Trưởng vĩ đại. Tôi đã là nhân chứng về sứ vụ của ngài, về sự phó thác hoàn toàn của ngài, về những cuộc phấn đấu của ngài, về sự chiến thắng của ngài. “Khi nó đến, sự chiến thắng đó sẽ là sự chiến thắng qua Mẹ Maria”. Đức Hồng Y lập lại thường xuyên những lời này của vị đi trước ngài, ĐHY August Hlond.

Tôi như thế là được rồi, theo hình thức nào đó, chuẩn bị cho phận vụ mà ngày 16-10-1978 đã được trao phó cho tôi. Vào lúc mà tôi viết những lời này, Năm Thánh 2000 đã là một thực tế tác động. Đêm 24-12-1999, chúng tôi đã mở Cánh Cửa biểu tượng của Năm Thánh trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, sau đó là cửa của Đền thờ Thánh Gioan Latêranô, rồi đến cửa của Đền thờ Đức Bà Cả vào Năm Mới, và ngày 19-1, cánh cửa của Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành. Biến cố cuối cùng này, vì tính cách hoàn vũ của nó, được ghi ấn trong ký ức một cách đặc biệt.

2. Lần lượt theo sự tiến triển của Năm Thánh 2000, thế kỷ XX tự đóng dần, ngày này tiếp ngày nọ, sau chúng ta và thế kỷ XXI đang mở ra. Theo các dự án của Đấng Quan Phòng, tôi đã sống trong một thế kỷ khó khăn đang đi vào lịch sử, và bây giờ, năm mà tôi trở thành Bát Tuần (octogesima adveniens – có chú thích: đây là Tông Thư của ĐGH Phaolô VI viết ngày 14-5-1971 dịp kỷ niệm 80 năm Thông Điệp Rerum Novum [Tân Sự] của ĐGH Lêô XIII), phải tự hỏi nếu không phải đã đến giờ phải lập lại lời của ông Simêon trong Kinh Thánh: “Bây giờ xin hãy cho tôi ra đi” (Nunc dimittis).

Ngày 13-5-1981, ngày ám sát giáo hoàng trong buổi yết kiến chung tại công trường thánh Phêrô, Chúa Quan Phòng đã cứu tôi khỏi chết một cách nhiệm mầu. Đấng chính là Thiên Chúa duy nhất của sự sống và sự chết đã kéo dài đời sống tôi, một cách nào đó, Ngài đã cho lại tôi sự sống. Từ giây phút đó, đời sống tôi tùy thuộc vào Ngài nhiều hơn nữa. Tôi hy vọng Ngài sẽ giúp tôi nhìn nhận đến lúc nào tôi phải tiếp tục phận sự này mà Ngài đã gọi tôi vào ngày 16-10-1978. Tôi xin Chúa vui lòng gọi tôi về với Ngài khi Ngài muốn (x. Rm 14:8). Tôi cũng hy vọng Lòng Nhân Từ của Chúa vui lòng cho tôi những sức mạnh cần thiết để làm phận vụ này chừng nào tôi còn phải chu toàn phận vụ Giáo Hoàng trong Giáo Hội.

3. Như mỗi năm vào dịp linh thao, tôi đều đọc lại bản di chúc của tôi viết ngày 6-3-1979. Tôi tiếp tục giữ những điều khoản được ghi trong đó. Điều đã được thêm vào qua những lần cấm phòng kế tiếp, phản ảnh tình thế chung khó khăn và căng thẳng đã in hằn trong thập niên 1980. Tình huống này đã thay đổi kể từ mùa thu năm 1989. Thập niên cuối cùng của thế kỷ đã qua, đã không có những căng thẳng của những thập niên trước; điều này không có nghĩa là thập niên cuối đã không có những vấn đề mới, những khó khăn. Xin ca tụng Chúa Quan Phòng một cách đặc biệt cho sự kiện là giai đoạn của “chiến tranh lạnh” đã được chấm dứt, không có tranh chấp, bạo lực hạt nhân mà sự đe dọa của nó lơ lửng trên thế giới trong suốt giai đoạn trước.

