Lịch Sử Mối Tương Quan
Giữa Kitô Giáo Với Các Tôn Giáo
Hòa Bình
I. Quan điểm triết học Hy lạp về các tôn giáo
Chúng ta thử đi ngược dòng thời gian, để điểm lại những quan điểm của các nhà thần học Kitô giáo về giá trị của các tôn giáo trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, các quan điểm đó rất nhiều và khác biệt nhau. Vì thế chúng tôi chỉ ghi nhận những khuynh hướng chính, đặc biệt là nêu bật những yếu tố nào chi phối các quan điểm thần học. Theo thiển ý, trong lãnh vực này, một yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ là sự hiểu biết về các tôn giáo. Nên biết là khoa lịch sử đối chiếu các tôn giáo của nhân loại mới phát triển trong những thế kỷ gần đây, và còn ở giai đoạn chập chững về phương pháp. Chúng ta có quyền tự hỏi : có bao nhiêu tín đồ Kitô giáo đã nghiên cứu về các tôn giáo khác trên hoàn cầu ? Có bao nhiêu tín đồ Kitô giáo đã nghiên cứu về lịch sử của chính tôn giáo của mình ? Và chúng ta có thể đặt những câu hỏi tương tự cho các tín đồ của các tôn giáo khác. Ngoài ra, như sẽ thấy, có nhiều cách thức để nghiên cứu các tôn giáo : từ tâm tình hoàn toàn thụ động cho đến thái độ phê bình chỉ trích.
Bài này, chúng tôi xin lược qua tình hình nghiên cứu về các tôn giáo trong thế giới Hy lạp-Rôma trước khi Kitô giáo xuất hiện. Các thánh tông đồ và các giáo phụ đã chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi những trào lưu đó.
Nói chung, con người vào thời cổ sống trong niềm tin tưởng vào một thần linh nào đó. Lòng tin đó được diễn tả qua các việc cúng bái cầu khẩn. Mặt khác, tín ngưỡng không phải là một chuyện cá nhân nhưng còn mang một chiều kích xã hội nữa. Mỗi gia đình, bộ tộc, thành phố theo một tôn giáo nào đó : tôn giáo được coi như là yếu tố liên kết các phần tử của gia đình, bộ tộc, thành phố. Ai không tham dự vào các lễ nghi tôn giáo sẽ bị khai trừ ra khỏi cộng đồng. Điều này có thể nhận thấy ngay tại xã hội Việt Nam : việc thờ cúng tổ tiên, thành hoàng, tế Nam Giao là những dịp nối kết các phần tử của gia đình, làng xã, quốc gia. Điều đó cũng đúng với dân tộc Do thái, và các dân tộc khác.
Tuy nhiên, trong khi mà đại đa số nhân dân tuân hành các truyền thống gia phong một cách kính cẩn, thì một vài triết gia Hy lạp đã dám nghiên cứu các tôn giáo với một thái độ phê bình. Chúng ta thấy ít là có ba khuynh hướng chính :
* Khuynh hướng hòa đồng tôn giáo.
* Khuynh hướng thống nhất tôn giáo.
* Khuynh hướng phê bình tôn giáo.
1. Khuynh hướng hòa đồng tôn giáo.
Những người này tỏ ra lòng kính trọng đối với hết các tôn giáo. Bụt nào cũng thiêng cả ! Vì thế họ mang hết các thần linh về nhà để thờ ! Nhưng sớm muộn gì, vấn đề xếp đặt thứ tự sẽ được đặt ra : ai đứng trên, ai đứng dưới, ai đi trước, ai đi sau? Từ đó, mới nảy ra những chuyện thần thoại nhằm giải thích nguồn gốc của các thần linh cũng như những mối quan hệ giữa các thần. Bên Hy lạp, hai tác giả nổi tiếng hơn cả là hai thi sĩHomêrô và Hêsiôđô (khoảng tk 8-7 tr.CN). Họ xếp đặt một hệ cấp giữa các thần, hoặc theo kiểu một gia đình (từ ông tổ lần lượt xuống ông bà nội ngoại, vợ chồng, cha mẹ, con cháu), hay là theo kiểu một triều đình (hoàng đế, ngọc hoàng) với các quan quân hầu cận. Khởi đầu với việc xếp đặt tôn ti của các thần linh quốc nội, dần dần các học giả xếp đặt các thần linh ngoại bang mà họ biết được qua những cuộc chu du hay viễn chinh. Những học giả nổi tiếng thời cổ là : ông Ecatêo Abđêra (k.320 tr.CN) nghiên cứu các thần linh bên Ai cập. Ông Megastênê (k.300 tr.CN) bàn về các thần linh bên Ấn độ. Ông Bêrôsô (tk.3 trCN) nghiên cứu các thần ở Babilonia. Tác phẩm bách khoa về các thần linh cổ đại là của ông Marcô Têrenxiô Varrone (116-27 tr.CN), Antiquitates rerum humanarum et divinarum. Dĩ nhiên, trong khi đối chiếu nguồn gốc các thần linh như vậy, cũng có người nghĩ rằng các thần hơn kém cũng như nhau, chỉ khác tên gọi mà thôi : thần Jupiter của người Rôma và thần Zeus của người Hy lạp chung quy cũng là một vị mà thôi !
2) Khuynh hướng thống nhất các tôn giáo.
Khuynh hướng hòa đồng vừa nói đã dần dần dẫn tới khuynh hướng thống nhất các tôn giáo khi giải thích tất cả các thần linh đều bởi một nguồn gốc. Tuy nhiên, có những triết gia còn đi xa hơn nữa. Họ không dừng lại ở việc nghiên cứu nguồn gốc của các thần linh được nhân dân thờ cúng, nhưng họ tìm đến cội nguồn của mọi loài hiện hữu. Họ tìm nguyên nhân tối hậu của vạn vật. Trong số những triết gia này, ta có thể kể : ông Thalês (tk.6 tr.CN) cho rằng nước và lửa là nguyên tố căn bản của vạn vật; ông Anassimanđrô (tk6 tr.CN) quy tóm vạn vật về chất thể vô định (apeiron); ông Hêraclitô (k.500 tr.CN) giải trích nguyên nhân của vạn vật là Lý trí (Logos), kiểm soát hết mọi loài. Sau cùng, chúng ta có thể xếp các nhà hiền triết Platon (429-347) và Aristôt (384-322) trong hạng này, khi mà họ đặt nguồn gốc của vũ trụ nơi một vị Hóa công, một vị Đệ nhất nguyên nhân tác thành.
