Loan báo Tin Mừng cho dòng họ (II)
LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ - Chia sẻ 12
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO NGƯỜI VIỆT XẾP THEO DÒNG HỌ
Ở bài chia sẻ 05, chúng tôi đã nêu gợi ý chủ yếu cho việc truyền giáo qua con
đường dòng họ. Theo đó, mỗi dòng họ trong giáo xứ có thể tổ chức một ngày
truyền thống cho dòng họ mình. Nếu trong dòng họ có những vị thánh, có thể
lấy ngày lễ kính của một vị làm ngày truyền thống. Nếu thiếu vị thánh đồng tộc,
có thể chọn bất cứ vị thánh nào tại Việt Nam hoặc ở nước ngoài làm bổn mạng.
Trong danh sách các thánh người Việt dưới đây,
- 69 vị thuộc 17 dòng họ: Bùi (2), Đặng (1), Đinh (3), Đỗ (3), Đoàn (3), Hà (2),
Hồ (1), Hoàng/Huỳnh (1), Lê (7), Nguyễn (24), Phạm (5), Phan (3), Tạ (1),
Tống (1), Trần (4), Trương (2), Vũ/Võ (6);
Tên thánh -Họ và Tên - Thành phần - Lễ kính
Nicôlas Bùi Ðức Thể Binh sĩ 12.06
Ðaminh Bùi Văn Úy Thày giảng TOP 19.12
Giuse Đặng Ðình Viên Linh Mục 21.08
Ðaminh Ðinh Đạt Binh sĩ 18.07
Gioan B. Ðinh Văn Thanh Thày giảng 28.04
Tôma Ðinh Viết Dụ Linh Mục OP 26.11
Vinh Sơn Đỗ Yến Linh Mục OP 30.06
Giacôbê Đỗ Mai Năm Linh Mục 12.08
Phanxicô Đỗ Văn Chiểu Thày giảng 26.06
Phêrô Ðoàn Công Quý Linh Mục 31.07
Gioan Ðoàn Trinh Hoan Linh Mục 26.05
Phêrô Ðoàn Văn Vân Thày giảng 25.05
Ðaminh Hà Trọng Mậu Linh Mục OP 05.11
Phanxicô X. Hà Trọng Mậu Thày giảng TOP 19.12
Micae Hồ Ðình Hy Quan Thái bộc 22.05
Giuse Hoàng Lương Cảnh Trùm họ TOP 05.09
Phêrô Lê Tùy Linh Mục 11.10
Phaolô Lê Bảo Tịnh Linh Mục 06.04
Giuse Lê Ðăng Thị Cai đội 24.10
Anê Lê Thị (Bà Ðê) Thành Giáo dân 12.07
Matthêô Lê Văn Gẫm Thuong gia 11.05
Phaolô Lê Văn Lộc Linh Mục 13.02
Emmanuel Lê Văn Phụng Trùm họ 31.07
Antôn Nguyễn Ðích Binh sĩ 12.08
Phaolô Nguyễn Ngân Linh Mục 08.11
Phêrô Nguyễn Bá Tuần Linh Mục 15.07
Giuse Nguyễn Ðình Nghi Linh Mục 08.11
Giuse Nguyễn Ðình Uyển Thày giảng TOP 04.07
Giuse Nguyễn Duy Khang Thày giảng TOP 06.12
Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh Binh sĩ 10.07
Micae Nguyễn Huy Mỹ Lý trưởng 12.08
Phêrô Nguyễn Khắc Tự Thày giảng. 10.07
Anrê Nguyễn Kim Thông Trùm họ 15.07
Vinh Sơn Nguyễn Thế Ðiểm Linh Mục 24.11
Tôma Nguyễn Văn Đệ Thợ may 19.12
Ðaminh Nguyễn Văn Hạnh Linh Mục OP 01.08
Phêrô Nguyễn Văn Hiếu Thày giảng 28,04
Laurensô Nguyễn Văn Hưởng Linh Mục 27.04
Giuse Nguyễn Văn Lựu Trùm họ 02.05
Phêrô Nguyễn Văn Lựu Linh Mục 07.04
Augustinô Nguyễn Văn Mới Nông dân TOP 19.12
Phaolô Nguyễn Văn Mỹ Thày giảng 18.12
Matthêô Nguyễn Văn Phụng Binh sĩ 26.05
Emmanuel Nguyễn Văn Triệu Linh Mục 17.09
Phêrô Nguyễn Văn Tự Linh Mục OP 05.09
Stephanô Nguyễn Văn Vinh Nông dân TOP 19.12
Ðaminh Nguyễn Văn Xuyên Linh Mục OP 26.11
Vinh-sơn Phạm Hiếu Liêm Linh Mục OP 07.11
Phaolô Phạm Khắc Khoan Linh Mục 28.04
Ðaminh Phạm Trọng Khảm Quan án TOP 13.01
Giuse Phạm Trọng Tả Chánh Tổng 13.01
Luca Phạm Trọng Thìn Chánh Tổng 13.01
Simon Phan Đức Hòa Y sĩ 12.12
Philiphê Phan Văn Minh Linh Mục 03.07
Augustinô Phan Viết Huy Binh sĩ 12.06
Martinô Tạ Đức Thịnh Linh Mục 08.11
Phaolô Tống Viết Bường Quan thị vệ 23.10
Anrê Trần An Dũng Lạc Linh Mục 21.12
Tôma Trần Văn Thiện Chủng sinh 21.09
Anrê Trần Văn Trông Binh sĩ 28.11
Phanxicô Trần Văn Trung Cai đội. 06.10
Phêrô Trương Văn Ðường Thày giảng 18.12
Phêrô Trương Văn Thi Linh Mục 21.12
Luca Vũ Bá LoanLinh Mục 05.06
Phêrô Vũ Ðăng Khoa Linh Mục 24.11
Ðaminh Vũ Ðình Tước Linh Mục OP 02.04
Phaolô Vũ Văn Ðổng Thủ bạ 03.06
Bênadô Vũ Văn Duệ Linh Mục 01.08
Phêrô Vũ Văn Truật Thày giảng. 18.12
29 vị không rõ dòng họ
Tên thánh Họ và Tên Thành phần Lễ kính
Anrê Tường Nông gia 16.06
Anrê Phú Yên Thày Giảng 26.07
Ðaminh Mạo Nông gia 16.06
Ðaminh Nguyên Chánh truong 16.06
Ðaminh Nhi Nông gia 16.06
Ðaminh Trạch Linh Mục OP 18.09
Ðaminh Cẩm Linh Mục TOP 11.03
Ðaminh Ninh Nông dân 02.06
Ðaminh Huyên Ngư phủ 05.06
Ðaminh Toại Ngư phủ 05.06
Gioan Đạt Linh Mục 28.10
