HỌC HỎI ĐỂ GẶP GỠ CHÚA GIÊSU KITÔ (CN 1MV-CN 5MC)

Với mục đích “Học Hỏi Để Gặp Gỡ Chúa Giêsu Kitô”, Giáo phận Cần Thơ có soạn tập tài liệu để các giáo xứ học hỏi trong các Thánh Lễ Chúa nhật của Năm Đức tin 2012-2013, gồm: - Phần mở đầu: Giới thiệu Năm Đức Tin (qua Tự sắc “Cửa Đức Tin”) và giới thiệu nội dung chia sẻ suốt năm. - Phần học hỏi Công Đồng Chung Vatican II & tìm hiểu “Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo”.

 

ĐỀ TÀI 15 BÀI ĐỢT I :

 

Từ Chúa nhật I Mùa Vọng (02/12/2012)

tới Chúa nhật V Mùa Chay  (17/03/2013).

01. Giới thiệu Năm Đức Tin.

02. Giới thiệu nội dung học hỏi trong Năm Đức Tin.

03. Công Đồng Chung là gì?

04. Mục đích của Công Đồng Chung Vatican II.

05. Kết quả cụ thể của Công Đồng Chung Vatican II.

06. Giá trị của các văn kiện Công Đồng Chung Vatican II.

07. Giới thiệu Hiến chế Phụng Vụ Thánh.

08. Phụng Vụ Thánh với công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô.

09. Phụng Vụ Thánh với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

10. Phụng Vụ với Hội thánh.

11. Cử hành Phụng Vụ.

12. Phụng vụ ngày Chúa Nhật.

13. Năm Phụng Vụ.

14. Phụng vụ Bí tích.

15. Bí tích đức tin.

BÀI 1: GIỚI THIỆU NĂM ĐỨC TIN.

1. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô 16 đã công bố Năm Đức Tin01 khi nào?  

Đức Giáo Hoàng đã công bố Năm Đức Tin trong Lễ Chúa nhật 16.10.2011. Qua tự sắc02 “Cửa Đức Tin”03, Đức Giáo Hoàng ấn định: Năm đức tin được cử hành từ 11.10.2012 đến 24.11.2013.

2. Vì những mục đích nào, Đức Giáo Hoàng đã công bố Năm Đức Tin?

Đức Giáo Hoàng đã muốn công bố Năm đức tin:

1/ Để suy tư và khám phá lại04 cuộc hành trình đức tin05, với niềm vui06, nền tảng07, sự vẹn toàn và rạng ngời của đức tin08.

2/ Để ngày càng làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say phấn khởi được đổi mới, nhờ được gặp gỡ Chúa Giêsu09.

3/ Để củng cố đức tin các tín hữu10.

4/ Để trình bày, đào sâu Công Đồng Vatican II và sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo cách mới mẻ, hợp thời, hầu thực hiện cuộc canh tân Giáo hội.

HHH

Chú thích

01/ * Giáo hội thường công bố những năm với chủ đề đặc biệt, để kỷ niệm những sự kiện, hoặc để nhắm đến một chủ đề sống đặc biệt. Vd. Năm Mân Côi 2003; Năm Thánh Thể 2005; Năm Linh mục 2009-2010: nhân dịp 150 năm qua đời của Cha Sở thánh họ Ars.

* Cũng có những Năm Thánh (Vd. Năm Thánh 2000): cứ 25 năm được công bố 1 lần, từ năm 1450. Tục lệ này khởi nguyên và nối tiếp những Năm đại xá do Thiên Chúa truyền dạy trong Cựu ước (Lv 25, 10-15) (x. Nt. trg 346).

02/  Tự sắc (Motu proprio) là: “văn kiện do ĐGH ký và công bố, thường do chính Ngài viết, đọc, ký tên, không có ấn triện. Văn kiện này thường có tính cách quản trị, ban một đặc ân riêng...” (x. Lm.Hồng Phúc CSsR “Điển Ngữ Đức Tin CG”, 1996. trg 507).

03/  ĐGH dùng hình ảnh “Cửa đức tin”, để nhắc nhớ ta: đức tin là cửa luôn mở sẵn. Mọi tín hữu cầnbước qua ngưỡng cửa đó, để được dẫn vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và gia nhập vào Giáo hội, hầu được hạnh phúc thật đời này và đời đời.

Đức tin là cửa luôn mở sẵn, vì “Ðức tin là hồng ân của Thiên Chúa, là nhân đức siêu nhiên do Người phú bẩm. Ðể có được đức tin, cần có ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và có sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần, Ðấng thúc đẩy và qui hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt tinh thần và ban cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin theo chân lý” (MK 5).

Khi Thánh Phêrô tuyên xưng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Ðức Giêsu tuyên bố: "chính Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời đã mặc khải cho anh điều ấy" (Mt 16, 17) (x. Gl 1, 15; Mt 11, 25).

“Tin vào Ðức Giêsu Kitô và vào Ðấng đã cử Người đến để cứu độ chúng ta là điều cần thiết để đạt được ơn cứu độ (x. Mc 16, 16; Ga 3, 36; 6, 40 e. a). Vì "không có đức tin thì không thể đẹp lòng Thiên Chúa" (Dt 11, 6) và cũng không thể chia sẻ chức vị làm con Thiên Chúa, nên không ai được công chính hóa mà không cần Ðức Tin, và ‘nếu không bền chí đến cùng trong đức tin’ (Mt 10, 22; 24, 13), không ai đạt tới cuộc sống muôn đời" (Vatican I: DS 3012; x. cđ Tren-tô: DS 1532)” (x. GLHTCG 161/432, 1257 846).

04/ Phải suy tư và khám phá lại đức tin:

1. Để ý thức lại chính xác đức tin của ta, cho đức tin được thanh tẩy, sinh động lại, hầu ta có thể mạnh dạn tuyên xưng đức tin.

2. Để đức tin cá nhân cũng như tập thể được củng  cố, tự do và ý thức hơn, trong nội tâm cũng như bên ngoài, cách khiêm tốn và chân thành.

3. Chân Phước Gioan XXIII, trong bài diễn từ khai mạc Công Đồng, ngày 11 tháng 10, năm mươi năm trước đây, đã đưa ra một chỉ dẫn tổng quát: “đức tin phải được nói lên một cách mới mẻ và sắc bén hơn, bởi vì thế giới đang thay đổi vùn vụt…”.

05/  Gọi là “cuộc hành trình đức tin”, vì sống đức tin chính là “cuộc lên đường” của toàn thể Giáo hội; và mỗi tín hữu đều phải dấn thân vào một cuộc hành trình suốt đời (Ts. Cửa đức tin 1).

06/  Cần khám phá lại “niềm vui đức tin”, vì quả thực, sống đức tin là niềm vui:

Niềm vui cá nhân, vì "tin là hành vi của con người, có ý thức và tự do, xứng hợp với phẩm giá con người” (Sách GLHTCG, 180). “Tin thật” là biết phó thác nơi Thiên Chúa là Cha toàn năng và yêu thương, chăm sóc ta đến từng “sợi tóc” (x. Mt 10, 30).

Niềm vui cộng đoàn, vì tin còn là “hành vi có chiều kích hội thánh…không ai có Thiên Chúa là Cha mà không có Hội thánh là mẹ” (x. GLHTCG, 181). Vd. Cộng đoàn Chúa nhật chính là một cộng đoàn vui…

Niềm vui Nước trời, vì "Ðức tin” cho ta “nếm trước điều chúng ta sẽ được hưởng trong cuộc sống hạnh phúc mai sau" (Thánh Tô-ma Aq. giản lược 1, 2/ x. GLHTCG, 184  ). 

07/  Nền tảng đức tin Kitô giáo là tin nơi Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa duy nhất là Tình Yêu (x. Tự sắc “Cửa Đức tin”, s. 1).

08/  Cần khám phá lại sự vẹn toàn và rạng ngời của đức tin:

1. vì ngày nay, trong phần lớn các lãnh vực xã hội, các giá trị đức tin không còn được chấp nhận.

2. vì đức tin nơi nhiều tín hữu đang bị khủng hoảng sâu xa, trước hàng loạt những vấn nạn, do trào lưu tục hoá, duy lý trí, khoa học và kỹ thuật; do những biến động sâu xa của thời đại (x. Tự sắc “Cửa Đức tin”, s. 2).

09/  Gặp gỡ Chúa Giêsu:

ĐTC Bênêđictô 16 nói: “Thời đại chúng ta đang sống ngày nay tiếp tục chịu tình trạng quên lãng và tỏ ra điếc lác đối với Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta phải học bài học đơn sơ và cơ bản nhất của Công Đồng, nghĩa là: nòng cốt của Kitô giáo hệ tại niềm tin nơi Thiên Chúa là Tình Yêu Ba Ngôi, và hệ tại cuộc gặp gỡ, bản thân và cộng đoàn, với Chúa Kitô, Đấng dìu dắt và hướng dẫn cuộc sống. Tất cả những điều khác đều theo sau điều cơ bản ấy.

Điều quan trọng ngày nay…là làm sao để thấy rõ lại rằng: Thiên Chúa đang hiện diện, đang nhìn chúng ta và trả lời chúng ta.

Trái lại, khi thiếu niềm tin nơi Thiên Chúa, thì cả điều thiết yếu cũng sụp đổ! vì con người đã đánh mất phẩm giá sâu xa của mình, chính phẩm giá ấy làm cho nhân tính của con người trở nên cao cả và chống lại được mọi chủ trương thu hẹp con người”.

10/  Cần củng cố đức tin các tín hữu vì đức tin nơi nhiều tín hữu đang bị khủng hoảng sâu xa… Hội đồng Giám mục Việt nam, trong thư chung về Năm Đức Tin, cũng ghi nhận những yếu kém trong đời sống đức tin của một số tín hữu Việt nam là:

1. còn giữ đạo theo tập tục và thói quen; thiếu xác tín cá nhân.

2. sống đức tin thiên về tình cảm, về một số thực hành nghi lễ và luân lý.

3. bị ảnh hưởng lối sống vật chất, hưởng thụ. Nhiều người trẻ bị lung lạc đức tin. Nhiều đôi vợ chồng trẻ không còn ý thức trách nhiệm thông truyền đức tin cho con cái.

vvvvv

BÀI 2 : GIỚI THIỆU NỘI DUNG HỌC HỎI TRONG NĂM ĐỨC TIN.

1. Vì sao cần học hỏi đặc biệt Công Đồng Chung Vatican II trong Năm Đức Tin?

Cần học hỏi đặc biệt01 Công Đồng Chung Vatican II trong Năm Đức Tin:

1/ Vì Năm đức tin nhằm kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng02.

2/ Vì Công Đồng là “hồng ân lớn lao của Giáo Hội trong thế kỷ 2003”, định hướng cho thế kỷ sắp tới. Các văn kiện Công đồng chính là gia sản, đến nay vẫn “không mất giá trị, và vẻ tươi sáng”.