3) Khuynh hướng phê bình các tôn giáo.
Trong khi khuynh hướng thứ nhất cố gắng thu thập hết các tinh hoa của tất cả mọi tôn giáo trên hoàn cầu, khuynh hướng thứ hai thì không muốn biết gì đến các tôn giáo, bởi vì họ chỉ bận tâm tới các quan niệm siêu hình (căn nguyên tối hậu của các hữu thể), khuynh hướng thứ ba nghiên cứu các tôn giáo với cặp mắt phê bình. Việc nghiên cứu các tôn giáo mở đường cho việc phê bình chỉ trích các tôn giáo. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng không phải những người thuộc khuynh hướng này là đều là những kẻ vô thần, phá đạo đâu ! Ngược lại, việc phê bình các tôn giáo do chính lòng đạo đức thúc đẩy : họ muốn tìm về một đạo giáo nguyên tuyền trong sáng, chứ không phải là đạo do thị hiếu con người bày đặt ra.
Ông Sênôphanê Côlôphônê (tk.6-5 tr.CN) đã chỉ trích các thần thoại của các thi sĩ Hômêrô và Hêsiôđô là vô luân, khi gán cho các thần linh trên thiên giới tất cả những đam mê dục vọng giống như ở hạ giới này. Ông nói : “Giả như các con bò biết vẽ, ắt là chúng cũng vẽ các thần theo hình con bò !” Ông Êpicuriô (tk.6 tr.CN) nhìn nhận sự hiện hữu của các thần linh, nhưng không tin rằng họ có ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân loại. Ông Prôđicô Xêôs (tk.5 tr.CN) cho rằng các thần linh (thần thái dương, thần hỏa, thần thổ, v.v...) chẳng qua chỉ là các yếu tố thiên nhiên, được con người phong thần vì thấy mang lại ơn ích cho mình. Theo ông Đêmôcritô (k.440-k.370 tr.CN), nguồn gốc của mọi tôn giáo là sự sợ hãi : tất cả những gì gây ra cho con người sợ sệt, thì được tôn kính bái lạy như thần thánh. Ông Crixia (tk.5) cho rằng tôn giáo được đặt ra để mà bảo đảm an ninh trật tự xã hội : vào thời sơ khai, luật pháp và công an không đủ để kiểm soát các hành vi của con người, cho nên người ta bịa thêm các thần linh nhằm ngăn ngừa các hành vi xấu bởi vì sợ rằng sẽ bị trời phạt. Sau cùng, ông Evêmêrô (tk.4-3) được coi như đại biểu của các thuyết chỉ trích các tôn giáo từ cổ thời cho đến hiện đại. Theo ông, các thần linh chỉ là do con người tạo ra mà thôi. Có lẽ thuyết của ông ta có cơ sở lịch sử ngay tại Hy lạp, khi mà Alexanđrô Đại đế tự phong thần cho mình, và tạo ra nghi thức cúng tế cho mình ! Dù sao, hậu thế nhiều lần sẽ trở lại với thuyết của ông Êvêmêrô khi chỉ trích các tôn giáo, như chúng ta sẽ thấy nơi các học thuyết vào đầu thế kỷ 20 tại Âu châu giải thích các tôn giáo như là sự phóng dọi các ước muốn của con người, xét như cá nhân hay xét như một tầng lớp xã hội hoặc một tập thể. Tuy nhiên, như đã lưu ý trên đây, thái độ của các triết gia cổ thời thì khác với các nhà nghiên cứu tôn giáo hiện đại. Vào cổ thời, việc chỉ trích các tôn giáo được thúc đẩy bởi tâm tình đạo giáo. Người ta muốn bảo vệ lòng đạo tinh tuyền, chứ không muốn để cho tôn giáo bị pha phôi với những dục vọng bần tiện. Vì thế không lạ gì mà các giáo phụ của Kitô giáo cũng tán thành ông Êvêmêrô. Thậm chí, phải nói rằng trước ông Êvêmêrô mấy thế kỷ, ta đã tìm thấy tư tưởng đó nơi các ngôn sứ bên Israel, thí dụ Hôsêa 13,2; Isaia 44,9-20, sách Khôn ngoan 13,2-5 : Các thần linh là do bàn tay con người tác tạo, theo kích thước của con người, mang theo những dục vọng sở thích của con người. Tư tưởng này cũng được thánh Phaolô lặïp lại trong thư gửi Rôma (1,22-24).
Cả ba khuynh hướng vừa kể trên đây đều sẽ có ảnh hưởng đến các nhà thần học Kitô giáo khi bàn đến các tôn giáo. Dĩ nhiên là họ không thể chấp nhận khuynh hướng hòa đồng tôn giáo, theo nghĩa là bụt nào cũng thiêng như nhau. Khuynh hướng thứ hai gây được nhiều thiện cảm hơn cả : các nền triết học được đánh giá như ánh sáng của Thiên Chúa thu hút con người tìm về Chân, Thiện, Mỹ. Khuynh hướng thứ ba có khi được coi như đồng minh của Kitô giáo khi nó giúp cho việc thanh luyện lòng đạo, nhưng có khi nó đưa tới việc bài trừ hết mọi tôn giáo, bị ghép chung vào hạng thuốc phiện mê dân.