Gioan Baotixita Cỏn Lý trưởng 08.11
Giuse Tuân Linh Mục OP 30.04
Giuse Hiển Linh Mục 09.05
Giuse Túc Giáo dân 01.06
Giuse Tuấn Giáo dân 07.06
Laurensô Ngôn Nông dân 22.05
Martinô Thọ Viên thuế 08.11
Phanxicô Xavie Cẩn Thày giảng 20.11
Phaolô Hạnh Giáo dân 28.05
Phêrô Ða Thư Mục 17.06
Phêrô Khanh Linh Mục 12.07
Phêrô Dũng Ngư phủ 06.06
Phêrô Thuấn Ngư phủ 06.06
Tôma Toán thày giảng TOP 27.06
Tôma Khuông Linh Mục TOP 30.01
Vinh-sơn Tương Chánh Tổng 16.06
Vinh-sơn Dương Giáo dân 06.06
LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ - Chia sẻ 13
ĐƯỜNG VỀ QUÊ HƯƠNG CÁC THÁNH
Hằng năm, tới ngày kỷ niệm các vị Tử đạo, tại quê hương của từng vị vẫn có
lễ hội của Giáo xứ và Giáo phận. Theo hướng loan Tin mừng cho đồng tộc,
ngoài thánh lễ, rước kiệu, nên có thêm những sinh hoạt dành cho người cùng
dòng họ với vị Thánh. Với sinh hoạt này, ngày kính vị Tử đạo sẽ sớm thành lễ
hội của Dòng họ và có khả năng lôi cuốn người đồng tộc, giáo cũng như lương.
Tại những nơi ở xa quê hương vị Thánh, nếu bà con đồng tộc có điều kiện cũng
nên xây dựng tượng đài hoặc đền thánh. Những nơi này cũng sẽ có thể thành
những điểm hành hương cho Dòng họ.
Ngày về viếng đền thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa tại giáo xứ Thuận Nghĩa, Nghệ
An, đứng trước tượng ngài, tôi chợt có cái ao ước gặp gỡ hậu duệ của ngài
đang sống quanh đó. Khi biên soạn quyển Về Với Cội Nguồn, tới phần các vị
thánh đồng tộc, tôi nghĩ cần cung cấp cho độc giả những thông tin cần thiết
để có thể thực hiện những cuộc hành hương lý thú, vừa về thăm quê hương
các thánh vừa giao lưu gặp gỡ với hậu duệ các ngài. Rất may, tôi đã gặp được
sự giúp đỡ nhiệt thành của ông bà Phanxicô Xaviê Phạm Vũ Hiệp, Hà Nội
(sđt: 0949-084-494). Hai vị đã đích thân hành hương đến quê quán sáu vị
thánh họ Vũ-Võ, kính viếng các đền thánh, chụp hình và đích thân liên lạc
với hậu duệ các vị thánh để có được những số liệu chính xác và sống động.
Tôi xin được ghi lại ở đây như một gợi hứng.
Ước mong rằng hậu duệ các vị thánh thuộc những dòng họ khác cũng cung
cấp cho chúng tôi những thông tin tương tự để, khi có điều kiện, chúng tôi
có thể phổ biến lại cho đồng tộc của các ngài ở khắp nơi.
ĐƯỜNG VỀ QUẦN PHƯƠNG – QUÊ HƯƠNG THÁNH BÊNAĐÔ VŨ VĂN DUỆ
Đền Thánh kính thánh tử vì đạo Bênađô Vũ Văn Duệ tọa lạc tại làng Quần
hương, thị trấn Yên Định, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận
Bùi Chu, cách Hà nội khoảng 150 km. Yên Định là một thỊ trấn nhỏ, đẹp,
rất gọn gàng, đặc biệt đường quê ngõ xóm rất sạch. Ở đây gần biển nên
không khí ấm áp, trong lành dễ chiụ. Người dân sống chủ yếu nhờ nông
nghiệp. Bánh nhãn là đặc sản địa phương rất ngon và thơm. Quần Phương
là giáo xứ toàn tòng Công Giáo. Nhà thờ chính xứ ở giữa thị trấn. Giáo xứ
này là một trong ba giáo điểm (Quần Phương Đông Cường, Trà Lũ Phú Nhai
và Ninh Cường) trên quê hương Việt Nam được đón nhận Tin Mừng sớm
nhất, từ năm 1533. Đền Thánh Bênađô nằm sau nhà thờ xứ, cách khoảng
200m, trong một khuôn viên rộng ước khoảng 2000 mét vuông.
Ngoài tượng đài Cha Thánh rất lớn dựng ở bên ngoài, bên trong ngôi nhà
thờ rất cổ kính, khá bề thế đẹp, rất trang trọng và tôn nghiêm còn có bàn
thờ Cha Thánh. Phía trước tượng đài và cũng là trước đền thờ Cha Thánh
còn có một ngôi nhà 15m x 8m, cao chừng 5m, mái cong rất cổ, lợp ngói
ta vừa được tu sửa, quét mầu ghi sáng rất ấn tượng.
Chi tộc họ Vũ ở Quần Phương khá đông và hiện còn giữ được gia phả lập ngày
15-11-1785. Cha Thánh Bênađô là chi thứ hai, con cụ cố Vũ Hữu Quán. Trưởng
tộc hậu duệ hiện nay của Cha Thánh là Ông Vũ Hữu Ninh, 70 tuổi (năm 2010 -
sđt: 0350-377-5017). Ông cùng Ông Vũ Văn Đốc, 61 tuổi, trông nom đền Cha
Thánh (sđt: 0350-377-5577; 0169-980-188).
Hằng năm, Giáo xứ Quần Phương và hậu duệ Cha Thánh tổ chức giỗ ngài vào
ngày 1-8 dương lịch và giỗ chi tộc họ Vũ ở Đông Cường – Quần Anh vào ngày
15-11 âm lịch.