3/ Vì Kitô hữu Việt nam, nói chung, còn hiểu biết rất hạn hẹp về Công Đồng Chung Vatican II04.

2. Vì sao cần học hỏi sách Giáo Lý Hội Của Thánh Công Giáo trong Năm đức tin?

Cần học hỏi sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo trong Năm đức tin:

1/ Vì đây là năm kỷ niệm 20 năm công bố sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo05.

2/ Vì Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo có giá trị đặc biệt trong đời sống đức tin: sách này chứa đựng nội dung cơ bản, tổng hợp, có hệ thống của đức tin; và cho thấy sức mạnh cùng vẻ đẹp của đức tin.

HHH

Chú thích:

01/ ĐTC Bênêđictô 16 viết: “Nếu chúng ta đọc và đón nhận Công đồng, với sự giải thích đúng đắn, thì Công đồng ngày càng có thể và trở thành sức mạnh lớn để thực hiện sự canh tân Giáo Hội ngày càng cần thiết” (Tự sắc “Cửa Đức tin”, 5).

Chúng ta sẽ đặc biệt học hỏi 4 Hiến chế:  

1. Phụng vụ thánh (PV).

2. Ánh sáng muôn dân (GH).

3. Mặc khải (MK).

4. Giáo hội trong thế giới ngày nay (MV).

Và 2 Sắc lệnh: 1. Tông đồ giáo dân (TĐ); 2. Hoạt động truyền giáo của Giáo hội (TG).

02/ Công Đồng Vatican II khai mạc ngày 11.10.1962, do Đức Chân Phước Giáo hoàng Gioan 23 (Angelo Giuseppe Roncalli). Ngài lên ngôi Giáo hoàng năm đã 77 tuổi (qua đời năm 84 tuổi). Người ta đánh giá Ngài chỉ là vị giáo hoàng chuyển tiếp, nhưng Chúa Thánh Thần đã làm việc vĩ đại nơi Ngài, qua việc Ngài công bố triệu tập Công Đồng Chung Vatican II.

03/ ĐTC Bênêđictô 16 kể lại kinh nghiệm bản thân của ngài về Công Đồng:

“Tôi còn nhớ rõ thời kỳ ấy: tôi là một giáo sư trẻ về thần học cơ bản tại Đại học Bonn, và chính ĐHY Frings, TGM giáo phận Koeln đã mang tôi theo về Roma, như thần học gia cố vấn của Người…rồi sau đó tôi cũng được bổ nhiệm làm chuyên gia Công Đồng.

 …Trong những ngày này, nếu xem lại những hình ảnh của ngày lễ khai mạc Công Đồng…anh chị em cũng có thể nhận thấy niềm vui, hy vọng và sự khích lệ mà sự tham dự biến cố ánh sáng ấy mang lại cho tất cả chúng ta, ánh sáng ấy còn chiếu tỏa cho đến ngày nay.

ĐTC cũng nhắc lại sự kiện: trong lịch sử Giáo Hội, các Công đồng thường được triệu tập để xác định những yếu tố cơ bản của đức tin, nhất là để sửa chữa những sai lầm. Nhưng nếu nhìn lại Công Đồng chung Vatican 2, chúng ta thấy lúc ấy trong hành trình của Giáo Hội không có những sai lầm đức tin cần sửa chữa hoặc lên án, cũng chẳng có vấn đề đặc thù về đạo lý hoặc kỷ luật cần làm sáng tỏ. Vì thế, chúng ta có thể hiểu được sự kinh ngạc của một nhóm nhỏ các HY hiện diện trong phòng hội của Đan viện Biển Đức Phaolô ngoại thành ngày 25-1-1959, khi Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 loan báo triệu tập công nghị giáo phận Roma và Công đồng chung toàn Giáo Hội”.

04/ Vì vậy, Thư chung Hội Đồng GMVN 2012 về Năm Đức tin (s.6) đã viết: “Ước mong những văn kiện Công đồng sẽ được tiếp nhận cách thấu đáo hơn nơi mọi thành phần Dân Chúa”.

05/ “Ngày 11.10.2012 chúng ta cũng kỷ niệm 20 năm “Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo”, được vị Tiền Nhiệm của tôi, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố, với mục đích trình bày cho tất cả các tín hữu sức mạnh và vẻ đẹp của đức tin. Văn kiện này, thành quả đích thực của Công đồng chung Vatican II, đã được Thượng HĐGM khóa đặc biệt năm 1985 mong ước như một dụng cụ để phục vụ việc huấn giáo (dạy giáo lý) và được thực hiện với sự cộng tác của toàn thể hàng Giám Mục của Giáo Hội Công Giáo” (Ts. “Cửa Đức tin, 4”).

vvvvv

BÀI 3 : CÔNG ĐỒNG CHUNG LÀ GÌ?

1. Công Đồng Chung là gì?

Công Đồng Chung01 là cuộc hội nghị của toàn thể các Giám mục Giáo hội Công giáo toàn cầu02,được triệu tập do và dưới thẩm quyền của Đức Giáo Hoàng, để bàn luận và quyết định những vấn đềthuộc giáo lý hoặc qui luật của Giáo hội03.

2. Công Đồng Chung Vatican II do các Đức Giáo Hoàng nào? 

Công Đồng Chung Vatican II04 được ĐGH Gioan 2305 triệu tập và khai mạc tại Vatican ngày 11.10.1962; được ĐGH Phaolô 6 tiếp tục năm 1963 và bế mạc năm 196506.

HHH

Chú thích:

01/ * Cần phân biệt Công Đồng Chung và Công Đồng Riêng. Công Đồng Riêng chỉ triệu tập một số các Giám mục, như:

- Công đồng quốc gia, triệu tập các Giám mục của một nước.

- Công đồng Giáo tỉnh, qui tụ các Giám mục thuộc một Giáo tỉnh.

* Đã có 21 Công Đồng Chung, kể từ Công Đồng Chung đầu tiên Ni-xê năm 325, đến Công ĐồngChung Vatican II.

* Nguồn gốc các Công Đồng phát xuất từ Công Đồng Giêrusalem, khoảng năm 48-50 (Cv 15).Đó là cuộc hội nghị của các Tông đồ và những môn đồ khác. Công Đồng Giêrusalem đã quyết định những Kitô hữu gốc dân ngoại không phải chịu cắt bì...

* Có một vài hình thức hội nghị khác trong Giáo hội như:

Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, là hội nghị được thành lập ngay sau Công Ðồng Vatican II, do ĐGH Phaolô 6, gồm những Giám Mục được chọn trong số các Giám Mục toàn thế giới, do chính Ðức Giáo Hoàng triệu tập, với mục đích cùng tìm hiểu và cố vấn cho Ngài trong những vấn đề có tính cách thời sự của Giáo Hội. Thượng Hội đồng Giám mục họp bốn năm một lần.

Tháng 10.2012 vừa qua đã diễn ra  Thượng Hội đồng Giám mục về “Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô”.

-  Công nghị Giáo phận, được triệu tập bởi Giám mục giáo phận. Có giá trị tư vấn cho Giám mục địa phương.

02/ Ngoài sự tham dự của các Nghị Phụ, phải kể đến những phần tử khác của Dân Chúa:

- Trước hết phải nói đến các nhà chuyên môn, lên tới 460 vị: 235 linh mục giáo phận, 45 tu sĩ Dòng Tên, 42 tu sĩ Ða Minh, 15 tu sĩ Phanxicô, 12 đan sĩ Ðức Mẹ Vô Nhiễm, 6 tu sĩ Biển Ðức, 5 tu sĩ Don Boscô, với nhiều thành phần Tu Hội và giáo dân.

- Công Ðồng cũng kêu mời nhiều Cha Sở, là cộng tác viên thân cận của các Giám Mục... Ở kỳ họp IV, con số lên tới 45 vị. Ngày 27.10.1965, cha sở Thomas Fall, giáo phận Philadelphia Hoa Kỳ, lên tiếng trước nghị trường.

- Trong thời gian chuẩn bị cho kỳ họp II, ÐGH đã đề cử 13 giáo dân nam nữ. Ở kỳ họp cuối, con số này lên tới 42.

- Còn có 10 nữ tu dự thính.

- Đại diện cho gia đình Kitô giáo, hai vợ chồng Mexicô, J. Alvarez Icaza, được mời tham dự. Các dự thính viên giáo dân này đã lên tiếng 6 lần ở Công Ðồng, và đã góp ý kiến về nhiều vấn đề cho các Ủy Ban.

03/ Công Ðồng Chung là cơ quan lập pháp và giáo huấn tối cao của Giáo Hội. Thực ra, đó chính là Giám Mục Ðoàn qui tụ về một nơi. Những văn kiện giáo lý của Công Ðồng này giữ một giá trị giáo thuyết rất cao: với một vài điều kiện, chúng thành bất khả ngộ.

Những văn kiện Công Ðồng có thể chia làm hai loại: giáo lý hoặc qui luật:

- Văn kiện về qui luật đề cập đến luật lệ, tập quán, nghi lễ v.v...

- Văn kiện về giáo lý nhằm ngay đến giáo lý mạc khải, làm sáng tỏ những điểm còn nghi ngờ, xác quyết những chân lý bị lạc giáo chối từ v.v... Vì thế, trong những văn kiện về loại này, chúng ta thấy có những "định thức".

Gọi là định thức, những công thức ngắn về một điểm của giáo lý, hoặc xác quyết một chân lý, hoặc lên án một lạc giáo, và kết thúc bằng phán quyết "tuyệt thông". Giáo lý ở các định thức thuộc về tín điều: chối bỏ sẽ bị liệt vào hàng lạc giáo.

04/ Gọi là Công Đồng Chung Vatican II vì Công Đồng họp tại Vatican, sau Công Đồng Chung Vatican I (Công Đồng Chung Vatican I, 1869-1870, do ĐGH Piô IX triệu tập; với 747 GM tham dự. Công đồng này định tín về bản chất của mặc khải và đức tin, về tương quan giữa đức tin và lý trí, về ơn bất khả ngộ của Giáo hoàng. Công đồng đã bị đình hoãn vô thời hạn vì cuộc chiến tranh tại Âu châu).

Vatican là Giáo đô của Giáo hội Công giáo Rôma, với Tòa Thánh Vatican và Giáo triều Rôma. Là quốc gia nhỏ nhất thế giới, rộng 0,44km2, với 800 công dân vào năm 2011. Được chính thức thành hình sau hiệp ước Latran, ngày 11.02.1929. Nằm trong kinh thành Rôma, thủ đô Italia. Đây là trung tâm của Kitô giáo từ thời Con-tan-ti-nô, thế kỷ IV. Vatican vừa là địa danh quan trọng về nghệ thuật cổ điển của thế giới Rôma, vừa được coi là thành thánh của thế giới công giáo.

05/ ĐGH Gioan 23 đã đưa Giáo Hội thoát xa "Duy Giáo Hoàng thuyết", để đến gần với "nguồn Phúc Âm " hơn.