II. Các giáo phụ
Cả ba thái độ vừa nói đều có ảnh hưởng đến quan điểm của các nhà tư tưởng Kitô giáo trong những thế kỷ đầu tiên. Chúng ta biết rằng Kitô giáo không thành hình từ con số không. Đức Giêsu đã xuất thân và trưởng thành trong khung cảnh của Do thái giáo. Các môn đệ đầu tiên cũng xuất thân từ môi trường này. Mối tương quan đầu tiên được đặt lên chính là sự đồng nhất và khác biệt giữa đạo Kitô và đạo Do thái. Dù sao, các kitô hữu đầu tiên đã chịu ảnh hưởng của đạo Do thái trong khi phán đoán về giá trị của các tôn giáo khác. Các ngôn sứ đã không ngừng cảnh cáo dân Israel đừng chạy theo các ngẫu tượng : việc thờ lạy ngẫu tượng không những là dấu hiệu bất trung đối với Thiên Chúa mà còn đưa đến việc du nhập các phong tục đồi trụy khác. Đức Giêsu còn đi xa hơn nữa, khi mà Ngài đã chỉ trích cả các tập tục thánh thiêng của đạo Do thái (như : các luật lệ về ngày Sabat), khi mà việc cúng tế không đi kèm theo tình thương bác ái đích thực. Đàng khác, nhiều khi Ngài cũng ca ngợi lòng tin của những người ngoại (người Samari, người Cana), bởi vì lắm lần họ thi hành luật của Thiên Chúa cách nghiêm túc hơn là dân Do thái. Chúng ta cũng bắt đầu tìm hiểu quan điểm của các nhà tư tưởng Kitô giáo kể từ thời các giáo phụ.
Thời các giáo phụ kéo dài hơn kém 7 thế kỷ. Trong thời gian này, thế đứng của Kitô giáo trong đế quốc Rôma đã thay đổi rất nhiều. Khi mới xuất hiện, Kitô giáo là một nhóm ly khai của Do thái giáo và bị Đế quốc Rôma bách hại. Từ thế kỷ thứ 4, Kitô giáo không những được quyền tự do hành đạo mà còn trở thành quốc giáo, lấn át các tôn giáo cổ truyền[1]. Nhưng chẳng bao lâu, lãnh thổ của Đế quốc Rôma bị quân man di xâm chiếm (Năm 402, Alaricô dẫn đoàn quân Visigôt tràn vào mạn Báwc Italia và nhập vào Rôma năm 410. Năm 406, các đoàn quân Alaman, Burgunđi, Franchi, Vanđali, Svevi chiếm miền Gaule và bán đảo Tây Ban Nha). Đạo quân nàyï mang theo các tôn giáo cổ truyền của mình. Kitô giáo tính chuyện cải hoán họ. Vào cuối thời các giáo phụ, Hồi giáo xuất hiện, chiếm dần vùng thánh địa và lãnh thổ của các giáo đoàn phồn thịnh nhất tại Bắc phi và Trung đông. Bối cảnh lịch sử đã chi phối rất nhiều mối quan hệ giữa Kitô giáo với các tôn giáo. Chúng ta cùng bàn đến bốn vấn đề :
* Sự xuất hiện của Kitô giáo trong dòng lịch sử nhân loại.
* Nguồn gốc các tôn giáo.
* Hòa đồng tôn giáo.
* Truyền giáo cho dân man di.
A. Kitôgiáo trong dòng lịch sử nhân loại.
Các nhà hộ giáo đã phải đương đầu với một vấn nạn nan giải : làm sao Kitô giáo dám xưng mình là đạo thật mà mãi tới bây giờ mới xuất hiện? Nếu là đạo thật thì phải ra đời ngay từ thuở tạo thiên lập địa chứ ?
Thánh Giustinô (tk.2) đã trả lời rằng : tuy đức Kitô mới ra đời, nhưng mà xét như là Ngôi Lời (hay Lý tính : Logos), thì Ngài đã hiện hữu ngay từ lúc vũ trụ khai sinh, và đã tác động trong thế giới. Ngài là chân lý chiếu sáng hết mọi người. Phàm ai sống theo chân lý thì đều mang mầm mống của Ngôi Lời (Logos spermatikos). Ta có thể nhận thấy dấu vết của Ngôi Lời nơi các nhà hiền triết, các đạo lý. Đức Kitô đến để mặc khải chân lý sung mãn (Apologiae, viết khoảng năm 150-160). Tuy biện hộ cho Kitô giáo, nhưng cách gián tiếp, thánh Giustinô cũng nhìn nhận có những yếu tố chân chính và tốt lành nơi các triết thuyết và các tôn giáo. Thánh Irênêo (cuối tk.2) cũng nói tới tác động của Ngôi Lời trong khắp vũ trụ; đồng thời tác giả nhấn mạnh rằng đức Kitô đã mang đến một mặc khải mới, vượt xa các tác động trước đây của Logos (Adversus haereses). Ông Tertulianô (k.150-k.230) đề cao tác động của Chân lý (Lẽ phải) ở nơi lương tâm của con người.
Như vậy, khi trình bày vị trí của kitô giáo trong lịch sử của loài người, các nhà hộ giáo phải đụng tới vấn đề nguồn gốc của các tôn giáo khác trên hoàn cầu. Tuy nhiên, quan điểm của các giáo phụ không đồng nhất.
B. Nguồn gốc các tôn giáo.
Bàn về nguồn gốc các tôn giáo, chúng ta thấy ít là có tới 4 giả thuyết khác nhau.
1/ Các tôn giáo là con đẻ của ma quỷ. Giả thuyết này dựa trên đoạn văn của thánh vịnh 95,5 theo bản dịch Vulgata : “omnes dii gentium daemonia” (các thần linh của chư dân là ma quỷ). Vì ghen tương, ma quỷ đã tạo ra các thần linh ngẫu tượng, để lường gạt con người, xúi con người thờ lạy hắ mà mất phần rỗi (Giustinô, Taxianô, Atênagôra, Minutius Felix, Cyprianô). Ngoài ra, không thiếu các giáo phụ giải thích nguồn gốc các thần linh dựa theo thuyết của ông Êvêmêrô, nghĩa là các thần linh do tay con người tạo ra.
2/ Các tôn giáo khác đã bắt chước đạo Do thái. Nguồn gốc của thuyết này là chính các người Do thái thuộc trường phái Alexanđria. Theo họ, các nhà hiền triết và các vị sáng lập tôn giáo đã chép lại giáo lý của ông Môsê và các tiên tri. Các nhà hộ giáo như Tertullianô đã lấy lại thuyết đó.