ĐƯỜNG VỀ LÊ XÁ – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHAOLÔ VŨ VĂN ĐỔNG
Thánh tử vì đạo Phaolô Vũ Văn Đổng là người làng Lê Xá. Vị thánh này có
người con trưởng làm linh mục tên là Dương nên thường gọi theo tên con
là Thánh Dương..
Về mặt xã hội, Lê Xá xưa kia cùng với thôn Cao Xá và thôn Bạn Lễ thuộc xã
Vực Đường. Vào thời Hậu Lê, để tiện bề cai trị, vua chia xã Vực Đường thành
3 xã có tên là: Lê Xá, Cao Xá và Bạn Lễ.
Về mặt tôn giáo, trước khi vua tách xã, Vực Đường là một họ đạo thuộc
xứ Cao Xá (nên hiểu Cao Xá này là tên của một xứ đạo thuộc Hưng
Yên, chứ không phải là thôn Cao Xá như mới nói ở trên). Giáo dân của
họ Vực Đường hầu hết sống ở thôn Lê Xá, nên sau khi tách xã, họ đạo
Vực Đường nằm gọn trong xã Lê Xá, còn lại hai xã kia chủ yếu là người
lương. Vì thế nói giáo họ Vực Đường hay giáo họ Lê Xá cũng là một.
Vào năm 1915, giáo xứ Cao xá được tách ra thành hai giáo xứ: Cao Xá
và Đan Chàng. Lúc đó, họ đạo Lê Xá (Vực Đường) thuộc vào xứ Đan
Chàng. Năm 1947, họ đạo Lê Xá được nâng lên là giáo xứ Lê Xá, và kể
từ đây tên gọi họ đạo Vực Đường biến mất.
Năm 1954, hầu như toàn bộ giáo xứ Lê Xá di cư vào Nam. Sau đó có
những gia đình gốc Lê Xá từ các vùng xung quanh quay về lại. Theo
niên giám 2004, hiện nay Lê Xá là một giáo xứ nhỏ, chỉ có 201 tín hữu,
thuộc xã Vũ Xá, huyện Kim Động (xưa là huyện Ân Thi), tỉnh Hưng
Yên, thuộc giáo phận Thái Bình – do cha xứ Ngọc Đồng quản nhiệm.
Đường về Lê Xá: Từ thành phố Phủ Lý, đi khoảng 10km về phía bắc sẽ
tới thị trấn Đồng Văn, lên cầu vượt, vào đường đi Hưng Yên và đi khoảng
8 km tới cầu Yên Lệnh, qua cầu là ngã tư Yên Lệnh, rẽ trái, đi khoảng
7 km, qua cả TP Hưng Yên tới giữa trung tâm thị trấn huyện Kim Động
gặp ngã ba cây xăng, rẽ phải (về xã Vũ Xá và Giáo xứ Lê Xá) đi
khoảng 5 km, nhìn bên trái sẽ thấy nhà thờ Giáo xứ Lê Xá. Nếu đi xe
buýt từ Hà Nội thì đón xe buýt số 209 (Giáp Bát - Hưng Yên).
Khuôn viên Nhà thờ Giáo xứ không rộng lắm. Nhà thờ trước kia lợp
ngói. Cột, dầm và kèo đều được làm bằng gỗ tốt, chạm trổ công phu
và mỹ thuật, nhưng qua bao biến cố lịch sử, và không được coi sóc
nhiều nên đã xuống cấp trầm trọng và đã được tu sửa 2004, lợp tôn.
Người chăm sóc nhà thờ hiện nay là ông Vũ Văn Cường,
sđt: 0321-3826-452).
Di cư vào Nam, phần đông giáo dân Lê Xá đến định cư tại Lạc An,
tỉnh Bình Dương, lập thành họ đạo Lê Xá thuộc giáo xứ Mỹ Vân
(Lạc An), giáo phận Phú Cường. Trên đường từ Hố Nai về Sài Gòn,
đến giáo xứ Hà Nội, theo đường Phát Triển, đi 12 km sẽ đến nhà
nguyện họ Lê Xa tại ấp 1, xã Lạc An, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Cuối nhà nguyện giáo họ có tượng đài Thánh Phaolô Vũ Văn Đổng.
Hằng năm, lễ mừng trọng thể được tổ chức cả ngoài Bắc và trong
Nam vào ngày 03-6, quy tụ bà con đồng hương khắp nơi về tham
dự mừng kính vị tử đạo này.
Hậu duệ Thánh Phaolô Vũ Văn Đổng:
Ô. Tôma Vũ Đức Tín, hiện ở Xuyên Mộc, sđt: 0643-877-663; 01627-101-314.
Ô. Tôma Vũ Trọng Tế, ở giáo xứ Thánh Tâm, Hố Nai, sđt: 0613-885-590.
Lm Tôma Vũ Khắc Minh, ở giáo phận Kontum,
sđt: 01679-984-138, 059-3864-399.
ĐƯỜNG VỀ THUẬN NGHĨA – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHÊRÔ VŨ ĐĂNG KHOA
Đền Thánh Khoa: Từ Hà Nội vào, qua khỏi km 405 gặp cầu Giát (thuộc thị trấn
Cầu Giát), đi thêm khoảng 500 mét, gặp đường rẽ bê tông phía tây, ranh giới
giữa khối phố 7 và khối phố 8, đó đường vào nhà thờ giáo xứ Thuận Nghĩa.
Đền Thánh Khoa ở sát cạnh nhà thờ. Đền thờ Thánh Khoa hiện nay được
xây cất năm 1992.
Hai bên đền thờ là hai khu đất nhỏ, nơi lưu giữ hài cốt và chôn cất các
linh mục đã phục vụ giáo xứ. Giữa cổng và Đền Thánh Khoa là những
hàng ghế để bà con giáo dân kính viếng Ngài.
Lễ giỗ ngày 24-11 hằng năm tại Thuận Nghĩa được tổ chức rất trọng thể,
rước và diễu hành đi rất xa vài ba cây số. Tại miền Nam: lễ giỗ được luân
phiên tổ chức tại các xứ có đông người gốc Thuận Nghĩa; cứ mười năm
một lần bà con xa xứ lại quy tụ về quê hương Thuận Nghĩa một lần
(năm 2010 là lần thứ hai).
Ông Vũ Đình Hòe, hậu duệ Cha Thánh năm nay 54 tuổi, hiện đang chăm sóc
đền Thánh Khoa. sđt: 038-3770318; 01655403308. Cũng có thể liên hệ với ông
Vũ Văn Sâm, sđt: 01638-687-376.