06/ Sau đây là một vài niên hiệu quan trọng:

 - Ngày 25.01.1959: ÐGH Gioan 23 thông báo ý định triệu tập Công Ðồng Chung.

- Ngày 11-10-1962: khai mạc Công Ðồng. Có 2.904 Nghị phụ được mời gọi tham dự.

- Ngày 30.06.1963: ĐGH Gioan 23 qua đời.

- Ngày 29.09.1963: ĐGH Phaolô 6 khai mạc Kỳ họp 2.

- Ngày 08.12.1965: Bế mạc Công Đồng.

vvvvv

BÀI 4 : MỤC ĐÍCH CỦA CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II.

1. Vì ý nào ĐGH Gioan 23 đã triệu tập Công Đồng Chung Vatican II ?

Đức Giáo hoàng Gioan 23 đã triệu tập Công Đồng Chung Vatican II để đổi mới, “cập nhật hoá”Giáo hội với thế giới01, và để hiệp nhất Giáo hội02.

2. Vì sao ĐGH Gioan 23 thấy cần phải đổi mới bộ mặt Giáo hội và hiệp nhất Giáo hội?

ĐGH Gioan 23 thấy cần đổi mới bộ mặt Giáo hội và hiệp nhất Giáo hội:

1/ Vì “theo Ngài: trước nhất phải làm tươi trẻ lại các cơ cấu, đem lại nhựa sống cho thân thể Giáo Hội, hợp với nhựa sống Phúc Âm luôn tươi mới”, trước những thay đổi rất mau lẹ của thế giới03.

2/ Vì “Các Kitô hữu đang có nhiều chia rẽ. Giáo Hội Công Giáo đang có những rạn nứt nội bộ nơi các xứ Kitô giáo, làm mất đi những cơ hội truyền giáo đầy hứa hẹn”.

HHH

Chú thích:

01/ * ĐGH Gioan 23 nói: “Tôi muốn mở rộng những cánh cửa của Giáo hội, để chúng ta có thể thấy được những gì diễn ra bên ngoài, và để thế giới có thể thấy được những gì diễn ra bên trong Giáo hội”.

* ĐGH Bênêđictô 16 nói với 40.000 khách hành hương ngày 10.10.2012:

“Những vấn đề của thời đại mà Công Đồng Vatican 2 đã tìm cách giải quyết là:

- làm sao nói về đức tin một cách mới mẻ, quyết liệt hơn, vì thế giới đang biến chuyển mau lẹ.

- làm sao xác định một cách mới mẻ tương quan giữa Giáo Hội và thời đại tân tiến, giữa Kitô giáo và một số yếu tố thiết yếu của tư tưởng hiện đại,

- không phải để chiều theo các tư tưởng đó, nhưng để trình bày cho thế giới đang có xu hướng xa lìa Thiên Chúa, những đòi đỏi của Tin Mừng, trong tất cả sự cao cả và tinh tuyền của Sứ điệp ấy...”.

02/ ĐGH Gioan 23 đã tuyên bố khi nói tới ý nghĩa Công đồng mà ngài sắp khai mạc: “Chúng ta hãy hiệp nhất với nhau; và chúng ta hãy chấm dứt mọi bất hoà”.

03/ Nhìn thẳng vào bề mặt của Giáo Hội, người ta mới nhận thấy rằng: hơn bao giờ hết, Giáo Hội đang đương đầu với những vấn nạn cực kỳ khó khăn:

- Từ Vatican I, thế giới đã đổi thay còn nhanh hơn 19 thế kỷ trước. Cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật đã có hấp lực hướng về viễn ảnh tương lai, mà đối với họ, hình như đang ở trong tầm tay.

- Con người đặt trọn niềm hy vọng của mình nơi thế giới vật chất này, vì đối với họ, những hứa hẹn của các tôn giáo đều tan vỡ.

- Nhưng đồng thời và hơn bao giờ hết, con người lại cảm thấy luôn bị đe dọa do chính những khám phá của họ: hiểm nguy tiêu diệt của bom nguyên tử, bầu khí thiếu lành mạnh và ô nhiễm của môi trường, chiến tranh liên lỉ...Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi đó là ‘nền văn minh sự chết’.

vvvvv

BÀI 5: KẾT QUẢ CỤ THỂ CỦA CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II.

1. Đâu là những kết quả cụ thể của Công Đồng Chung Vatican II?

Kết quả cụ thể01 của Công Đồng Chung Vatican II là những Văn kiện02 mà Công Đồng đã công bố, gồm: 4 Hiến chế03; 9 Sắc lệnh; 3 Tuyên ngôn.

2. Đâu là những văn kiện quan trọng nhất của Công Đồng Chung Vatican II?

Những văn kiện quan trọng nhất, được coi “như bốn phương hướng chính của la bàn có thể hướng dẫn chúng ta” 04, đó là bốn Hiến chế:

1/ Phụng vụ thánh (PV).

2/ Ánh sáng muôn dân (GH).

3/ Mặc khải (MK).

4/ Vui mừng và Hy vọng (MV).

HHH

Chú thích:

01/ Công Đồng đã chính thức họp từ tháng 10.1962 đến tháng 8.1965, qua 4 Kỳ với 10 Khóa họp:

- Kỳ một: tháng 10-12/1962.

- Kỳ hai: tháng 9-12/1963.

- Kỳ ba: tháng 9-11/1963.

- Kỳ bốn: tháng 9-12/1965.

Văn kiện đầu tiên được công bố vào Kỳ họp 2, ngày 4.12.1963 là Hiến chế “Phụng vụ thánh”.

Văn kiện cuối cùng là Hiến chế mục vụ “Vui mừng và hy vọng” (Giáo Hội trong thế giới ngày nay), ngày 7.12.1965, 1 ngày trước ngày bế mạc Công đồng.

02/ Ðể ý thức được công trình vĩ đại của Công Ðồng, chúng ta lược nhìn qua vài con số tiêu biểu nhất, cho thấy tầm mức khổng lồ các công việc ở Công Ðồng:

- Có tất cả 538 cuộc bỏ phiếu toàn phần hay từng phần.

- Ủy Ban ấn loát Tòa Thánh phải làm việc ngày đêm. Tổng cộng các lần phát hành các lược đồ, câu hỏi thăm dò, các bản tường trình, các đề nghị tu chỉnh v.v... mỗi thứ 3.000 bản, lên tới 40 triệu trang. Ngoài ra có khoảng 16 triệu trang khác được in cho các Nghị Phụ sử dụng. Tổng cộng: 150 tấn giấy in.

- Ðài phát thanh Vatican phải làm việc ngày đêm: các chuyên viên đài đã tiêu thụ tới 712 cuốn băng, dài 284.000 mét.

03/ - Hiến chế (hiến là pháp luật; chế là đặt ra, bó buộc): Hiến chế giống như hiến pháp là luật căn bản, nền tảng của các luật khác.

Sắc lệnh (Sắc là chiếu chỉ của vua; lệnh là công bố ra): Chín sắc lệnh của Vatican II là những luật lệ có đối tượng riêng (Giám mục, Linh mục, Chủng viện, Giáo dân làm tông đồ v.v), gồm các Sắc lệnh về:

1. “Nhiệm vụ mục vụ của các giám mục trong GH” (GM).

2. “Chức vụ và đời sống các linh mục” (LM).

3. “Đào tạo linh mục” (ĐT).

4. “Canh tân, thích nghi đời sống dòng tu” (DT).

5. “Tông đồ giáo dân” (TĐ).

6. “Hoạt động truyền giáo của GH” (TG).

7. “Hiệp nhất” (HN).

8. “Các GH Công giáo Đông phương” (ĐP).

9. “Các phương tiện truyền thông xã hội” (TT).

Tuyên ngôn (tuyên là bày tỏ cho mọi người biết; ngôn là lời nói): Ba tuyên ngôn của Vatican II nói lên lập trường, chính sách của Hội Thánh:

- về “Giáo dục Kitô giáo” (GD).

- về “Liên lạc của Hội Thánh với các tôn giáo ngoài Kytô giáo” (NK).

- về “Tự do tôn giáo” (TD).

04/ ĐGH Bênêđictô 16 nói với 40.000 khách hành hương ngày 10.10.2012, trước ngày khai mạc Năm đức tin:

“Sự phong phú chứa đựng trong các văn kiện Công Đồng Vatican II. Tôi muốn nhắc đến 4 Hiến chế, như 4 phương hướng chính của địa bàn có thể hướng dẫn chúng ta.

- Hiến chế về “Phụng vụ thánh” (PV) chỉ cho chúng ta thấy: trong Giáo Hội, ngay từ đầu đã có sự thờ phượng, có tin nhận Thiên Chúa, và đã  lấy sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa Kitô làm trung tâm.

- Hiến chế tín lý “Ánh sáng muôn dân” (GH) diễn tả: Giáo Hội, thân mình của Chúa Kitô và là dân tộc lữ hành trong thời gian, có nghĩa vụ cơ bản là tôn vinh Thiên Chúa.

- Hiến chế về “Mặc khải” (MK) : Lời sinh động của Thiên Chúa triệu tập Giáo Hội, và làm cho Giáo Hội được sinh động suốt trong hành trình lịch sử của mình.

- Hiến chế mục vụ  “Vui Mừng và hy vọng” (MV) với đề tài chính yếu là cách thức để Giáo Hội mang cho toàn thế giới ánh sáng, mà Giáo hội đã nhận lãnh từ Thiên Chúa, để Người được tôn vinh”.

vvvvv

BÀI 6 : GIÁ TRỊ  CỦA CÁC VĂN KIỆN CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II.

1. Những văn kiện Công Đồng Chung Vatican II có giá trị thế nào?

Những văn kiện Công Đồng Chung Vatican II, cho đến nay, luôn có giá trị:

- như những văn bản có tính qui luật của Huấn quyền Hội thánh01, giữa lòng Truyền thống 02của Giáo hội.

- có thể trở thành sức mạnh lớn để thực hiện cuộc đổi mới03 ngày càng cần thiết trong Giáo hội, vì các văn kiện này chính là gia sản, đến nay vẫn “không mất giá trị, và vẻ tươi sáng”04.

- vì vậy chúng ta rất cần quan tâm học hỏi những văn kiện này.

HHH

Chú thích:

01/ Huấn quyền: là quyền giảng dạy của Hội thánh, ñeå giaûi thích vaø aùp duïng Lôøi Chuùa, ñöôïc Chuùa Ki-toâ  trao phoù. Được ban đặc biệt cho các Giám mục với tư cách kế vị các Tông đồ, dưới sự lãnh đạo của Đức giáo hoàng Rôma...

02/  Truyền thống của Giáo hội:

Truyền Thống mà chúng ta nói đây khởi phát từ các tông đồ và lưu truyền những gì các ngài đã lãnh nhận từ giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giê-su cũng như những gì các ngài học được nhờ Thánh Thần. Thật vậy, thế hệ các Ki-tô hữu đầu tiên chưa có một Tân Ước thành văn, và chính bản văn Tân Ước chứng thực tiến trình của truyền thống sống động này.