3/ Đường lối sư phạm của Thiên Chúa. Dựa theo thư thánh Phaolô gửi Rôma, một tác giả vô danh của lá thư gửi Điônhêta (k.130-180) cho rằng Thiên Chúa đã để cho con người bị rơi vào vòng mê hoặc ngõ hầu cảm thấy sự cần thiết của ơn cứu rỗi. Tuy nhiên, dần dần các tác giả khác đã trình bày học thuyết một cách tích cực hơn, theo chiều hướng của sự mặc khải tiệm tiến. Thiên Chúa đã chuẩn bị cho con người đón nhận chân lý theo kiểu nhà mô phạm : từ những chân lý đơn giản đến những chân lý cao siêu. Nói cách khác, các tôn giáo chứa đựng những mầm mống chân lý, nhằm hướng tới chân lý viên mãn là đức Kitô. Chúng ta có thể thấy quan điểm này nơi Irênêô, Grêgôriô Nazianzênô, Eusêbiô.
4/ Bản tính hướng thiện của con người.
Trong thư gửi Rôma (1,18; 2,17), thánh Phaolô đã viết rằng lý trí con người có thể nhận biết Thiên Chúa. Cựu ước đã nói đến tư tưởng này ở sách Khôn ngoan (13,1-5). Ngoài ra trường phái Stoa của Hy lạp cũng đã nói tới “những ý niệm chung” của toànthể nhân loại. Hết mọi người đều mang trong mình khả năng tìm được chân lý. Từ những tiền đề vừa nói, ông Tertullianô đi tới kết luận rằng tinh thần của con người có thể biết được Thiên Chúa, như là Đấng Tối cao, Tạo hóa, Thượng đế (Apologeticum). Nói khác đi, tuy các tôn giáo mang nhiều hình thức khác nhau, nhưng chúng bắt nguồn từ bản tính của con người tìm về chân lý. Vì thế, nếu ai sống trung thực với lương tâm của mình thì có thể coi như là kitô hữu (xc. Giustinô, I Apol. 46,2-4; Eusêbiô, Hist. Eccl. I,1,4). Mặt khác, hành trình hướng về chân lý không phải chỉ là nỗ lực của con người mà thôi. Ông Clêmentê Alexanđria nghĩ rằng Thiên Chúa quan phòng cũng mặc khải cho dân ngoại nhờ những tia sáng chân lý, chuẩn bị cho họ đón nhận Tin mừng (praeparatio evangelica : Stromata, I, c.5).
Tuy nhiên, cần thú nhận rằng chỉ có một số ít giáo phụ chấp nhận quan điểm này. Thực ra lý do không có gì khó hiểu. Các nhà hộ giáo cố gắng chứng minh rằng duy chỉ có một đạo thật là Kitô giáo. Vì thế mà khó lòng nhận thấy các chân lý ở nơi các tôn giáo khác. Ngoài ra, các giáo phụ phải đương đầu với một nguy cơ không nhỏ đối với đức tin, đó là khuynh hướng hòa đồng tôn giáo.
C. Hòa đồng tôn giáo
Người ta thường nghĩ rằng từ thời Hoàng đế Constantinô trở đi, Kitô giáo đã nắm giữ địa vị độc tôn trong Đế quốc, và trở thành quốc giáo. Sự thực thì không đơn giản như vậy. Các tôn giáo cổ truyền không thể nào tàn lụi một sớm một chiều, sau khi ban hành một văn kiện pháp lý. Nhiều người chỉ trở lại Kitô giáo để được yên thân, chứ thực tình họ vẫn tiếp tục thực hành các tôn giáo cổ truyền. Mặt khác, đôi khi các hoàng đế Rôma (chẳng hạn như Aurêliô, Giulianô) cũng cổ võ việc trở về với các tôn giáo cổ truyền. Đó là chưa nói đến các khuynh hướng tổng hợp, kết nạp các yếu tố của các tôn giáo cổ truyền với Kitô giáo. Dĩ nhiên, dưới khía cạnh mục vụ, các giám mục phải áp dụng những biện pháp nghiêm khắc, hầu duy trì đời sống đức tin nguyên tuyền, bài trừ những tục lệ mê tín dị đoan. Đồng thời, cũng có những học giả nghiên cứu đối chiếu giữa các tôn giáo, tìm ra những mối tương quan. Chúng ta có thể thấy một thí dụ điển hình nơi ông Origène trong cuộc tranh luận với ông Celsus (Contra Celsum). Triết gia Celsus chỉ trích quan điểm độc tôn của Kitô giáo bằng cách nêu bật rằng Kitô giáo cũng có nhiều nghi lễ giống như các tôn giáo khác. Ông Origène trả lời rằng khi đối chiếu các tôn giáo với nhau, ta không nên chỉ dừng lại ở các hình thức bên ngoài nhưng cần phải đi sâu vào động lực của chúng nữa. Chẳng hạn như có người tránh việc ngoại tình vì thấy nó nghịch với công bằng (thuyết Stoa), có người tránh ngoại tình vì thấy không lợi lộc gì (phái Epicuriô), có người tránh ngoại tình vì sợ bị trừng phạt. Một cách tương tự như vậy, có người kiêng thịt vì tin vào thuyết luân hồi, người khác kiêng thịt vì tin vào cuộc sống vĩnh cửu. Luận cứ này cũng được thánh Augustinô sử dụng (ïKitô giáo cũng tôn kính các thiên thần, nhưng họ chỉ là các thụ tạo; còn các tôn giáo thì kính các thiên thần như là thần linh).
D. Tôn giáo của dân man di
Đối với dân man di, Giáo Hội một đàng cố gắng rao giảng Phúc âm cho ho[1]ï, đàng khác cũng chấp nhận cho họ giữ duy trì những tập tục lề nghi cổ truyền. Đặc biệt là có những học giả nghiên cứu tìm hiểu các tôn giáo của họ, chẳng hạn như Grêgoriô de Tours (538-594) để lại lịch sử các phong tục Franc (HistoriaFrancorum), Bêđa với lích sử của dân Anglô (Historia ecclesiastica gentis Anglorum).
Dù sao, thách đố lớn nhất là sự xuất hiện của Hồi giáo. Đây là tôn giáo mà Giáo hội thời Trung cổ phải đương đầu dưới nhiều mặt.