Từ Thuận Nghĩa phát xuất rất đông linh mục và tu sĩ nam nữ. Trong hàng
hậu duệ của Thánh Khoa có Lm Vũ Văn Trí, phó xứ Hiệp Đức, giáo phận Phan
Thiết, sđt: 0933-163-556; cha Nguyễn Duy Lam ofm (họ ngoại), sđt: 0937-893-885.
ĐƯỜNG VỀ CHUÔN TRUNG VÀ BÚT QUAI –
QUÊ HƯƠNG THÁNH LUCA VŨ BÁ LOAN
Thánh Luca Vũ Bá Loan sinh tại giáo họ Bút Quai, giáo xứ Bút Đông và an táng
tại thôn Chuôn Trung xã Chuyên Mỹ – Phú xuyên – Hà nội (Hà Tây cũ). Tại đây
có Đền và Nhà Thờ kính ngài.
Từ Hà Nội theo Quốc lộ số 1 xuôi về phía nam, tới km 38 hoặc 40, (có ba lối) rẽ
phải vào đường liên huyện, đi khoảng 6 km là tới đền Cha Thánh Luca.
Chuyên Mỹ là một xã nông nghiệp trù phú, nhộn nhịp vì có nghề làm đồ gỗ giả
cổ, chạm khảm lâu đời, rất uy tín. Dân toàn tòng Công Giáo, mộ đạo và rất tôn
kính Thánh Luca Vũ Bá Loan. Kẻ Chuôn gồm ba thôn Thượng, Trung và Hạ
cùng nằm ven sông Nhuệ. Trước khi Cha Luca chết, cả ba thôn đều đòi xin xác
cha về an táng. Cha đồng ý để cho Chuôn Trung lo. Họ chở xác Cha từ Cầu
Giấy về trên sông Nhuệ phải đi qua Chuôn Thượng. Đoán biết giáo dân Chuôn Thượng sẽ giữ di hài cha lại để chôn, họ tổ chức đi hai thuyền. Con thuyền
trống dong cờ mở mang áo quan nhưng bên trong không có di hài Cha
Thánh đi trước, bị giữ lại ở Chuôn Thượng. Còn con thuyền nhỏ lặng lẽ đi
sau đã đưa di hài Cha Luca về tới Chuôn Trung an toàn. Chuôn Trung ở giữa
nên cả hai thôn Thượng và Hạ đều có thể đến mộ, không xa.
Đền và Nhà thờ kính thánh Luca Vũ Bá Loan ở Chuôn Trung rất đẹp. Bàn thờ
bằng gỗ quý, được chạm trổ và gắn ngọc trai hồng, trang trọng và mỹ thuật.
Sau nhà thờ, trên tháp cao có tượng vị thánh tử đạo nhìn về hướng ngôi
Đền kính ngài. Đền được dựng giữa một hồ nước đường kính khoảng 60m,
với cây cầu nối xinh xắn. Đền xây hình lục giác, hai tầng mái cong, ở mỗi
cạnh được mở bằng 04 cánh cửa gỗ. Tượng Thánh Luca Vũ Bá Loan được
tạc bằng đá quý.
Sinh quán cha thánh Luca Vũ Bá Loan là thôn Bút Quai – Duy Tiên –
Hà Nam (thuộc Giáo xứ Bút Đông), cách Chuôn Trung 20 km về phía
tây nam. Ta trở lại Quốc lộ 1A, đi tiếp về phía nam, đến thị trấn
Đồng Văn, lên cầu vượt, rẽ trái vào đường sang Hưng Yên, khoảng
4km đến chợ Lương (chợ mở bên vệ đường) qua cầu Lương, là Giáo
họ Bút Quai, nhà thờ cách đó khoảng 800m.
Theo bà con ở Bút Quai, con cháu trực hệ Thánh Luca Vũ Bá Loan nay
không còn ai ở làng, chỉ vài người bà con họ ngoại rất xa của Cha Thánh
như vợ ông Trần văn Chiến, người đang coi sóc Nhà Thờ và Đền Thánh
ở đây. Ông đã 77 tuổi (2011 - sđt: 01696281890).
Bút Quai là một giáo họ nghèo. Đền Thờ Cha Thánh vừa được xây xong
tháng 6-2010 do giáo dân tại đây, giáo dân Chuôn Trung, khách hành
hương, và một số linh mục có liên hệ xa gần cùng góp sức xây dựng.
Hàng năm, giáo họ Bút Quai cũng như giáo dân Chuôn Trung cùng làm
lễ giỗ Thánh Luca Vũ Bá Loan vào ngày 5-6 dương lịch.
ĐƯỜNG VỀ TRUNG LAO – QUÊ HƯƠNG THÁNH ĐA MINH VŨ ĐÌNH TƯỚC
Từ Hà Nội muốn về Trung Lao, ta theo Quốc lộ 1, xuôi nam, qua Phủ Lý, tới
Nam Định, đi vào trung tâm thành phố, lên cầu Đò Quan, và từ Cầu này đến
thị trấn Cổ Lễ khoảng 20 km. Khi đến gần giữa thị trấn có một cây cầu nhỏ
bên phải, rộng và dài chừng vài ba mét gọi là cầu Điên Biên. Qua cầu này,
là vào phố Trung Đông – Trung Lao. Sau khoảng 1 km tới cây cầu thứ tư kể
từ cầu Điên Biên, rẽ trái là đền Cha Thánh Đa Minh Vũ Đình Tước. Đứng ở
trên cầu hay trên đường cũng nhin thấy được rất rõ.