Chúng ta phải phân biệt "Truyền Thống các tông đồ” với các truyền thống thuộc diện thần học, kỷ luật, phụng vụ hoặc sùng kính đã phát sinh theo thời gian trong các giáo đoàn địa phương. Những truyền thống này tạo nên những hình thức đặc thù, qua đó, Thánh Truyền thu nhận những lối diễn tả thích nghi cho những nơi khác nhau và những thời kỳ khác nhau. Chính trong ánh sáng truyền thống các tông đồ, mà các truyền thống này được giữ lại, sửa đổi hay bị loại bỏ, theo sự hướng dẫn của Huấn Quyền Hội Thánh (x. GLHTCG 83/1202, 2041 2684) .

03/ - Vì sao Giáo hội phải canh tân, đổi mới?

Giáo Hội vừa thánh thiện, vừa phải luôn thanh tẩy, sám hối và canh tân, vì, “tuy có Chúa Kitô, Đấng thánh vô tội là Đầu, nhưng trong cộng đoàn Giáo Hội vẫn có cả những tội nhân”.

- Việc canh tân Giáo hội tiến hành qua chứng tá về Lời Chân lý của Chúa Giêsu, trong cuộc sống giữa trần thế của các tín hữu.

- Để canh tân đời sống, mỗi tín hữu cần:

1. Luôn trở về cùng Chúa cách chân thực và mới mẻ.

2. Luôn bước đi trong “sự sống mới”.

3. Để cho đức tin “hành động nhờ đức mến”.

04/ - “Tôi cho rằng: việc khởi sự Năm Đức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II, có thể là một cơ hội thích hợp để hiểu rằng các văn kiện Công đồng được các Nghị Phụ để lại như gia sản, “không bị mất giá trị, cũng như vẻ tươi sáng” (Tự sắc “Cửa đức tin 5”).

- Alberto Melloni, một sử gia về Giáo Hội học trong thời đại Công Đồng Vatican II đã nói: “Những tín hữu Công giáo trẻ trung hơn có thể không quan tâm đến Công Đồng trên bình diện trí thức, nhưng họ tiếp tục chứng nghiệm những thành quả của Công Đồng. Nhờ Công Đồng, giới trẻđược chỉ bảo cho biết: thế giới không phải là mối đe dọa đối với đời sống Kitô hữu, nhưng là một cơ hội để loan báo Tin Mừng”.

- ĐTC Bênêđictô 16 nói: 

“Đức Chân phước Gioan Phaolô II, trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba đã viết: ‘Tôi cảm thấy hơn bao giờ hết nghĩa vụ phải coi Công Đồng như một đại ân phúc mà Giáo Hội được hưởng trong thế kỷ 20: trong Công Đồng chúng ta được một địa bàn chắc chắn để định hướng trên hành trình trong thế kỷ đang mở ra’ (Tông thư Novo millennio ineunte, 57).

Tôi nghĩ rằng hình ảnh này thật là hùng hồn. Chúng ta cần trở về với các văn kiện Công Đồng Vatican II, và giải thoát các văn kiện này khỏi bao nhiêu ấn phẩm nhiều khi thay vì làm cho chúng ta được biết các văn kiện Công Đồng thì lại che khuất đi.

Cả ngày nay, các văn kiện Công Đồng Vatican II vẫn là một hải bàn giúp con thuyền Giáo Hội hải hành trong biển khơi, giữa những bão tố hoặc khi sóng yên biển lặng, để tiến hành chắc chắn và tới đích”.

vvvvv

BÀI 7 : GIỚI THIỆU HIẾN CHẾ “PHỤNG VỤ THÁNH”.

1. Hiến chế Phụng Vụ Thánh được công bố ngày nào và nhằm mục đích gì?

Hiến chế Phụng Vụ Thánh là văn kiện đầu tiên của Công Đồng được công bố, vào ngày04.12.196301; nhằm canh tân và phát triển hữu hiệu02 Phụng vụ.

2. Mục đích hàng đầu của việc canh tân Phụng vụ là gì?

Mục đích hàng đầu của việc canh tân Phụng vụ là giúp toàn thể cộng đoàn tham dự phụng vụ, nhất là Thánh lễ, cách trọn vẹn và tích cực03 (PV 14).

HHH

Chú thích:

01/ Hiến chế Phụng Vụ Thánh là văn kiện được bàn thảo đầu tiên và cũng là văn kiện được công bố đầu tiên, vào cuối Kỳ Họp thứ hai.

Hiến chế Phụng Vụ Thánh gồm 7 chương:

- Chương 1: Nền tảng thần học của Phụng vụ.

- Chương 2: Cải tiến các nghi thức Thánh lễ.

- Chương 3: Các Bí tích và Á bí tích.

- Chương 4: Phụng vụ các Giờ kinh.

- Chương 5: Năm phụng vụ.

- Chương 6 và 7: Thánh nhạc và Nghệ thuật thánh.

02/ Một vài canh tân phụng vụ với những hiệu quả cụ thể như:

1/dùng tiếng địa phương thay vì chỉ dùng tiếng La-tinh, để cộng đoàn có thể hiệp thông sâu sắc hơn, tham dự trọn vẹn và tích cực hơn (vd. Hiểu rõ Lời Chúa và các lời kinh phụng vụ; hát đáp ca).

2/ Thánh lễ đồng tế khi có các linh mục, nhất là khi có Giám mục chủ tế, để diễn tả tính hiệp thông của Hội thánh, cùng với Chúa Kitô là Thượng Tế duy nhất (trước Vatican II, chỉ có l Linh mục chủ tế cho 1 Thánh lễ, nơi 1 bàn thờ).

3/ Chủ tế quay xuống giáo dân thay vì quay lên như trước kia, để diễn tả sự hiệp nhất của cộng đoàn phụng vụ, nhất là với vị chủ lễ…

4/ Các thừa tác viên giáo dân, vd. Đọc sách thánh, cho rước lễ…

03/ Tham dự phụng vụ, nhất là Thánh lễ, cách trọn vẹn và tích cực:

* cách trọn vẹn:

Trọn vẹn trong tâm hồn; trọn vẹn trong thời gian tham dự:

- “Có thể nói Thánh Lễ gồm hai phần, phần Phụng Vụ Lời Chúa và phần Phụng Vụ Thánh Thể. Hai phần này được liên kết chặt chẽ đến nỗi tạo thành một hành vi phụng thờ độc nhất. Do đó, Thánh Công Ðồng tha thiết khuyến dụ những mục tử chắn dắt các linh hồn, trong khi dạy giáo lý, phải nhiệt thành dạy dỗ các tín hữu biết tham dự trọn vẹn Thánh Lễ, nhất là những ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc” (PV 56).

- “tuyệt đối không ai khác, dầu là linh mục, được lấy quyền riêng tư thêm bớt hay thay đổi một điều gì trong Phụng Vụ”.

* cách tích cực:

- Nhờ cử hành Phụng vụ bằng tiếng địa phương, giáo dân có thể tích cực hiệp thông qua việc nghe Lời Chúa, thưa kinh, hát lễ…

- “Giáo Hội hằng bận tâm lo cho các Kitô hữu tham dự vào mầu nhiệm đức tin, không như những khách bàng quan, câm lặng, nhưng là những người thấu đáo mầu nhiệm đó nhờ các nghi lễ và kinh nguyện: họ tham dự hoạt động thánh một cách ý thức, thành kính và linh động: họ được đào tạo bởi lời Chúa; được bổ sức nơi bàn tiệc Mình Chúa; họ tạ ơn Chúa; và trong khi dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà còn liên kết với ngài, họ tập dâng chính mình; và ngày qua ngày, nhờ Chúa Kitô Trung Gian, họ được tiêu hao trong tình kết liên với Thiên Chúa và với nhau, để cuối cùng Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người” (PV 48).

- Ðể phát huy việc tham gia linh động, cần phải cổ xúy những lời tung hô của dân chúng, những lời đối đáp, những bài ca vịnh, tiền khúc, thánh ca, và cả những động tác hoặc cử chỉ, thái độ của thân xác (vd. Cùng cúi đầu, quì gối, chắp tay…).

- Vì thế,  PV số 112 nhấn mạnh rằng: việc cộng đoàn ca hát chẳng phải là thứ trang sức dư thừa, nhưng là “thành phần tất yếu và cốt yếu” của phụng vụ.

- Nhưng cũng cần phải giữ sự thinh lặng linh thiêng đúng lúc của nó.

BÀI 8 :

PHỤNG VỤ THÁNH VỚI CÔNG CUỘC CỨU CHUỘC CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ.

1. Phụng vụ là gì ?

Phụng vụ là việc tôn thờ chính thức của toàn thể Hội thánh01, để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hoá con người02.

2. Phụng vụ có giá trị thế nào trong công trình cứu chuộc của Chúa Kitô?

“Nhờ Phụng vụ, qua các bí tích, nhất là qua Hiến tế tạ ơn (Thánh lễ), công cuộc Cứu chuộc của Chúa Kitô được thực hiện03”, để thánh hoá nhân loại, và cho Giáo hội cảm nếm trước phụng vụ trên Trời (PV 2; 5; 6).

HHH

Chú thích:

01/ * Các động tác Phụng Vụ đều không phải là động tác riêng thuộc về một cá nhân hay một nhóm người nào (phụng tự riêng tư), nhưng là động tác của toàn thể Giáo Hội. Nói đúng hơn đó là động tác của chính Chúa Kitô, Thủ Lãnh Giáo Hội và của tất cả mọi chi thể trong Nhiệm Thể. Ðầu và tất cả chi thể đều cầu nguyện, đều hoạt động qua cử chỉ và việc làm của thừa tác viên.

Từ ngữ "công cộng" trong Phụng Vụ hàm chứa ý nghĩa hoàn hảo, nó chỉ việc phụng tự của toàn thể một xã hội (ở đây tức là Giáo Hội) với tư cách là một xã hội.

Ví dụ: việc lần chuỗi có thể được đọc chung nhưng thực ra đó không phải là lời cầu nguyện phụng vụ, mà vẫn là một động tác phụng tự "riêng tư". Nói cách khác đó là việc cầu nguyện của một cá nhân hay của một nhóm người.

Trái lại Thánh Lễ, các Bí Tích, Á Bí Tích và Kinh Nhật Tụng, dù chỉ được thừa tác viên cử hành một mình hay đọc riêng, luôn luôn vẫn là động tác phụng tự "công cộng", là động tác của Chúa Kitô và của Giáo Hội Người mà thừa tác viên cử hành là đại diện.

Do đó sự công hiệu của lời nguyện phụng vụ không do huân công của thừa tác viên nhưng do chính những huân công vô bờ bến của Chúa Kitô và Giáo Hội.