III. Thời Trung cổ và Phục hưng
Biến cố gây xáo động nhất cho các Kitô hữu vào thời Trung cổ là sự xuất hiện của Hồi giáo. Vị sáng lập của tôn giáo này, ông Mohammet (570-632), không phải chỉ là một ngôn sứ giảng dạy một đạo lý mới mà còn là nhà lãnh đạo của một cuộc chinh phục quân sự. Lần lượt các vùng Trung đông và Tiểu Á (cái nôi của Kitô giáo), Bắc Phi, và miền Nam Âu châu đã bị đặt dưới quyền cai trị của các nhà lãnh đạo Hồi giáo, không những về mặt tôn giáo mà cả về mặt chính trị nữa[1]. Ngoài ra, chúng ta cũng đừng nên quên sự bành trướng của tôn giáo này sang Á châu, đến mãi tận miền Đông Nam Thái bình dương.
Các tín hữu Kitô giáo đã đương đầu với Hồi giáo trên nhiều bình diện khác nhau : quân sự, tín ngưỡng, truyền giáo, cũng như văn hóa và tư tưởng.
1. Dĩ nhiên, sự đối kháng khá tự nhiên là giải pháp quân sự, nhằm xua đuổi quân xâm lăng Hồi giáo. Từ đó ta thấy có những chiến dịch thập tự quân nhằm giải phóng thánh địa Giêrusalem (1096-1291, ít là để bảo đảm sự tự do cho các tín hữu đi hành hương), cũng như các cuộc nổi dậy bên Tây Ban Nha. Tại đây, cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ năm 1063 và chấm dứt vào năm 1492, khi mà tất cả các tín đồ Hồi giáo và Do thái bị trục xuất hoàn toàn khỏi bán đảo này. Thực ra, cũng như bao nhiêu cuộc thánh chiến khác, không phải tất cả những ai tham gia đều là những người thánh hoặc là do động lực thánh thiêng thúc đẩy ! Những tham vọng chính trị, kinh tế cũng có phần trong đó. Điều đáng tiếc nữa là trước đây, đã có những giáo đoàn Kitô bên Trung đông đã mở cửa chào đón đoàn quân Hồi giáo như là nhà giải phóng họ khỏi chế độ hà khắc của triều đình Constantinôpôli. Một cách tương tự như vậy, có lần đoàn quân Thập tự latinh thay vì sang giải phóng thánh địa Giêrusalem thì lại quay sang đánh phá kinh thành Constantinôpôli, biểu tượng của ly giáo Đông phương ! Cuộc đối kháng quân sự quả đã để lại khá nhiều vết đen trong lịch sử !
2. May thay, đường lối quân sự không phải là giải pháp duy nhất. Nhiều nhà tư tưởng Kitô giáo bắt đầu suy tư ý nghĩa của việc xuất hiện của Hồi giáo trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa. Đối với thánh Bonifaxiô, Mahomét chính là cái roi mà Chúa dùng để trừng phạt tội lỗi của các kitô hữu. Một vài nhà giảng thuyết còn đi xa hơn nữa, khi coi Mahomét như là điềm báo của tận thế : ông ta là Quỷ vương (Phản Kitô) mà sách Khải huyền nói tới (xc. Paulô Alvarô Corđôba đã sửa lại năm qua đời của Mahomét là 666 cho hợïp với sách Khải huyền). Ngoài ra, cũng cần thêm rằng nhiều nhà thần học thời đó coi Mahomét là một người lạc đạo, bởi vì ông ta không nhìn nhận thiên tính của đức Kitô (thí dụ : Raymundo Lull). Dĩ nhiên, khi tham khảo luân lý học của Hồi giáo, người ta lại càng có dịp vạch ra nhiều điểm vô luân hơn nữa !
3. Thái độ thứ ba mang tính cách tích cực hơn. Sự xuất hiện của Hồi giáo là cơ hội để thức tỉnh sứ mạng truyền giáo của Giáo hội. Trước đó, người ta tưởng rằng muôn dân thiên hạ đã được nghe giảng Tin mừng rồi; bây giờ mới bật ngửa là còn có biết bao nhiêu người sống ngoài biên cương của Âu châu vẫn còn chưa biết Chúa Cứu thế. Thánh Phanxicô Assisi chủ trương đi gặp các tướng lãnh Hồi giáo để giảng đạo cho họ, và sẵn sàng tử đạo để làm chứng cho đức tin. Các con cái của thánh Phanxicô và Đaminh đã tiếp tục chương trình truyền giáo sang Trung đông, Á châu, không những nhắm tới người Hồi giáo mà cả tới người Mông cổ nữa.
4. Bình diện thứ bốn của cuộc gặp gỡ là lãnh vực văn hóa. Phải nhìn nhận rằng chính nhờ người Arập mà tư tưởng của Aristôte được truyền bá sang Âu châu, gây ra một cuộc cách mạng triết học và thần học tại đây. Đề tài chính của các đại học Âu châu thời đó là mối liên hệ giữa đức tin và lý trí, nghĩa là giữa vũ trụ quan và nhân sinh quan dựa theo mặc khải Kinh thánh với vũ trụ quan và nhân sinh quan dựa theo Aristot, Averroes. Có thể coi đây như là ảnh hưởng gián tiếp của Hồi giáo. Đối lại, đó đây cũng có những học giả Kitô giáo bắt đầu nghiên cứu và dịch thuật các tác phẩm của Hồi giáo từ Ả rập sang tiếng latinh. Nhiều trường dạy tiếng Ả rập đã được mở ra nhằm huấn luyện các nhà truyền giáo tương lai.
Tuy Hồi giáo là mối bận tâm chính yếu của Giáo hội thời Trung cổ, nhưng thần học không chỉ dừng lại ở tôn giáo này mà thôi. Trong các thiên bàn về đức tin hoặc về ơn cứu rỗi, các nhà thần học đề cập đến các người Do thái, các người lạc đạo lẫn các người không bao giờ nghe giảng danh thánh Chúa Kitô. Một giả thuyết thường gặp thấy nơi các nhà thần học thời này là : nếu ai suốt đời ăn ngay ở lành, thì Chúa sẽ sai thiên thần đến rửa tội cho họ, ngõ hầu họ được cứu rỗi. Ngày nay, chúng ta thấy giả thuyết đó thừa thãi; tuy nhiên, nó cũng đã mở cửa cho phép những người sống ngoài Hội thánh cũng được Chúa ban ơn cứu rỗi. Hơn thế nữa, thần học Trung cổ cũng xác tín rằng con người nhờ lý trí và lương tâm có thể nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa và lựa chọn điều ngay lành.