Trung Lao là một giáo xứ lớn, có trên 8000 tín hữu với 10 Họ Đạo và 18 Xóm
Giáo (trong đó có xóm Tây Phong là nơi Thánh Tước Chào Đời và có xây
Nhà Nguyện kính Ngài). Nhà thờ xứ bằng gỗ, Bàn thờ sơn son thiếp vàng cổ
nhất Địa phận Bùi Chu, khởi công xây dựng cách đây 123 năm (1888-2011)
ngày nay vẫn còn trơ gan cùng tuế nguyệt. Ngày 1.1.2010 Đức Cha Giuse
Hoàng Văn Tiệm đã về xứ đạo nâng Nhà thờ Lên Đền Thánh với Tước Hiệu
Maria Mẹ Thiên Chúa. tại toà vàng trong Thánh Đuờng có Tương Thánh
Tước bằng gỗ qúy to cao 2m50 được thực hiện cách nay cả 100 năm, Đế
tượng có hộp dựng xương của Ngài. Ngoài ra trong khuôn viên khu vực
nhà thờ còn có Đài Tưởng niệm với tượng Thánh Tước đúc bằng đồng,
uy nghi đứng bên cạnh Nhà Truyền thống của Giáo Xứ. Tại Trung Lao có
rất đông người họ Vũ, rất mộ đạo và cũng rất sùng kính các Thánh tử đạo,
trong đó có Thánh Đa Minh Vũ Đình Tước. Người đang coi sóc đền Thánh
Tước là ông Vũ Đình Hàm (sđt: 0165232176), Theo ông Hàm, ở Trung Lao
hiện có hơn 200 người theo đuổi ơn gọi tại các chủng viện và dòng tu trên
toàn quốc.
Hằng năm, bà con Trung Lao tổ chức lễ giỗ Cha Thánh Đa Minh vào ngày
19/6 dương lịch, tổ chức rất trang trọng. Khách hành hương và khách mời
rất đông. Đây là ngày lễ đông vui nhất trong năm ở Trung Lao.
Trung Lao là một giáo xứ sầm uất, nhôn nhịp và trù phú. Đa số dân làm nông,
một số người đóng đồ gỗ, khắc và chạm khảm tinh vi. Tại quê nhà cũng như
khi đi làm ăn xa, giáo dân Trung Lao sống có tổ chức, đoàn kết, biết chia sẻ
và giúp đỡ lẫn nhau.
Còn về dòng tộc của Cha Thánh Đa Minh tại Trung Lao hiện có các ông
Vinh Sơn Vũ Đình Sơn và Vinh Sơn Vũ Đình Sản, sđt: 01697149155. Cha
Giuse Vũ Thanh Cảnh - Chính xứ Nam Định. TP Nam Định, sđt: 090 326 3902.
Muốn tìm hiểu rõ hơn, xin mời vào trang Giới trẻ Đồng Hương Trung Lao:
http://gioitretrunglao.webnode.com.
ĐƯỜNG VỀ HÀ THẠCH – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHÊRÔ VŨ TRUẬT
Thầy giảng Phêrô Vũ Truật là vị Thánh tử đạo duy nhất của Giáo phận Hưng
Hóa, quê tại giáo xứ Hà Thạch. Giáo phận Hưng hóa nằm phần lớn ở trung
du, miền núi Bắc bộ đất đỏ. Giáo xứ Hà Thạch thuộc góc đông nam Thị xã
Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ; sát đường tỉnh lộ 320, ven bờ sông Hồng. Hiện tại
giáo xứ này có đền kính thánh Phêrô Vũ Truật. Tượng đài và đền thánh tọa
lạc trên một khu đất rộng. Đền thánh được khởi công xây dựng ngày
18-12-1997, do linh mục Phêrô Phùng Văn Tôn, và được Đức Hồng Y
Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng cắt băng khánh thành, dâng lễ làm phép
đền và tượng, ngày 18-12-1998.
Hậu duệ của Thầy Thánh Phêrô Vũ Truật hiện còn hai chi. Chi gần nhất là
Ô Giuse Vũ Hữu Dụng, sinh năm 1947 (sđt: 0121-3714-358). Ông là hậu
duệ 6 đời của Thầy Thánh Truật. Còn 01 chi nữa ở cách Đền Thánh 6km,
vì lý do kinh tế nên chi này đã bỏ họ Vũ sang họ Nguyễn nhưng vẫn tụ họp
ngày giỗ Thầy Thánh Truật vào 18-12 hàng năm. Trước kia bà con ở đây
còn giữ được ảnh chân dung Thánh Truật, có hai dòng chữ nho chạy dọc
hai bên. Hiện nay bà con đồng hương Hà Thạch, trong nước và hải ngoại,
một số nơi còn giữ được di ảnh.
LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ - Chia sẻ 14
PHONG TRÀO LIÊN KẾT DÒNG HỌ
Cuộc kỷ niệm 50 năm huấn thị Plane compertum est là dịp để người Công
Giáo Việt Nam hòa nhịp với trào lưu chung khắp nơi. Sau ngày đất nước
thống nhất, biết bao người lặn lội tìm lại tông tích người thân, bà con họ
hàng và tìm lại gia phả. Đầu những năm 1990, nhiều ban liên lạc dòng họ ra
đời và các cuộc gặp gỡ ngày càng nở rộ. Thoạt đầu là những nhóm liên lạc
ở các thành phố lớn. Mấy năm sau những ban liên lạc địa phương đã nối kết
với nhau thành ban liên lạc cả nước, rồi tiến đến thành lập Hội Đồng Dòng Họ
cả nước. Ngày càng nhiều những đại hội toàn quốc của các dòng họ, có dòng
họ còn phát hành cả thẻ hội viên...
Cùng lúc, trước tình cảnh việc học sa sút, nhiều gia tộc đã tổ chức việc
khuyến học cho con em; nhiều từ đường được tôn tạo hoặc xây mới; nhiều
tác phẩm nghiên cứu riêng về từng dòng họ được ấn hành. Những sự kiện
từ dưới lên đã cộng hưởng với các ban liên lạc hoặc Hội đồng Dòng tộc từ
trên xuống, tạo nên một luồng văn hóa lôi cuốn cả sự chú ý của tổ chức
UNESCO.
Vào Google và gõ: "gia phả - dòng họ - nguồn cội", chỉ trong 6 trang, ta đã
đọc thấy 18 trang web riêng của các dòng họ:
trinhtoc.com,hovuvovietnam.com,donghoninh.wordpress.com,nguyendac.com,
hophamlangnhuong.com,hodinhvietnam.com,hothaicamlo.info,
hodangbinhnghi.com,hodovietnam.vn,hohoanghuynhvietnam.vn,
hopham.org,mactoc.com,hokhuatvietnam.org,hothan.org,danggia.org,
hotvietnam.org,dangtocvietnam.com,trandang.net
Ngoài những trang web riêng các dòng họ, có những trang web chuyên
đề nghiên cứu về gia phả hoặc lo dịch vụ làm gia phả: www.giaphavietnam.com,
www.phahe.vn,vanhoadongho.vn,...