* phải cổ võ đời sống phụng vụ của giáo xứ và mối liên hệ giữa đời sống ấy với Giám Mục trong tâm trí cũng như trong hành vi của các tín hữu và của hàng giáo sĩ; còn phải ra sức làm triển nở ý thức cộng đoàn giáo xứ, nhất là trong việc cử hành Thánh Lễ cộng đồng ngày Chúa Nhật.

02/ Tôn vinh Thiên Chúa và thánh hoá con người:

“Công cuộc cứu chuộc nhân loại và tôn vinh Thiên Chúa cách hoàn bị như thế đã được tiên báo trong dân Cựu Ước qua những kỳ công vĩ đại của Chúa, nay lại được Chúa Kitô hoàn tất, nhất là nhờ mầu nhiệm phục sinh của cuộc Khổ Nạn hồng phúc, việc Sống Lại từ cõi chết và Lên Trời vinh hiển của Người…

Như Chúa Kitô được Chúa Cha sai đi thế nào, thì chính Người cũng sai các Tông Ðồ đầy tràn Thánh Thần đi như vậy…để các Ngài thực thi công cuộc cứu chuộc mà các Ngài đã loan báo, nhờ Hiến Tế và các Bí Tích, trung tâm điểm của toàn thể đời sống phụng vụ. 

03/ Nhờ Phụng vụ, công cuộc Cứu chuộc được thực hiện, vì qua các nghi thức, chính Chúa Kitô hiện diện và thực thi chức vụ tư tế của Người trong Giáo hội (PV. 7).

Phụng vụ của Giáo Hội ca ngợi nhiều cách thức hiện diện của Chúa Kitô giữa dân của Người: trong phụng vụ Thánh Thể, nhất là trong hai hình Bánh-Rượu; trong các bí tích khác; nơi các Thừa tác viên; trong Lời Chúa; và bất cứ khi nào Giáo Hội họp nhau lại để cầu nguyện và ca ngợi (PV. 7).

vvvvv

BÀI 9:  PHỤNG VỤ THÁNH VỚI CHÚA CHA VÀ CHÚA THÁNH THẦN.

1. Trong Phụng vụ, ta tôn thờ Chúa Cha thế nào?

Trong Phụng vụ, ta tuyên xưng, tôn thờ Chúa Cha là nguồn mạch mọi phúc lành, mà Người ban cho ta trong Con của Người01.

2. Trong Phụng vụ, Chúa Thánh Thần hoạt động thế nào?

Trong Phụng vụ, Chúa Thánh Thần:

1. Chuẩn bị cộng đoàn gặp gỡ Chúa Kitô02.

2. Nhắc nhớ và bày tỏ mầu nhiệm Chúa Kitô03.

3. Hiện tại hoá04 công cuộc cứu độ của Chúa Kitô, và xây dựng hiệp thông trong Hội thánh05.

HHH

Chú thích:

01/ * Những Lời nguyện trong Phụng vụ đều được dâng lên Chúa Cha (nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kitô, trong quyền năng tác động của Chúa Thánh Thần), vì Giáo hội tin rằng: Chúa Cha, là nguồn mạch mọi ân phúc, vì Ngài “là Cha Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất muôn vật, hữu hình và vô hình” (Kinh tin kính Nixêa-Contantinôpôli).

* “Chúc lành là hành vi Thiên Chúa ban sự sống cho con người, vì Chúa Cha là nguồn sự sống. Chúc lành của Thiên Chúa vừa là lời vừa là hồng ân. Chúc tụng là hành vi con người thờ phượng và tạ ơn Ðấng Sáng Tạo” (GLHTCG 1078).

* “Trong Phụng Vụ của Hội Thánh, chúng ta thấy và nhận được trọn vẹn chúc lành của Thiên Chúa : Chúa Cha được nhận biết và thờ phượng như nguồn mạch và cùng đích của mọi chúc lành khi Người sáng tạo và cứu độ; Người đã tuôn tràn phúc lành cho chúng ta trong Ðức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, Ðấng đã chết và sống lại; nhờ Ngôi Lời, Chúa Cha ban cho tâm hồn ta Thánh Thần là Hồng Ân bao hàm mọi hồng ân” (GLHTCG 1082).

02/ Cộng đoàn phải được chuẩn bị để gặp gỡ Chúa của mình, phải là "một dân đã sẵn sàng". Chuẩn bị tâm hồn là công việc chung của Chúa Thánh Thần và của cộng đoàn, nhất là của các thừa tác viên. Chúa Thánh Thần ban ơn khơi dậy đức tin, hoán cải tâm hồn và giúp người tín hữu gắn bó với thánh ý Chúa Cha. Người tín hữu phải được chuẩn bị như thế, mới có thể đón nhận được những hoa trái của Sự Sống mới mà Phụng Vụ mang lại (GLHTCG 1098/1430) .

Vì vậy, Giáo hội có thói quen hát hoặc đọc kinh Chúa Thánh Thần trước các cử hành phụng vụ.

03/ Trước hết, Chúa Thánh Thần làm cho Lời Chúa sống động để Cộng Ðoàn Phụng Vụ hiểu được ý nghĩa của biến cố cứu độ; nhờ đó, họ đón nhận và thực thi Lời Chúa trong đời sống:

"Trong việc cử hành Phụng Vụ, Kinh Thánh giữ vai trò tối quan trọng. Thực vậy, người ta trích từ Kinh Thánh những bản văn để đọc, để dẫn giải trong bài giảng, cũng như những ca vịnh để hát. Chính nhờ nguồn cảm hứng và sức phấn khởi của Kinh Thánh mà xuất phát những lời kinh, lời nguyện và các bài ca phụng ca, đồng thời các cử điệu và biểu tượng trở thành có ý nghĩa " (PV 24).

Chính Chúa Thánh Thần giúp người đọc cũng như người nghe Sách Thánh hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của Lời Chúa, tùy theo thái độ nội tâm của mỗi người. Qua các lời nói, cử điệu và biểu tượng làm nên cử hành Phụng Vụ, Chúa Thánh Thần đặt các tín hữu cũng như các thừa tác viên trong tương quan sống động với Chúa Ki-tô, là Lời và Hình Ảnh của Chúa Cha, để họ thể hiện trong cuộc sống ý nghĩa điều họ nghe, chiêm ngắm và cử hành trong Phụng Vụ.

Trong Phụng Vụ Lời Chúa, Chúa Thánh Thần "gợi nhớ "cho cộng đoàn về tất cả những gì Chúa Ki-tô đã làm cho chúng ta. Việc tưởng nhớ những kỳ công của Thiên Chúa được cử hành trong phần "Tưởng Niệm" dài hay ngắn tùy theo bản chất của các hoạt động phụng vụ và truyền thống nghi thức của các Giáo Hội. Chúa Thánh Thần vừa gợi lại ký ức vừa thúc giục Hội Thánh tạ ơn và ca ngợi (Doxologie) (GLHTCG 1100-1103).

04/  Chúa Thánh Thần “Hiện tại hoá công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô”:

“Bạn hỏi: làm thế nào Bánh trở nên Mình Chúa Ki-tô và Rượu trở nên Máu Chúa Ki-tô? Tôi xin thưa : Chúa Thánh Thần đến và thực hiện điều vượt trên ngôn từ và suy nghĩ của loài người... Bạn chỉ cần biết đó là nhờ Chúa Thánh Thần, như ngày xưa Ngôi Lời tự mình và đích thân nhận lấy xác phàm nơi lòng Ðức trinh Nữ nhờ Chúa Thánh Thần” (Thánh Gio-an Ða mát, "Về đức tin chính thống" 4,13) (GLHTCG 1106).

05/  Chúa Thánh Thần “xây dựng hiệp thông trong Hội thánh”: “Trong mọi hoạt động Phụng Vụ, Chúa Thánh Thần được cử đến để giúp chúng ta hiệp thông với Chúa Ki-tô nhằm hình thành Thân Thể Người. Như nhựa sống trong cây nho của Chúa Cha, Chúa Thánh Thần trổ sinh hoa trái nơi các nhánh (x. Ga 15, 1-17). Sự hợp tác thâm sâu nhất giữa Chúa Thánh Thần và Hội Thánh được thực hiện trong Phụng Vụ. Chúa Thánh Thần là Ðấng ban ơn thông hiệp, luôn ở trong Hội Thánh; nhờ đó, Hội Thánh là bí tích cao cả hiệp thông con người với Thiên Chúa và tập họp con cái Thiên Chúa tản mát khắp nơi về một mối. Hiệu quả của Chúa Thánh Thần trong Phụng Vụ gắn liền với ơn hiệp thông con người với Ba Ngôi Chí Thánh và hiệp thông huynh đệ (x. 1Ga 1,3-7)” (GLHTCG 1106).

vvvvv

BÀI 10 : PHỤNG VỤ VỚI HỘI THÁNH.

1. Phụng vụ có giá trị thế nào trong đời sống Hội thánh (x. PV 2.8)?

Phụng vụ có giá trị cao quí trong đời sống Hội thánh, vì:

- Các mầu nhiệm phụng vụ là “chóp đỉnh” sinh hoạt của Hội thánh01, là nguồn mạch các nhân đức02.

- Phụng vụ kiện cường sức mạnh rao giảng Chúa Kitô03, để mọi người nhận biết Hội thánh và được qui tụ vào một đoàn chiên Chúa.

- Trong phụng vụ trần gian, chúng ta tham dự và nếm trước phụng vụ trên trời04.

2. Ta phải làm gì để tỏ lòng tôn kính các nơi cử hành phụng vụ?

Ta phải bảo quản sạch sẽ, trang trí xứng hợp, và giữ sự tôn nghiêm05.

HHH

Chú thích:

01/ “Vì là công việc của Chúa Kitô tư tế và Thân Thể của Người là Giáo Hội, nên mọi việc cử hành phụng vụ đều là hành vi chí thánh, và không một hành vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp” (PV 7).

02/ Phụng vụ là nguồn mạch các nhân đức kiến tạo các Kitô hữu thành đền thánh, đạt tới mức sung mãn trong Chúa Kitô (PV 2).

03/ Việc dấn thân truyền giáo kín múc sức mạnh và năng lực trong sự khám phá, cảm nghiệm Tình Yêu của Chúa hằng ngày, nhất là nơi bí tích Thánh Thể. Chính “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách”, sai chúng ta lên đường công bố Tin Mừng (Tự sắc 7).

04/ "Trong Phụng Vụ dưới đất, chúng ta tham dự và nếm trước Phụng Vụ trên trời, được cử hành trong thánh đô Giê-ru-sa-lem, mà chúng ta là lữ khách đang tiến về; ở đó, Chúa Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa như thừa tác viên của cung thánh, của nhà tạm đích thực.

Phụng vụ dưới đất là nơi chúng ta hiệp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa: trong khi kính nhớ các thánh, chúng ta hy vọng được thông phần và đoàn tụ với các ngài; chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Ðộ là Chúa Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, cho đến khi Người là sự sống của chúng ta sẽ xuất hiện và chúng ta sẽ cùng xuất hiện với Người trong vinh quang" (x. PV 8; x. GH 50); (GLHTCG 1090 /1137-1139) . 