Vào cuối thời Trung cổ, trong lãnh vực nghiên cứu các tôn giáo chúng ta thấy xuất hiện khuynh hướng “hài hòa” (concordisme), điển hình nơi hồng y Nicôla Cusa (1401-1461). Trong tác phẩm De pace fidei (1451), tác giả cho rằng các tôn giáo đều là hình bóng biểu tượng : cho dù khác biệt nhau nhưng tất cả đều diễn tả cùng một chân lý như nhau. Theo ông, các tôn giáo là phản ánh của một chân lý duy nhất là Thiên Chúa. Vì thế tất cả các tôn giáo trên thế giới đều có thể xếp ngang hàng với nhau. Ông ta ước mong tất cả các tôn giáo tìm thấy sự hài hòa dưới chân của Ngôi Lời nhập thể.
Đúng ra, thay vì kết thúc thời Trung cổ, Nicôla Cusa mở màn cho một thời mới bên Âu châu, mang danh là Phục hưng (tái sinh : Rinascimento, Renaissance), nghĩa là phục hồi lại văn chương cổ điển Hy-La. Các tác phẩm triết học và văn chương cổ điển, xưa nay vốn bị chôn vùi ở dưới những pho sách Kinh thánh, giáo phụ, nay được mang ra ánh sáng. Nhờ đó, người ta biết được các tín ngưỡng tiền Kitô giáo, cộng thêm với các ký thuật về tín ngưỡng bên Á châu mà các nhà thám hiểm và thương gia mang về. Sự hiểu biết về các tôn giáo hoàn cầu sớm muộn gì cũng đặt ra vấn đề tương quan với Kitô giáo. Bên cạnh những quan điểm cổ truyền về đạo Kitô như là chân giáo duy nhất, ông Êrasmô (k.1466-1536) đề ra một thuyết khác, tuy không hẳn là hoàn toàn mới lạ. Theo ông, tất cả các tôn giáo đều tốt bởi vì chúng đều đưa con người về với Thượng đế : Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, mang nhiều danh hiệu khác nhau : Jupiter, thần Thái dương, Apollo, Mosê, Kitô, v.v.... Các tôn giáo đều bình đẳng với nhau, bởi vì đều chứa đựng một căn bản chung. Trong tác phẩm “Đàm thoại tôn giáo” (Colloquia, seu Convivium religiosum), ông ta đã phong thánh cho triết gia Socrate, hôn kính các tác phẩm của văn hào Cicêrô, các thi sĩ Virgiliô, Hômêro., bởi vì ông cho rằng tất cả các tác phẩm bất hủ của nhân loại đều được Chúa linh ứng.
Có lẽ thái độ quá cởi mở của ông Erasmô và của nhóm nhân bản đã gây ra phản ứng đối nghịch của ông Lutêrô. Ông Erasmô càng đề cao giá trị của tự do con người (De libero arbitrio), thì ông Lutêrô càng hạ thấp tự do của con người (De servo arbitrio). Ý chí của con người đã mất tự do, nó không có sức để kháng cự tội lỗi và làm điều lành. Do đó, con người tự sức mình không thể nào đạt tới sự cứu rỗi cả. Con người chỉ có thể được cứu rỗi nhờ đức tin, đón nhận ân sủng mà Thiên Chúa ban cho nhờ thập giá của đức Kitô.
Ông Lutêrô dựa học thuyết của mình trên giáo huấn của thánh Phaolô : con người được cứu rỗi nhờ hồng ân của Thiên Chúa chứ không phải nhờ công trạng của mình. Tuy nhiên, Lutêrô nhấn mạnh một chiều về hồng ân của Thiên Chúa đến nỗi không còn đếm xỉa gì đến sự cộng tác của con người. Dĩ nhiên, đây chỉ là một vấn đề thần học ở trong nội bộ của Hội thánh, nhưng nó cũng có ảnh hưởng tới các tôn giáo khác. Thực vậy, Lutêrô nhấn mạnh rằng con người chỉ được cứu rỗi nhờ đón nhận hồng ân của Thiên Chúa ban nơi đức Kitô. Vì vậy các việc lành, các cuộc phụng tự không có giá trị gì hết đối với việc cứu rỗi. Từ đó, các nhà thần học thuộc nhóm Luthêrô đã có thái độ phê phán nghiêm khắc đối với các tôn giáo : tất cả các tôn giáo đều bị kết án là tà đạo, bởi vì họ cố gắng tìm cách cứu rỗi bằng việc lành phúc đức, nhờ sự nỗ lực cố gắng của mình.
Phong trào cải cách Tin lành đã gây ra những thay đổi không nhỏ trong quan điểm thần học về các tôn giáo. Ngoài hậu quả do đạo lý cứu rỗi nhờ đức tin như vừa nói, trong những cuộc tranh luận giữa Công giáo và Tin lành, đôi lúc người ta có cảm tưởng là hai bên thuộc về hai tôn giáo khác nhau. Cuộc chiến tranh giữa Công giáo và Tin lành diễn ra tại Pháp và Đức được mệnh danh là “chiến tranh giữa các tôn giáo” (guerre des religions) ! Sự xung đột về tư tưởng và binh bị trong nội bộ Kitô giáo đã giảm bớt sự chú ý đến các tôn giáo khác.
Một sự thay đổi nữa mà các nhà thần học Tin lành không ngờ là khi đề cao địa vị tối thượng của Kinh thánh và đức tin, họ đã đặt lương tâm con người đối diện với Thiên Chúa, chứ không qua trung gian của Hội thánh. Trong tương lai, nhiều luồng tư tưởng xuất phát từ Tin lành sẽ coi lương tâm như là yếu tố then chốt khi bàn về giá trị tôn giáo.