4. Đứng thẳng trước ngưỡng cửa của đệ tam thiên niên kỷ, giữa lòng Giáo Hội (in medio Ecclesiae), tôi ước mong lần nữa diễn tả sự biết ơn của tôi với Chúa Thánh Thần đã ban đặc ân cho Công Đồng Vatican II, mà đối với Công Đồng và toàn thể Giáo Hội, nhất là với cộng đoàn giám mục hoàn cầu, tôi mang một món nợ. Tôi tin rằng các thế hệ tương lai còn có thể múc được sự phong phú trong thời gian lâu dài mà Công Đồng này của thế kỷ thứ XX đã ban cho chúng ta. Với cương vị của một giám mục đã tham dự vào Công Đồng này từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng, tôi ước mong trao phó di sản vĩ đại này lại cho tất cả những vị đang và sẽ được gọi để thực hiện những quyết định của Công Đồng. Về phần tôi, tôi cảm tạ Vị Chủ Chăn đời đời đã cho phép tôi phục vụ sự nghiệp lớn lao này trong suốt những năm tháng trên ngôi vị giáo hoàng của tôi.

“Giữa lòng Giáo Hội”… kể từ ngay những năm đầu của sứ vụ giám mục, chính xác hơn là nhờ vào Công Đồng, tôi đã thu thập được kinh nghiệm của sự thông hiệp huynh đệ của hàng giám mục. Là linh mục của TGP Cracovie, tôi đã thực nghiệm sự thông hiệp huynh đệ trong linh mục đoàn, Công Đồng đã đem lại một kích thước mới cho kinh nghiệm này.

5. Có biết bao người mà tôi phải viết ra đây! Có lẽ Chúa đã gọi về với Ngài một số lớn trong nhóm. Về phần những người còn tại thế, ước gì những lời của bản di chúc này nhắc nhớ đến họ, tất cả và mọi nơi, dù họ ở bất cứ nơi nào.

Từ lúc tôi chu toàn bổn phận giáo hoàng, nghĩa là hơn 20 năm, “trong lòng Giáo Hội”, tôi đã thực hiện sự cộng tác khoan dung và cũng rất là phong phú của rất nhiều hồng y, tổng giám mục và giám mục, rất nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ, và rất nhiều giáo dân, trong lòng Giáo Triều Rôma, tại GP Rôma cũng như ngoài những nơi này.

Không thể không ôm vào lòng tất cả các hàng giáo phẩm trên thế giới, với sự biết ơn đáng nhớ, mà tôi đã gặp trong những lần thăm viếng mộ các tông đồ (Ad limina apostolorum).

Cũng không thể không nhớ biết bao anh em đông đúc Kitô hữu và không Công giáo! Vị Giáo Trưởng Do Thái giáo thành Rôma và rất nhiều những vị đại diện các tôn giáo ngoài Kitô giáo! Và biết bao vị đại diện thế giới thuộc lĩnh vực văn hoá, khoa học, chính trị và các phương tiện truyền thông xã hội.

6. Dần dần mức giới hạn đời sống trần gian của tôi tăng trưởng, với ý tưởng tôi trở về thuở ban đầu, về cha mẹ tôi, về anh chị tôi (người mà tôi đã không được biết vì đã chết trước khi tôi sinh ra), về giáo xứ Wadowice, nơi tôi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đến “thành phố này mà tôi đã từng rất yêu mến”, đến các đồng hương của tôi, các bạn bè của tôi, bạn trai và gái, trường tiểu học, trường trung học, đại học, đến giai đoạn quê hương bị chiếm giữ, lúc tôi làm việc như một thợ thuyền, và sau đó đến giáo xứ Niegowic, giáo xứ S. Floriano ở Cracovie, mục vụ các đại học, tại các nơi… tất cả mọi nơi… ở Cracovie và Rôma… đến những người đã được Thiên Chúa trao phó cho tôi một cách đặc biệt.

Cuối cùng, tôi chỉ muốn nói một điều duy nhất: “Chớ gì Thiên Chúa ban thưởng cho quý vị”. “In manus Tuas, Domine, commendo spiritum meum” (Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con). 17-3-2000.

TRẦM THIÊN THU

(Trích dịch “Di chúc của ĐGH Gioan Phaolô II”, người qua đời ngày 2-4-2005, áp lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, theo bản tiếng Anh của Lm Lorenso thuộc Bộ Giáo lý Đức tin, Rôma).