Ta có thể gõ tìm "nguồn gốc họ... " và dễ dàng tìm được thông tin của cả
những họ ít gặp như họ Trình, họ Lữ, họ Lại, họ Thân, họ Kiều...
Gõ "ban liên lạc (các) dòng họ" hoặc "đại hội dòng họ...", ta còn khám phá
ra rằng việc liên kết các họ tộc không dừng lại trên các phương tiện thông
tin mà còn đi vào hoạt động thực tế khá rầm rộ.
Phong trào liên kết dòng họ phát triển hết sức nhanh. Mở trang mạng một
dòng họ nào đó và bấm vào “kết nối” hoặc “liên kết”, ta sẽ thấy mỗi dòng
họ không phải chỉ có một website… Đọc thử một số thông tin, ta sẽ thấy
chỉ dăm tháng sau đại hội dòng họ cấp tỉnh một nơi nào đó, các đại hội cấp
thành phố, huyện và thị xã đã nối đuôi theo.
Phong trào có một ưu điểm là vượt trên ranh giới địa phương, không phân
biệt lương giáo. Nếu người Công Giáo biết quan tâm nhập cuộc thì đây là
cơ hội rất tốt để hòa đồng với bà con cùng dòng họ.
Phong trào này thúc đẩy người ta tìm dựng lại gia phả, lập lại từ đường,
tổ chức lại các ngày giỗ chung (ở miền Trung gọi là "tế hiệp"). Một số bà
con ở thôn quê cảm thấy an tâm vì giờ đây đã có một chỗ dựa, đã được
thuộc về một tổ chức sinh hoạt văn hóa, vừa mang tính huyết tộc, vừa
mang tính tâm linh. Cũng có thể vì thế họ thấy không cần phải có một tôn
giáo... Đây cũng là điểm đáng cho các giới chức Công Giáo suy nghĩ khi
theo đuổi ước mơ chia sẻ Tin mừng với đồng bào.
Số nhà thờ dòng họ tân tạo ngày càng nhiều (“nhà thờ” là một kiến trúc
biệt lập, dành riêng cho việc thờ phụng, phân biệt với “từ đường” là gian
thờ trong nhà vị trưởng tộc, thường có tính cách hạn hẹp trong vòng ba
hay bốn đời). Trên địa bàn tỉnh Bình Định, từ đầu năm đến giữa tháng
10-2013, chỉ riêng dòng họ Võ đã có thêm ba nhà thờ mới, hai do bà con
góp sức chung công, một do những người khá giả trong gia tộc… Cùng lúc,
có những nhóm đồng tộc nghèo và ít người, không sao làm nổi nhà thờ
riêng. Có lẽ chính cái nghèo ấy đang biến họ thành đối tượng của lòng
thương xót Chúa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước
Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Chính Thiên Chúa là Cha nhân ái
đang dành cho họ một mái nhà chung, nhà thờ hay từ đường trăm họ,
nơi Ngài quy tụ dân nghèo của Ngài.
Trào lưu văn hóa tâm linh này còn song đôi với sự bùng phát những tin
tưởng về phong thủy, dễ khiến người lương thêm khép lòng lại với Tin
mừng. Ngược lại, nó cũng ôm theo cả những mâu thuẫn, khiến người ta
lúng túng. Nếu người Công Giáo biết dấn thân nhập cuộc kịp thời thì đây
lại có thể thành một cơ hội mới của Tin mừng, cơ hội để truyền giảng cho
mọi người nhận ra chỉ có một Thiên Chúa là Cha Chung, là Nguồn Cội đích
thật duy nhất.
LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ - Chia sẻ 15
CƠ HỘI CHIA SẺ LÒNG TIN
Ngày truyền thống từng dòng tộc tại mỗi giáo xứ sẽ tạo cơ hội để tập thể
đồng tộc Công Giáo tìm hiểu lòng tin và mối chân tình của tập thể đồng
tộc ngoài Công Giáo đối với Tổ tiên, và cũng là cơ hội để chia sẻ lòng tin
với họ. Những cố gắng cá nhân dễ rơi vào mỏi mệt, nhưng khi biến thành
ý chí tập thể, sẽ trở nên bền bỉ lâu dài. Giữa một xã hội nhiều sức ép, việc
từng người tiếp nhận đức tin lắm ngại ngùng, khi đức tin được những
người thân cùng chia sẻ, sẽ đầy sức mạnh.
Nếu tại giáo xứ, dòng họ nào cũng cử hành một ngày truyền thống dòng
họ mình, người Công Giáo sẽ có nhiều cơ hội để gặp gỡ các đồng tộc ngoài
Công Giáo và giúp họ gần gũi với giáo lý Đạo Chúa. Đó cũng là cách thiết
thực để đền ơn đáp nghĩa Tổ Tiên.
Thật vậy, tổ phụ các dòng họ tại Việt Nam, tổ phụ Abraham hay tổ phụ
Giacóp của người Do Thái, hoặc bất cứ tổ phụ nhân loại nào khác cũng
chỉ là những hình ảnh giúp con cháu hướng về nguồn cội cuối cùng là
chính Thiên Chúa Tạo Hóa, là Cha chung tất cả mọi người.
Lòng tin của người Công Giáo và của anh chị em lương dân nhiều điểm
thoạt nhìn có vẻ giống nhau nhưng thực ra vẫn khác biệt rất tinh vi. Ví
dụ niềm tin rằng tổ tiên từ bao đời vẫn đang anh linh phù hộ cho con
cháu. Người Công Giáo hiểu sự phù hộ này theo nghĩa Tổ Tiên chuyển
cầu cho con cháu trước Tòa Thiên Chúa. Mỗi ngày ta đón nhận biết bao
ơn lành Thiên Chúa, từ cơm ăn, nước uống, khí thở, ánh sáng mặt trời
cho đến sức khỏe, trí khôn, tình yêu và tự do; cả tiền bạc vật chất cũng
là ơn lành của chính Thiên Chúa Tạo Hóa; Ngài ban tất cả cho ta làm
phương tiện để đáp lại tình thương của Ngài mà sống cho nên người như
Ngài muốn. Tổ tiên xưa ăn ngay ở lành là nhờ ơn Chúa và nay đang linh
hiển hộ phù con cháu cũng là nhờ ơn Chúa. Thử nghĩ xem, mai kia chúng
ta chết đi và mốt nọ cháu con ta thắp hương khẩn cầu chúng ta phù hộ,
chúng ta sẽ lấy quyền phép nào và lấy từ kho tàng nào để trợ giúp chúng,
nếu không phải là lúc ấy chính chúng ta sẽ chuyển cầu cho chúng trước
mặt Cha trên trời để Ngài ban ơn phúc cho chúng? Người ta quên rằng
chính Thiên Chúa Tạo Hóa đã xét xử và thưởng phạt mọi thế hệ tổ tiên.