05/ Thánh đường là "nhà cầu nguyện, nơi cử hành và cất giữ Thánh Thể, cũng như để tín hữu tụ họp, nơi có sự hiện diện của Con Thiên Chúa, Ðấng Cứu Chuộc chúng ta, Ðấng đã được hiến dâng vì chúng ta trên bàn thờ tế lễ. Nhà này cần phải được bảo quản sạch sẽ, xứng hợp với việc cầu nguyện và những buổi cử hành thánh lễ" (x. PV. 122-127).

Trong "nhà Chúa", các biểu tượng phải chân thật và hài hòa để giúp mọi người nhận ra Ðức Ki-tô đang hiện diện và hoạt động nơi đây (PV 7) (GLHTCG 1181 (2691) . 

vvvvv

BÀI 11 : CỬ HÀNH PHỤNG VỤ.

1. Những ai cử hành Phụng vụ thánh?

Toàn thể cộng đồng Dân Chúa đều cử hành phụng vụ, vì tất cả đều có chức Tư tế Cộng đồng01. Nhưng có một số tín hữu được Thiên Chúa tuyển chọn và thánh hiến qua bí tích Truyền chức thánh02, để cử hành nhân Danh Chúa Kitô.

2. Cử hành Phụng vụ gồm những yếu tố nào?

Cử hành Phụng vụ gồm những yếu tố chính này:

- Một là các dấu chỉ và biểu tượng03 để diễn tả và thực hiện hành động của Chúa Kitô.

- Hai là lời nói và hành động04, qua đó con người gặp gỡ và đối thoại với Thiên Chúa.

HHH

Chú thích

01/ Cộng đoàn phụng vụ là cộng đoàn của "những người đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, nhờ sự tái sinh và xức dầu của Thánh Thần, họ được thánh hiến để trở thành một ngôi nhà thiêng liêng và một hàng tư tế thánh; hầu lấy việc làm của người tín hữu mà dâng lên Thiên Chúa những hy tế thiêng liêng" (x. GH 10). Mọi chi thể đều được tham dự vào "chức tư tế cộng đồng" này là chức tư tế của Ðức Ki-tô, vị Tư Tế duy nhất (x. GH 10, 34; LM 2):

"Mẹ Hội Thánh tha thiết ước mong toàn thể tín hữu được hướng dẫn tham dự các việc cử hành phụng vu cách trọn vẹn, ý thức và linh động. Chính bản tính Phụng Vụ đòi hỏi phải tham dự như thế. Lại nữa, nhờ phép Thánh Tẩy, việc tham dự Phụng Vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân Ki-tô giáo "là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa (1Pr 2,9)" (PV 14) (GLHTCG 1141/1120)  .

02/ "Các chi thể không cùng một chức năng" ( Rm 12,4). Một số người đã được Thiên Chúa mời gọi, trong và qua Hội Thánh, để đảm nhận phận vụ đặc biệt trong cộng đoàn.Những người này được tuyển chọn và thánh hiến nhờ bí tích Truyền Chức. Qua đó, Chúa Thánh Thần cho họ khả năng hành động thay Ðức Ki-tô là Ðầu để phục vụ mọi chi thể của Hội Thánh (x. LM 2 và 15). Các thừa tác viên có chức thánh là "họa ảnh" của Ðức Ki-tô Tư Tế. Trong thánh lễ, bí tích Hội Thánh được biểu lộ cách đầy đủ; vì thế, thừa tác vụ giám mục nổi bật với vai trò chủ sự nghi lễ Thánh Thể, cùng hiệp thông với ngài là thừa tác vụ linh mục và phó tế (GLHTCG 1142/1549 1561) .

03/ Phụng Vụ sử dụng các dấu chỉ và biểu tượng lấy từ thiên nhiên (ánh sáng, nước, lửa), từ đời sống con người (rửa, xức dầu, bẻ bánh) và từ lịch sử cứu độ (các nghi thức Vượt Qua). Ðược đưa vào lãnh vực đức tin và được Chúa Thánh Thần sử dụng, những yếu tố thiên nhiên, những nghi thức của loài người và những nghi lễ tưởng niệm ơn cứu chuộc đã trở thành phương thế Ðức Ki-tô dùng để cứu độ và thánh hóa nhân loại (GLHTCG 1189).

04/ Mỗi cử hành bí tích là một cuộc gặp gỡ giữa con cái Thiên Chúa với Cha mình, trong Ðức Ki-tô và Thánh Thần. Cuộc gặp gỡ này là cuộc đối thoại qua hành động và lời nói. Các hành động biểu trưng tự nó đã là một ngôn ngữ, nhưng cần có Lời Chúa và việc đáp trả trong đức tin đi kèm và làm cho những hành vi này nên sống động, để hạt giống Nước Trời sinh hoa kết trái trong thửa đất tốt. Những hoạt động phụng vụ biểu thị những gì Lời Chúa muốn diễn đạt: vừa là sáng kiến ân sủng của Thiên Chúa, vừa là lời đáp trả trong đức tin của Dân Chúa (GLHTCG 1153/53) .

Phụng vụ Lời Chúa là phần cốt yếu trong các cử hành bí tích. Ðể nuôi dưỡng đức tin của các tín hữu, phải tôn kính những gì liên quan đến Lời Chúa : Sách Thánh (sách Bài Ðọc hay sách Tin Mừng), nghi thức tôn kính (kiệu Sách Thánh, xông hương, hầu đèn), nơi công bố (giảng đài), cách đọc dễ nghe dễ hiểu, bài giảng của thừa tác viên sau khi công bố Lời Chúa, những lời xướng đáp của cộng đoàn (những lời tung hô, thánh vịnh, kinh cầu, tuyên xưng đức tin) (GLHTCG 1154/1100 103)  .

Lời nói và hành động trong Phụng Vụ vừa là dấu chỉ gắn liền với giáo huấn, vừa liên kết với nhau để thực hiện điều chúng biểu thị. Chúa Thánh Thần không chỉ khơi dậy đức tin để các tín hữu hiểu được Lời Chúa; nhưng qua các bí tích, Người còn thực hiện "những kỳ công" của Thiên Chúa được Lời Chúa loan báo. Công trình của Chúa Cha được Chúa Con yêu dấu hoàn tất, nay Chúa Thánh Thần làm cho hiện diện và thông ban cho các tín hữu (GLHTCG 1155/1127)  .

Thánh ca và Thánh nhạc

"Truyền thống âm nhạc của toàn Hội Thánh đã kiến tạo nên một kho tàng vô giá vượt hẳn mọi diễn tả nghệ thuật khác, nhất là điệu nhạc thánh đi liền với lời ca, góp phần cần thiết hoặc trọn vẹn trong phụng vụ trọng thể" (x. PV 112). Từ thời Cựu Ước, khi cử hành phụng vụ, người ta đã ngâm và hát các Thánh Vịnh được linh hứng, thường có nhạc phụ họa. Hội Thánh tiếp tục và phát huy truyền thống này. "Hãy cùng nhau xướng đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và những bài ca (x. Cl 3,16-117) do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa" (Ep 5,19). "Hát là cầu nguyện hai lần" (x. T. Âu-tinh, Tv 72,1) (GLHTCG 1156)  .

Thánh ca và thánh nhạc "càng liên kết chặt với hoạt động phụng vụ" (PV 112), càng thể hiện chức năng làm dấu chỉ của mình, theo ba tiêu chuẩn chính : "Diễn tả lời cầu nguyện cách dịu dàng hơn, cổ võ sự đồng thanh nhất trí và làm các nghi lễ thêm phần long trọng" (x. PV 112). Như thế, thánh ca và thánh nhạc góp phần với lời nói và hành động của phụng vụ để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu (x. PV 112) :

"Thật cảm động đến rơi lệ khi nghe anh em hát các thánh thi, thánh ca với những âm điệu du dương vang rền trong các buổi cử hành phụng vụ. Thật là xúc động, lời ca tiếng hát rót vào tai tôi, làm sôi sục chân lý trong tim tôi. Lòng yêu mến Chúa nâng tôi lên cao, hai dòng lệ chảy trên má tôi, tôi thấy tâm hồn mình bay bổng ..." ( Thánh Âu-tinh, Tự Thuật 9, 6, 14) (GLHTCG 1157/2502)  .

vvvvv

BÀI 12 : PHỤNG VỤ NGÀY CHÚA NHẬT.

1. Hiến chế Phụng Vụ Thánh nói gì về Ngày Chúa Nhật?

Theo Hiến chế Phụng Vụ Thánh, Ngày Chúa Nhật là ngày Giáo hội cử hành mầu nhiệm Phục sinh01, là ngày nền tảng và trung tâm của cả Năm phụng vụ02 (PV 106).

2. Tín hữu phải làm gì Ngày Chúa Nhật (PV 106)?

Ngày Chúa Nhật, tín hữu phải:

-       Họp nhau lại03 để nghe Lời Chúa, tham dự Thánh lễ: tưởng niệm Chúa chịu chết và phục sinh, cảm tạ vì ơn tái sinh làm con Chúa.

-       Nghỉ việc04 vì Chúa nhật là ngày vui05.

HHH

Chú thích

01/ "Theo truyền thống tông đồ bắt nguồn từ chính ngày Chúa Ki-tô sống lại, Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Phục Sinh vào mỗi ngày thứ tám, ngày thật đáng gọi là ngày của Chúa hay ngày Chúa Nhật" (x. PV 106). Ngày Chúa Ki-tô Phục Sinh vừa là "Ngày thứ nhất trong tuần" gợi lại ngày đầu của công trình sáng tạo, vừa là "Ngày thứ tám", sau khi "an nghỉ" trong "ngày Sa-bát vĩ đại", Chúa Ki-tô khai mạc"ngày Chúa đã làm nên", "ngày không còn đêm tối" (Phụng Vụ Byzantin). "Bữa tiệc của Chúa" là trọng tâm của ngày này, ở đó tất cả cộng đoàn tín hữu được gặp Chúa Ki-tô Phục Sinh, Ðấng mời gọi họ vào dự tiệc (x. Ga 21,12; Lc 24,30) :

"Hôm nay là Ngày của Chúa, ngày Phục Sinh, ngày của các Ki-tô hữu, cũng là ngày của chúng ta. Hôm nay được gọi là ngày của Chúa, vì là ngày Ðức Giê-su khải hoàn lên với Chúa Cha. Nếu người ngoại giáo gọi là "ngày mặt trời", chúng ta cũng sẵn sàng chấp nhận : vì hôm nay, muôn dân được thấy Ánh Sáng, hôm nay Mặt Trời Công Chính mang lại ơn cứu độ xuất hiện" (Thánh Hi-ê-rô-ni-mô, "Bài giảng ngày Chúa nhật Phục Sinh") (GLHTCG 1166/1343).  