IV. Thần học về các tôn giáo trong các văn kiện của Tòa thánh
Từ công đồng Vaticano II đã có sự thay đổi chiều hướng của thần học khi bàn về các tôn giáo. Xưa kia, các tôn giáo bị coi như là đạo dối trá, thờ bụt thần ma quỷ. Từ công đồng, các tôn giáo đã được nhìn nhận như là mầm mống của Ngôi Lời (semina Verbi), chuẩn bị cho Phúc âm (praeparatio evangelica). Từ chỗ nhìn nhận rằng các người ngoài Kitô giáo có thể được cứu rỗi, có những nhà thần học đi tới chỗ các tín đồ của các tôn giáo được cứu rỗi nhờ chính tôn giáo của họ. Sự chuyển hướng thần học mang theo nhiều hệ quả thực tiễn không nhỏ. Vào thời mà người ta tin rằng ai không theo đạo Kitô thì bị trầm luân sa hỏa ngục, việc truyền giáo trở thành công cuộc khẩn trương. Thế nhưng khi biết rằng các người ngoài Kitô giáo có thể được cứu rỗi, thì thử hỏi cần chi phải vất vả đi truyền giáo nữa ? Từ nay, ai nấy an phận, đạo ai người đó giữ, cần chi phải trở lại đạo nữa ? Để đánh tan những nghi ngờ và ngộ nhận, Tòa thánh đã xuất bản hai văn kiện:
1) Thông điệp Redemptoris Missio của đức Gioan Phaolô II, về ý nghĩa của công cuộc truyền giáo, ban hành nhân dịp kỷ niệm 25 năm bế mạc công đồng Vaticano II (7/12/1990);
2) văn kiện Đối thoại và Truyền giảng do Bộ Truyền giảng Phúc âm và Hội đồng Tòa thánh về Đối thoại tôn giáo cùng soạn và ban hành ngày 19/5/1991.
1. Thông điệp “Redemptoris Missio”
Đây là một văn kiện có vài điểm liên quan tới các tôn giáo. Chúng ta có thể nêu lên những nguyên tắc tín lý và những áp dụng thực tiễn.
A. Những nguyên tắc tín lý.
1) Nguồn gốc của chương trình cứu rỗi là tình yêu của Thiên Chúa muốn mời gọi con người vào chia sẻ đời sống thần linh của Ba ngôi (số 7). Con người được cứu rỗi khi tin nhận hồng ân tình yêu Chúa được biểu lộ nơi đức Kitô trong Thánh Thần (số 12).
2) Đức Giêsu chính là Ngôi Lời nhập thể để mặc khải Thiên Chúa cho nhân loại. Ngài là Đấng Cứu thế, là con đường duy nhất qua đó con người gặp gỡ Thiên Chúa (số 5). Đành rằng những người không biết đến đức Kitô cũng có thể được cứu rỗi, nhưng họ đã được ơn cứu rỗi nhờ đức Kitô nhờ hồng ân của Thánh Thần (số 10). Không thể nào tách rời đức Giêsu khỏi đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể được (số 6). Tuy rằng Thiên Chúa có thể dùng những hình thức và cấp độ môi giới khác nhau, nhưng tất cả các hình thức đó đều thông dự vào vai trò trung gian của đức Kitô, chứ không phải là song song hay độc lập với Ngài (số 5).
3) Thánh Thần tác động vượt lên mọi biên cương của thời gian và không gian. Ngài tác động :
-
· trong con tim của mỗi người;
-
· trong các hạt giống chân lý gieo vào các nền văn hóa và tôn giáo;
-
· trong những nỗ lực của con người tìm về chân thiện mỹ (số 28).
Tuy nhiên không thể nào tách rời tác động của Thánh Thần trong vũ trụ ra khỏi tác động của Thánh Thần nơi đức Kitô và trong Giáo hội. Chỉ có một Thánh Thần duy nhất (số 29).
4) Hội thánh đã được đức Kitô đặt làm nhiệm tích, tức là dấu chỉ và dụng cụ trong công cuộc cứu rỗi. Giáo hội phục vụ Nước Chúa bằng việc rao truyền Tin mừng, bằng việc thiết lập các cộng đoàn tín hữu để sống tinh thần Phúc âm; bằng việc thăng tiến các giá trị nhân bản, chẳng hạn như : công bằng, yêu thương, giáo dục, sức khoẻ v.v... (số 20). Tuy rằng có những người ngoài Giáo hội hữu hình được Chúa ban ơn cứu rỗi, nhưng họ cũng có liên lạc phần nào với Giáo hội, ít là do lời cầu nguyện của Giáo hội (số 10).
Thông điệp muốn trình bày thần học về các tôn giáo dựa trên mầu nhiệm của Ba Ngôi. Thiên Chúa yêu thương và muốn cho mọi người hạnh phúc. Ý muốn đó được thể hiện qua việc gieo những mầm mống chân lý và thánh thiện vào con tim của mỗi người cũng như qua các nền văn hóa và tôn giáo, nhờ đó con người nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa và đáp lại qua việc tuân theo tiếng nói của lương tâm. Những gì tốt đẹp chân thật trong vũ trụ đều là hoa trái của Ngôi Lời và Thánh thần. Tuy rằng những người không biết đức Kitô và Giáo hội của Ngài có thể được cứu rỗi, nhưng không thể nói rằng họ được cứu rỗi không qua trung gian của đức Kitô và không nhờ ảnh hưởng của Giáo hội. Bằng những đường lối nhiệm mầu, Thánh Thần giúp cho họ được tiếp xúc với mầu nhiệm Vượt qua của đức Kitô.
B. Những áp dụng thực tiễn
Công tác truyền giáo được tiến hành bằng những đường lối khác nhau : chứng tá bác ái, rao giảng đức Kitô, sự cải hoán và gia nhập Giáo hội, việc thiết lập các cộng đoàn, đối thoại tôn giáo, hội nhập văn hóa, thăng tiến nhân phẩm. Sự đối thoại tôn giáo là một trong những con đường của việc truyền giáo (số 55-57). Sự đối thoại giúp cho nhà truyền giáo nhìn nhận ra những mầm giống của chân lý tiềm tàng trong các nền văn hóa và các tôn giáo; đồng thời giúp cho chính mình đào sâu hơn về căn tính của mình và sống thích hợp hơn với yêu sách của sứ điệp Tin mừng. Nói cách khác, việc đối thoại tôn giáo không hề làm suy giảm nhiệt khí truyền giáo, nhưng thúc đẩy chúng ta nhiệt thành sống và thông truyền Phúc âm hơn.