Chỉ những tổ tiên nào đang được hưởng phúc với Thiên Chúa thì mới có
khả năng chuyển cầu cho con cháu trước thánh nhan Ngài.
Do mê tín, người ta thêu dệt hình ảnh một thế giới vô hình theo mẫu thế
giới hữu hình: mỗi dòng họ có châu quận riêng, chết rồi ai về châu quận
nấy. Quyển Lịch Vạn Niên bên Tàu liệt kê 510 châu quận ở thế giới bên
kia, chỉ gồm toàn những địa danh bên Tàu, vậy thì người Lào, người
Campuchia, người Úc, người Phi, người Mỹ chết rồi đi đâu? Ngay cả
người Tàu, chết rồi sẽ về châu quận của cha hay của mẹ? Rồi những
người đã cải từ họ này sang họ khác, sẽ đi về đâu? Những chuyện ấy
chẳng khác nào câu hỏi lẩm cẩm của nhóm Sađốc xưa về chuyện dựng
vợ gả chồng bên kia thế giới (x. Mt 22,23-33).
Quỷ dữ hết sức tinh quái. Xưa nó đã dám dùng lời Kinh Thánh để tìm
cách dẫn dụ Chúa Giêsu rời xa ý muốn của Thiên Chúa Cha (x. Mt 4,6).
Nay nó cũng dùng đủ các chiêu bài hết sức tốt lành để dẫn dụ người ta
chối bỏ Thiên Chúa là Cha Chung. Trên đường làm công tác nối kết
Dòng họ, tôi được biết không ít những chuyện đau buồn khá giống
nhau. Có những nơi hầu hết bà con đồng tộc đều tập trung sum họp
trong ngày tế hiệp nhưng riêng một nhóm nào đó, dù có liên hệ gia phả
rất rõ và rất gần, vẫn không chịu về. Vì một lý do nào đó, ba bốn đời
trước đây, người đứng đầu nhánh ấy đã tự tách ra, chẳng những không
còn về tế hiệp mà còn lưu truyền cho con cháu những lý giải thiếu trung
thực, đáng buồn, vẽ nên hình ảnh không đẹp về gốc tổ. Ở một chừng
mực nào đó, khi chỉ quan tâm tới những bậc Tổ tiên mươi đời trở lại
đây mà lãng quên Nguồn Cội đích thật và đời đời, người ta cũng đang
theo đuổi một sự chia cắt đáng buồn như thế.
Trực giác về sự "quy tiên" (chết là về với tổ tiên nguồn cội) sẽ rực sáng
lên khi người ta nhận biết Đấng Tối Cao là cội nguồn cuối cùng, duy
nhất và đích thực, đồng thời cũng là đích điểm cuối cùng mọi loài phải
vươn tới. Mọi thế hệ tổ tiên đều đã, và mọi thế hệ con cháu đều sẽ trở
về với nguồn cội cao nhất, từ đó loài người đã phát xuất ra (x. Ga 13,3).
Chỉ một mình nguồn cội ấy, chỉ một mình Thiên Chúa Chí Thánh, mới
đáng cho ta yêu kính hết dạ hết lòng và nhiệt thành phụng sự đến hy
sinh mạng sống. Mọi thụ tạo, cá nhân cũng như tập thể, đều có thể
khiến những kẻ dấn thân phụng sự nó bị vỡ mộng, chỉ một mình Thiên
Chúa mới hoàn toàn trung tín, không để cho kẻ tin thờ Ngài phải thất
vọng bao giờ.
Những hạn chế về gia phả sẽ giúp ta vượt khỏi tầm mức bé nhỏ cục
bộ để vươn tới tình huynh đệ đại đồng... Những hạn chế trên đường về
nguồn cội sẽ thức tỉnh ta hướng về cội nguồn cuối cùng và đích thật.
LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ - Chia sẻ 16
NHỮNG CỘI NGUỒN ẢO
Tuần Thánh năm 2010, tôi được đi thăm huyện đảo Lý Sơn. Những bia
mộ ở đây có một nét đặc biệt. Tất cả các mộ họ Võ dù thuộc nhánh nào
cũng bắt đầu bằng ba chữ “Thái Nguyên Quận”. Họ Nguyễn là “Trần
Lưu Quận”, họ Bùi là “Hà Đông Quận”, họ Trần là “Vĩnh Xuyên Quận”,
họ Trương là “Thanh Hà Quận”, họ Dương là “Hoàng Nông Quận”, họ
Lê là “Kinh Triệu Quận” và họ Phạm là “Cao Bình Quận”. Phần đông
cư dân trên đảo cho rằng đó là tên những châu quận trên đất liền mà
các dòng họ này phát xuất. Tôi rất ngạc nhiên vì một vài địa danh rất
lạ, mới được nghe lần đầu, và vì không có thời nào trong lịch sử đất
nước đã được trực tiếp chia thành quận thay vì tỉnh. Khi đến thăm
chùa Từ Quang ở An Hải, tôi nêu câu hỏi và thầy Thích Hành Hỷ đã
cho một câu trả lời khá thỏa đáng. Theo thầy, việc ghi châu quận
như thế chỉ áp dụng cho người chết chứ không cho người sống.
Tập tục này được ghi trong quyển Lịch Vạn Niên. Một phụ lục của
quyển này liệt kê 510 dòng họ, mỗi dòng họ có kèm theo tên một
châu quận và một số dòng họ có chung châu quận. Người ta hình
dung địa lý cõi âm có nhiều châu quận khác nhau, khi sống người
ta có thể trôi dạt bất cứ đâu trên trái đất, nhưng khi chết thì ai về
châu quận nấy. Như thế, ba chữ “Thái Nguyên Quận” trên bia mộ
người họ Võ không phải là địa chỉ xuất phát nhưng là địa chỉ đến.