02/ “Các cuộc lễ khác, nếu không thật sự là lễ quan trọng thì không được lấn át ngày Chúa nhật, vì ngày Chúa nhật là nền tảng và trung tâm của cả Năm phụng vụ” (PV 106).

03/ Ngày Chúa Nhật là ngày tuyệt hảo để cộng đoàn tín hữu tập họp cử hành Phụng Vụ, "để nghe Lời Chúa và tham dự vào bí tích Thánh Thể, để kính nhớ sự Thương Khó, Phục Sinh và Vinh Quang của Chúa Giê-su, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa, vì Người đã dùng sự Phục Sinh của Chúa Giê-su Ki-tô từ trong kẻ chết mà tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động" (PV 106/GLHTCG 1167)…

04/ Nghỉ việc:

- Về ngày Sa-bát, Thánh Kinh gợi cho Dân Chúa tưởng nhớ công trình sáng tạo. "Vì trong sáu ngày, Ðức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy Ðức Chúa đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh" (Xh 20,11) (GLHTCG 2169/2057) .

- Như Thiên Chúa "nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy, sau khi hoàn tất cả công trình" (x. St 2,2), đời sống con người cũng theo nhịp như thế giữa lao động và nghỉ ngơi. Khi lập ra ngày Chúa Nhật, Thiên Chúa muốn mọi người có thời giờ nghỉ ngơi và giải trí, để có thể chăm lo đời sống gia đình, văn hóa, xã hội và tôn giáo (MV 67,3) (GLHTCG 2184/2172).

- Ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc, người tín hữu tránh lao động và các sinh hoạt ngăn trở việc thờ phượng Thiên Chúa, việc hưởng niềm vui và tịnh dưỡng cần thiết cho tinh thần cũng như thể xác (x. Gl.1247) (GLHTCG 2193). 

05/ Chúa nhật là ngày vui:

"Ôi lạy Chúa Ki-tô, khi suy ngắm những điều kỳ diệu Người đã thực hiện trong trong ngày Chúa Nhật, ngày Chúa sống lại, chúng con phải thốt lên: Ngợi khen Chúa vì ngày Chúa Nhật, Ngày hồng phúc, Ngày khởi đầu công trình sáng tạo... công trình cứu chuộc... đổi mới nhân loại. Hôm naytrời đất vui mừng và hoàn vũ ngập tràn ánh sáng. Ngợi khen Chúa vì ngày Chúa Nhật, Ngày cửa Thiên Ðàng rộng mở đón A-đam và tất cả những kẻ bị lưu đầy" (Fanqith, Các giờ kinh Phụng vụ Syria Antiokia, Quyển 6, Phần mùa hè, trang 193b).

vvvvv

BÀI 13 : NĂM PHỤNG VỤ.

1. Năm Phụng vụ là gì?

Năm Phụng vụ là thời gian Hội thánh cử hành các mầu nhiệm của Chúa Kitô01, theo chu kỳ hàng năm02.

2. Năm Phụng vụ được tổ chức thế nào?

Năm Phụng vụ được tổ chức thành các Mùa: Mùa Vọng và Giáng sinh03; Mùa chay04 và Phục sinh; Mùa thường niên05.

HHH

Chú thích

01/ Giáo Hội, Mẹ hiền, ý thức mình có bổn phận cử hành các công trình cứu chuộc của Ðấng Phu Quân chí thánh bằng việc tưởng niệm vào những ngày ấn định trong năm.

Mỗi tuần, vào ngày gọi là ngày Chúa Nhật, Giáo Hội tưởng nhớ việc Chúa Phục Sinh; mỗi năm một lần Giáo Hội còn cử hành mầu nhiệm ấy hết sức trọng thể vào dịp lễ Chúa Phục Sinh, cùng với cuộc Thương khó hồng phúc của Người (PV 102).

Khởi từ Tam Nhật Vượt Qua như nguồn ánh sáng, thời đại mới của Phục Sinh chiếu tỏa cả năm Phụng Vụ. Thời gian của cả năm trước và sau Tam Nhật Vượt Qua được Phụng Vụ thánh hóa thành "năm hồng ân của Chúa" (Lc 4,19) (GLHTCG 1168).

Phục Sinh không chỉ là một ngày lễ như bao lễ khác, nhưng là ngày "lễ trên các lễ", cũng như bí tích Thánh Thể là "bí tích trên các bí tích". Thánh A-ta- na-xi-ô gọi lễ Phục Sinh là "ngày Chúa Nhật Trọng Ðại" (Thư các đại lễ 329), cũng như Giáo Hội Ðông Phương gọi Tuần Thánh là "Tuần Lễ Trọng Ðại". Mầu Nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm Ðức Ki-tô toàn thắng sự chết, đem lại cho thời gian già cỗi của chúng ta, sức sống mãnh liệt, cho đến khi mọi sự phải quy phục Ðức Ki-tô (GLHTCG 1169).

02/ Giáo Hội còn phô diễn trọn mầu nhiệm Chúa Kitô qua chu kỳ một năm, từ Nhập Thể, Giáng Sinh, đến Thăng Thiên, Hiện Xuống, cùng với sự mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày Chúa lại đến.

- Trong khi cử hành những Mầu Nhiệm Cứu Chuộc như thế, Giáo Hội rộng mở cho các tín hữu sản nghiệp nhân đức và công nghiệp của Chúa, khiến cho những mầu nhiệm này có thể nói là hiện diện qua mọi thời đại, ngõ hầu các tín hữu tiếp xúc với các mầu nhiệm đó sẽ được đầy tràn ơn cứu chuộc (PV 102).

- Trong khi cử hành các mầu nhiệm của Chúa Kitô theo chu kỳ hằng năm như thế với một tình yêu đặc biệt, Giáo Hội tôn kính Ðức Maria vinh hiển, Mẹ Thiên Chúa, Ðấng đã nối kết với công trình cứu chuộc của Con Người bằng mối dây bất khả phân ly. Nơi Mẹ, Giáo Hội ngưỡng mộ và tán tụng thành quả tuyệt diệu của công trình cứu chuộc, và vui mừng chiêm ngắm nơi Mẹ, như trong hình ảnh tinh tuyền trọn hảo, điều mà toàn thể Giáo Hội ước mong và trông đợi (PV 103).

- Ngoài ra, Giáo Hội còn thêm vào niên kỳ những lễ kính nhớ các Thánh Tử Ðạo và các Thánh khác, là những đấng nhờ muôn vàn hình thức ơn Chúa, đã đạt tới sự trọn lành, và đã chiếm được phần rỗi đời đời, giờ đây đang ca khen Thiên Chúa bài ca tuyệt diệu ở trên trời và đang cầu bầu cho chúng ta. Bởi chưng, trong những ngày kính nhớ các Thánh, Giáo Hội công bố mầu nhiệm phục sinh nơi các Ngài: vì đã cùng chịu thương khó và cùng được vinh hiển với Chúa Kitô. Giáo Hội cũng trình bày cho các tín hữu những gương mẫu của các Ngài, những gương mẫu lôi kéo mọi người đến với Chúa Cha qua Chúa Kitô, và nhờ công nghiệp các Ngài, Giáo Hội lãnh nhận được những hồng ân của Thiên Chúa (PV 104).

03/ Năm Phụng vụ khai triển mầu nhiệmVượt Qua dưới nhiều khía cạnh, đặc biệt là chu kỳ các lễ xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền Tin, Giáng Sinh, Hiển Linh) gợi lại những biến cố khởi đầu ơn cứu độ và cho chúng ta hưởng nhờ hoa trái đầu mùa của mầu nhiệm Phục Sinh (GLHTCG 1171/524).

04/ Mùa chay: “Hai đặc tính của Mùa Chay là việc sám hối và nhất là việc nhớ lại hoặc dọn mình chịu phép Rửa Tội, chuẩn bị các tín hữu cử hành mầu nhiệm phục sinh, bằng sự nhiệt thành nghe lời Chúa và chuyên chăm cầu nguyện hơn. Hai đặc tính trên phải được trình bày rõ ràng hơn cả trong Phụng Vụ lẫn giáo lý phụng vụ” (PV 109).

05/ Mùa thường niên được chia thành 2 giai đoạn: từ sau mùa Giáng sinh đến mùa chay và từ sau mùa Phục sinh đến mùa Vọng: Giáo hội bước theo những chặng đường rao giảng Nước Trời của Đức Kitô.

vvvvv

BÀI 14 : PHỤNG VỤ BÍ TÍCH.

1. Bí tích là gì?

Bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu01 của ân sủng, do Chúa Giêsu thiết lập và trao lại cho Hội thánh02, để ban sự sống thần linh03 cho ta.

2. Hiến chế Phụng Vụ Thánh nói gì về mục đích các bí tích (PV 59 )?

Mục đích các bí tích là để:

1/ Thánh hoá con người nhờ ân sủng của các bí tích.

2/ Xây dựng Thân thể Chúa Kitô04.

3/ Thờ phượng Thiên Chúa05.

4/ Giáo huấn các Tín hữu06.

HHH

Chú thích

01/ Những dấu chỉ hữu hiệu: qua những dấu chỉ này (vd. Nước; Dầu; Bánh-rượu) Chúa Kitô thực sự hiện diện, để ban cho ta những hiệu quả thực sự: vd. qua Nước thánh tẩy, ta được sạch tội và nên con Chúa; với Bánh rượu ta được đón nhận chính Mình-Máu Chúa Kitô.

Phụng vụ các Bí Tích và Á Bí Tích mang lại những hiệu quả này là: đối với các tín hữu đã được chuẩn bị chu đáo, thì hầu hết mọi biến cố trong đời sống sẽ được thánh hóa nhờ thánh ân xuất phát từ mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô chịu thương khó, chịu chết và sống lại, vì Người là nguồn mạch ban năng lực cho tất cả các Bí Tích và Á Bí Tích. Hầu như không có việc xử dụng của cải vật chất một cách chính đáng nào lại không có thể đưa tới mục đích thánh hóa con người và ca khen Thiên Chúa.

02/  Trao lại cho Hội thánh: vd. Bí tích Thánh tẩy: Chúa truyền cho các môn đệ: “Các con hãy đi…là phép rửa cho họ, nhân Danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19); Bí tích Thánh thể, Chúa phán: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11, 24).

Các bí tích là “do Hội thánh”: do Hội thánh cử hành; do Hội thánh xác định con số “bảy bí tích” đúng nghĩa mà Chúa Kitô thiết lập.

03/      Ban sự sống thần linh: vd. Ơn làm con Chúa qua bí tích Thánh tẩy; Ơn tha tội qua bí tích hòa giải…

04/ Xây dựng Thân thể Chúa Kitô: các bí tích là “cho Hội thánh”, vì các bí tích làm cho Hội thánh được xây dựng: các bí tích ban ơn thánh hóa để ta hiệp thông với Thiên Chúa, hiệp nhất với nhau, kết thành Hội thánh.