2. Đối thoại và Truyền giảng
Văn kiện này tuy ra đời sau thông điệp "Redemptoris Missio" nhưng đã được soạn thảo từ mấy năm trước. Vào năm 1984, Văn phòng liên lạc với các tôn giáo đã xuất bản văn kiện mang tựa đề "Đối thoại và truyền giáo" (được thông điệp trích dẫn ở chú thích số 99). Do đó có thể coi văn kiện "Đối thoại và Truyền giảng" như là một thứ tái bản có sửa đổi. Văn kiện được chia làm ba phần :
1/ Đối thoại tôn giáo.
2/ Truyền giảng đức Kitô.
3/ Mối liên hệ giữa đối thoại và truyền giảng.
Giá trị của các tôn giáo trong lịch sử cứu độ được trình bày khá rộng trong phần thứ nhất.
Ngoài những bản văn của công đồng bàn về giá trị của các tôn giáo, văn kiện còn muốn trình bày một học thuyết mạch lạc, khởi sự từ Cựu ước (số 19-20) nói đến một lịch sử duy nhất dành cho toàn thể nhân loại; sang đến Tân ước cho thấy ơn cứu rỗi được dành cho muôn dân (số 21-23). Đặc biệt, các giáo phụ Giustinô, Irêneô, Clêmentê Alexanđria cho thấy rằng Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho dân ngoại dưới nhiều hình dạng và giao ước khác nhau (giao ước với Adong, với Noe, với Moisen, và với đức Kitô), đưa tới sự sung mãn nơi đức Kitô (số 24-25).
Sự hiện hữu của những yếu tố tích cực nơi các tôn giáo đòi hỏi chúng ta một thái độ kính trọng khi tiếp xúc với họ. Tuy nhiên, việc nhìn nhận rằng các tôn giáo có những yếu tố của ơn thánh không có nghĩa là tất cả đều là hậu quả của ơn thánh. Cũng như bao nhiêu thực tại khác trên đời này, các tôn giáo cũng bị tội lỗi len lỏi vào. Việc đối thoại chân thành sẽ không ngần ngại vạch ra những khuyết điểm ấy. Mặt khác, kể cả Kitô giáo, tuy chứa đựng sự sung mãn của mặc khải Thiên Chúa, nhưng cũng gồm bởi những phần tử nhân loại và chịu ảnh hưởng bởi những giới hạn của con người. Giáo hội vẫn còn cần được Thánh Thần hướng dẫn để thấu hiểu toàn thể chân lý của đức Kitô. Hơn thế nữa, những phần tử của Giáo hội mang đầy tội lỗi và luôn luôn cần cải hoán với Tin mừng. Giáo hội chưa phản ánh rạng ngời thánh thiện của hiền thê của đức Kitô; Giáo hội chưa đạt tới sự thành toàn của Nước Chúa (số 33-41).
Trong bối cảnh đó, việc đối thoại không nhằm để bươi móc xấu xa của đối phương nhưng là chia sẻ những nỗ lực tiến tới chân lý hoàn hảo. Người kitô hữu có thể thâu thái những yếu tố tốt đẹp nơi các tôn giáo khác để kiện toàn hơn sự hiểu biết về chân lý của đạo mình hay về cách thức sống đạo. Việc đối thoại cũng giúp cho mình đào sâu thêm đức tin của mình, và kiểm điểm xem lối sống của mình cho hài hòa với đạo lý Phúc âm hay không. Ngoài ra, sự đối thoại tôn giáo không chỉ giới hạn vào lãnh vực học thuyết nhưng còn bao hàm nhiều hình dạng khác nhau :
-
· đối thoại cuộc sống, nghĩa là sống tinh thần thân thiện cởi mở với láng giềng, trao đổi những chuyện vui buồn hàng ngày;
-
· đối thoại công tác, khi hợp lực với các tín đồ của các tôn giáo khác để thực hiện những công tác xã hội;
-
· đối thoại về học thuyết giữa các chuyên viên;
-
· đối thoại về cảm nghiệm tâm linh (số 42).
Sang phần áp dụng thực tiễn, văn kiện nêu ra những điều kiện cần có khi đối thoại (số 47-50) và những trở ngại cho cuộc đối thoại (số 51-54).
Hai phần còn lại của văn kiện trình bày ý nghĩa của việc truyền giảng Đức Kitô. Sự truyền giảng và sự đối thoại không đối chọi với nhau cũng chẳng thay thế cho nhau. Đó là hai con đường bổ túc cho nhau trong việc thi hành sứ mạng truyền bá Tin mừng (và còn nhiều con đường khác nữa, thí dụ như : sự cầu nguyện, việc bác ái..). Nói cho cùng, cả hai đều nhằm tới con người, những con người cụ thể : việc rao giảng Tin mừng nhằm trình bày cho con người con đường hạnh phúc mà Chúa đã mặc khải; mặt khác, việc rao giảng cần được thực hiện với tâm tình yêu mến và kính trọng phẩm giá của người mà mình tiếp xúc. Nguồn gốc và tác nhân của ơn cứu rỗi là chính Thiên Chúa, còn Giáo hội chỉ là dụng cụ.
Kết luận
Khi bàn đến thần học về các tôn giáo, chúng tôi chỉ mới xét tới những văn kiện trình bày các tôn giáo nói chung. Chúng ta cần phải bổ túc với những văn kiện bàn riêng tới từng tôn giáo (Do thái, Hồi giáo, Phật giáo) v.v..., tùy theo hoàn cảnh mỗi địa phương. Cách riêng tại Á châu, việc đối thoại tôn giáo cần phải đi đôi với những công tác giúp giải thoát con người khỏi những gì hạ giá phẩm giá của mình : nghèo đói, dốt nát, áp bức, kỳ thị v.v....
Thư tịch
Jacques Dupuis, Dialogo e Annuncio in due recenti documenti, in : "Civ. Catt." 1992/22, 221-236. Joseph Masson, Le dialogue entre le religions. Deux documents récents, in : "Nouv. Rev. Théol." 114 (1992) 726-737.
Nguồn: daminhvn.net.