Riêng ba bí tích Thánh tẩy, Thêm sức, Truyền chức… còn in vào linh hồn “ấn tích”, biến ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô…cho ta tham dự chức tư tế của Chúa Kitô, tạo thành “cộng đoàn tư tế”.

05/ Thờ phượng Thiên Chúa: Cộng đoàn phụng vụ là cộng đoàn của "những người đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, nhờ sự tái sinh và xức dầu của Thánh Thần, họ được thánh hiến để trở thành một ngôi nhà thiêng liêng và một hàng tư tế thánh; hầu lấy việc làm của người tín hữu mà dâng lên Thiên Chúa những hy tế thiêng liêng" (x. GH 10). Mọi chi thể đều được tham dự vào "chức tư tế cộng đồng" này là chức tư tế của Ðức Ki-tô, vị Tư Tế duy nhất (x.GH 10, 34; LM 2) (GLHTCG 1141/1120) . 

06/ “Là những dấu chỉ, các Bí Tích còn giữ vai trò giáo huấn nữa”, vì qua những dấu chỉ ta sẽ dễ hiểu về những sự thiêng liêng, mầu nhiệm.

vvvvv

BÀI 15 : BÍ TÍCH ĐỨC TIN.

1.   Vì sao gọi là bí tích đức tin (PV 59 )?

Gọi là “bí tích đức tin” vì:

1/ Phải có đức tin mới đón nhận được các bí tích.

2/ Các bí tích, qua những lời nói, cử chỉ, nghi thức, giúp nuôi dưỡng, củng cố01 và diễn tả02đức tin.

2.        Các tín hữu phải làm gì để có thể đón nhận ân sủng qua Phụng vụ và các bí tích (PV 11; 61 )?

Để có thể đón nhận ân sủng qua phụng vụ và các bí tích, các tín hữu phải:

- Hiểu biết ý nghĩa các dấu chỉ03 trong phụng vụ và bí tích.

- Chuẩn bị xác hồn sẵn sàng, có ý ngay thẳng04, hoà hợp tâm tình với ngôn ngữ cử chỉ05

- Siêng năng đón nhận các bí tích, và tham dự06 trọn vẹn phụng vụ cách ý thức và sinh động.

HHH

Chú thích

01/ Nuôi dưỡng, củng cố đức tin:

- “Trong Giao Ước Mới, có bảy bí tích do Ðức Ki-tô thiết lập là Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể, Giải Tội, Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức Thánh và Hôn Phối. Bảy bí tích liên quan đến tất các giai đoạn và thời điểm quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu : người tín hữu được sinh ra và lớn lên, được chữa lành và sai đi. Giữa những giai đoạn của đời sống tự nhiên và đời sống thiêng liêng, có nhiều điểm tương đồng”  (GLHTCG 1210/1113).

- Ðể nuôi dưỡng đức tin của các tín hữu, phải tôn kính những gì liên quan đến Lời Chúa: Sách Thánh (sách Bài Ðọc hay sách Tin Mừng), nghi thức tôn kính (kiệu Sách Thánh, xông hương, hầu đèn), nơi công bố (giảng đài), cách đọc dễ nghe dễ hiểu, bài giảng của thừa tác viên sau khi công bố Lời Chúa, những lời xướng đáp của cộng đoàn (những lời tung hô, thánh vịnh, kinh cầu, tuyên xưng đức tin) (GLHTCG 1154/1100 103).

02/ Diễn tả đức tin: vd. Giáo hội mời người được chịu phép tuyên xưng đức tin trước khi được Thánh tẩy; sau nghi thức Truyền Phép, tất cả cộng đoàn đều thưa: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại; Kinh tin kính trong cử hành Lễ Thánh Thể mỗi ngày Chúa nhật…

03/ Hiểu biết các dấu chỉ trong phụng vụ và bí tích:

Cuộc cử hành bí tích được cấu thành bằng những dấu chỉ và biểu tượng. Theo đường lối sư phạm của Thiên Chúa, ý nghĩa của dấu chỉ và biểu tượng bắt nguồn từ trong công trình sáng tạo và trong nền văn hoá nhân loại, được xác định trong các biến cố của Cựu Ước và được mặc khải trọn vẹn trong con người và hoạt động của Ðức Ki-tô (1145/1333- 1340 53).  

Những dấu chỉ bắt nguồn từ thế giới loài người. Trong đời sống nhân loại, dấu chỉ và biểu tượng chiếm một chỗ quan trọng. Con người, một thụ tạo vừa có thân xác vừa linh thiêng, diễn tả và tiếp nhận các thực tại thiêng liêng qua dấu chỉ và biểu tượng vật chất. Con người có tính xã hội, nên cần dấu chỉ và biểu tượng để giao tiếp với tha nhân qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động. Trong tương quan với Thiên Chúa cũng thế (1146/362, 2702 1879).

04/ Có ý ngay thẳng: “Vì vậy, trong cử hành các bí tích, toàn thể cộng đoàn đều tế tự, mỗi người tuỳ theo phận vụ của mình, nhưng trong "sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần", Ðấng hoạt động trong mọi người. "Trong các cử hành phụng vụ, thừa tác viên hay tín hữu mỗi người chu toàn phận vụ của mình, chỉ làm và làm trọn vẹn những gì bản chất sự việc và những qui tắc phụng vụ qui định cho mình" (PV 28) (GLHTCG 1144) . 

05/ Hoà hợp tâm tình với ngôn ngữ cử chỉ: vì “Mỗi cử hành bí tích là một cuộc gặp gỡ giữa con cái Thiên Chúa với Cha mình, trong Ðức Ki-tô và Thánh Thần. Cuộc gặp gỡ này là cuộc đối thoại qua hành động và lời nói” (1153 (53).  

06/ Tham dự trọn vẹn Phụng vụ cách ý thức và sinh động: "Mẹ Hội Thánh tha thiết ước mong toàn thể tín hữu được hướng dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn, ý thức và linh động. Chính bản tính Phụng vụ đòi hỏi phải tham dự như thế. Lại nữa, nhờ phép Thánh Tẩy, việc tham dự Phụng vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân Kitô giáo ‘là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa’ ” (1Pr 2, 9) (PV 14).

1.   Vì sao gọi là bí tích đức tin (PV 59 )?

Gọi là “bí tích đức tin” vì:

1/ Phải có đức tin mới đón nhận được các bí tích.

2/ Các bí tích, qua những lời nói, cử chỉ, nghi thức, giúp nuôi dưỡng, củng cố01 và diễn tả02đức tin.

2.        Các tín hữu phải làm gì để có thể đón nhận ân sủng qua Phụng vụ và các bí tích (PV 11; 61 )?

Để có thể đón nhận ân sủng qua phụng vụ và các bí tích, các tín hữu phải:

- Hiểu biết ý nghĩa các dấu chỉ03 trong phụng vụ và bí tích.

- Chuẩn bị xác hồn sẵn sàng, có ý ngay thẳng04, hoà hợp tâm tình với ngôn ngữ cử chỉ05

- Siêng năng đón nhận các bí tích, và tham dự06 trọn vẹn phụng vụ cách ý thức và sinh động.

HHH

Chú thích

01/ Nuôi dưỡng, củng cố đức tin:

- “Trong Giao Ước Mới, có bảy bí tích do Ðức Ki-tô thiết lập là Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể, Giải Tội, Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức Thánh và Hôn Phối. Bảy bí tích liên quan đến tất các giai đoạn và thời điểm quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu : người tín hữu được sinh ra và lớn lên, được chữa lành và sai đi. Giữa những giai đoạn của đời sống tự nhiên và đời sống thiêng liêng, có nhiều điểm tương đồng”  (GLHTCG 1210/1113).

- Ðể nuôi dưỡng đức tin của các tín hữu, phải tôn kính những gì liên quan đến Lời Chúa: Sách Thánh (sách Bài Ðọc hay sách Tin Mừng), nghi thức tôn kính (kiệu Sách Thánh, xông hương, hầu đèn), nơi công bố (giảng đài), cách đọc dễ nghe dễ hiểu, bài giảng của thừa tác viên sau khi công bố Lời Chúa, những lời xướng đáp của cộng đoàn (những lời tung hô, thánh vịnh, kinh cầu, tuyên xưng đức tin) (GLHTCG 1154/1100 103).

02/ Diễn tả đức tin: vd. Giáo hội mời người được chịu phép tuyên xưng đức tin trước khi được Thánh tẩy; sau nghi thức Truyền Phép, tất cả cộng đoàn đều thưa: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại; Kinh tin kính trong cử hành Lễ Thánh Thể mỗi ngày Chúa nhật…

03/ Hiểu biết các dấu chỉ trong phụng vụ và bí tích:

Cuộc cử hành bí tích được cấu thành bằng những dấu chỉ và biểu tượng. Theo đường lối sư phạm của Thiên Chúa, ý nghĩa của dấu chỉ và biểu tượng bắt nguồn từ trong công trình sáng tạo và trong nền văn hoá nhân loại, được xác định trong các biến cố của Cựu Ước và được mặc khải trọn vẹn trong con người và hoạt động của Ðức Ki-tô (1145/1333- 1340 53).  

Những dấu chỉ bắt nguồn từ thế giới loài người. Trong đời sống nhân loại, dấu chỉ và biểu tượng chiếm một chỗ quan trọng. Con người, một thụ tạo vừa có thân xác vừa linh thiêng, diễn tả và tiếp nhận các thực tại thiêng liêng qua dấu chỉ và biểu tượng vật chất. Con người có tính xã hội, nên cần dấu chỉ và biểu tượng để giao tiếp với tha nhân qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động. Trong tương quan với Thiên Chúa cũng thế (1146/362, 2702 1879).

04/ Có ý ngay thẳng: “Vì vậy, trong cử hành các bí tích, toàn thể cộng đoàn đều tế tự, mỗi người tuỳ theo phận vụ của mình, nhưng trong "sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần", Ðấng hoạt động trong mọi người. "Trong các cử hành phụng vụ, thừa tác viên hay tín hữu mỗi người chu toàn phận vụ của mình, chỉ làm và làm trọn vẹn những gì bản chất sự việc và những qui tắc phụng vụ qui định cho mình" (PV 28) (GLHTCG 1144) . 

05/ Hoà hợp tâm tình với ngôn ngữ cử chỉ: vì “Mỗi cử hành bí tích là một cuộc gặp gỡ giữa con cái Thiên Chúa với Cha mình, trong Ðức Ki-tô và Thánh Thần. Cuộc gặp gỡ này là cuộc đối thoại qua hành động và lời nói” (1153 (53).  

06/ Tham dự trọn vẹn Phụng vụ cách ý thức và sinh động: "Mẹ Hội Thánh tha thiết ước mong toàn thể tín hữu được hướng dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn, ý thức và linh động. Chính bản tính Phụng vụ đòi hỏi phải tham dự như thế. Lại nữa, nhờ phép Thánh Tẩy, việc tham dự Phụng vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân Kitô giáo ‘là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa’ ” (1Pr 2, 9) (PV 14).