Tôi đã có dịp đến thăm cụ Vũ Hiệp tại tư gia ở đường Lý Tự Trọng,
quận I. Là một nhà nghiên cứu nổi tiếng về gia phả và các dòng họ
Việt Nam. Theo cụ, gốc gác 510 dòng họ trước khi được xem như
bản đồ địa lý cõi âm, thì đã là tư liệu địa lý nhân văn có thật tại Trung
Quốc. Cụ cũng đồng thời lưu ý rằng việc gán ghép các dòng họ Việt
Nam vào những nguồn gốc ấy của Trung Quốc là chuyện cần xét lại.
Trước thời Bắc thuộc, tên gọi của người Việt giản dị như của đồng bào
các sắc tộc ít người hiện nay, thường gồm một từ để chỉ nam hay nữ
và một từ chỉ là tên gọi. Ngay cả nơi tên hai bà Trưng thì chữ Trưng
không phải là tên một dòng họ (ngoài hai bà, ta không gặp một nhân
vật nào khác có chữ Trưng đi trước tên gọi) mà chỉ là tên của làng
Chưng, một làng sống bằng nghề chưng kén, kéo tơ, dệt lụa. Kén
nhất được gọi là kén Trắc, kén hạng hai được gọi là kén Nhì hay
khén Nhị. Như thế, Trưng Trắc có nghĩa là cô Nhất ở làng Chưng và
Trưng Nhị là cô Nhị ở làng Chưng.
Theo ông Vũ Hiệp, do nhu cầu quản lý nhân khẩu để đô hộ, người Tàu
đã bắt người Việt phải đi vào một hệ thống dòng họ. Do những điều
kiện cụ thể từng nơi, từng thời điểm, người dân ở một khu vực nào
đó được ghép vào một số dòng họ nhất định nào đó. Sự kiện này cũng
đã xảy ra đối với một số cộng đồng sắc tộc ít người, chẳng hạn nơi
thông tin sau đây trên trang Văn Hóa Học:
“Các dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi vốn có tên mà không có họ, vì
thế không có thuật ngữ riêng để chỉ dòng họ. Mỗi người có tên gọi
riêng và kèm theo đó là một bổ ngữ chỉ giới tính…
Vào thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc, để dễ theo dõi hộ tịch, hộ khẩu
và số đinh trong các làng nóc miền núi Quảng Ngãi, các dân tộc miền
núi trong tỉnh đều được đặt họ Đinh (theo họ cha), tức có nghĩa là
thằng, đứa (con trai), dần dần con gái cũng theo họ cha mà ghi trong
hộ tịch, hộ khẩu, hoặc kê khai đi học là họ Đinh (8).
Năm 1969, khi Bác Hồ mất, hầu hết người Cor ở Trà Bồng đổi sang
họ Hồ. Số đông người Hrê ở Ba Tơ lấy họ Phạm (họ của đồng chí
Phạm Văn Đồng), phần lớn đồng bào người Hrê ở Sơn Hà, Minh
Long, đồng bào Ca Dong ở Sơn Tây vẫn còn giữ họ Đinh.”
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-to
-chuc-doi-song-tap-the/2284-quan-he-gia-dinh-lang-xom-cua-nguoi
-quang-ngai.html
Trường hợp họ Vũ Võ lúc đầu cũng thế. Bàn về ông Vũ Hồn (804-853),
người được coi là thủy tổ họ Vũ-Võ tại Việt Nam, cụ Vũ Hiệp nêu một
nhận xét lý thú rằng cả gia phả, tộc phả và thần phả đều không nói Vũ
Hồn có một người con nào. Tác giả Tiến sĩ Vũ Huy Thuận, trong bài
“Giới thiệu sách cổ văn hoá làng Mộ Trạch” (http://hovuvovietnam.
com/ Gioi-thieu-sach-co-van-hoa-lang-Mo-Trach) cũng có viết: “Ngọc
phả làng Mộ Trạch kể lại rằng: Cụ Vũ Hồn (804-853) sau khi từ quan
(843-844) đã đến nơi đây lập trang trại đặt tên là “Khả Mộ trang”...
Khi cụ mất (853), dân Khả Mộ trang lập miếu thờ cụ như vị sáng lập
thôn Khả Mộ (đến triều Trần 1226 được đổi tên là Mộ Trạch). Để tưởng
nhớ công lao của cụ, dân trong làng đều mang họ của cụ. Họ Vũ. Cũng
từ đó, Cụ không chỉ được thờ như vị thành hoàng làng, mà còn được
coi là thủy tổ họ Vũ Mộ Trạch.”
Gần đây người ta phát hiện ra đền thờ hai nhân vật họ Vũ sống nhiều
thế kỷ trước ông Vũ Hồn: đền thờ bà Vũ Thị Thục, nữ tướng của Hai Bà
Trưng và đền thờ nhà giáo Vũ Thê Lang, được cho là của thời Hùng
Vương. Dù vậy ông Vũ Hồn vẫn được đa số người họ Vũ-Võ ngày nay
dành cho danh hiệu thủy tổ họ Vũ-Võ ở Việt Nam, và theo tôi, điều ấy
chính đáng, bởi một lẽ duy nhất là đại chúng đương thời đã vì cảm
mến ông mà cải sang họ Vũ-Võ, coi ông như tổ phụ.
Có những người gốc họ Võ nhưng nhiều thế hệ qua đã mang một họ
khác. Lại cũng có những người mang họ Võ nhưng thật ra là từ một
dòng họ khác cải sang. Việc khám phá ra chuyện cải họ có thể khiến
nhiều người bị hụt hẫng. Khi hoàn thành bài viết về họ Võ tỉnh Phú
Yên, trong đó có thông tin về một nhánh họ Võ ở xã Hòa Thắng trước
kia là họ Lê, tôi gởi cho một người con gái nhánh này xem. Cô hồi âm
cho tôi như sau:
“Chào bác ! Con đã đọc bài viết về họ Võ mà bác đã trải qua không ít
công sức để truy tìm về cội nguồn của dòng họ Võ. Con thật sự bất
ngờ về một sự thật mà lâu nay con thuộc thế hệ trẻ nên không biết
được, đó là con thuộc về nguồn gốc họ Lê chứ không phải họ Võ.
Điều này làm con có một chút ngậm ngùi.
Trong ý nghĩ của con lại đặt ra một dấu hỏi.
Quá khứ của lịch sử là một sự bí ẩn chưa có sự khẳng định nhất định.
Ví như trước thời ông Cao tổ của con thuộc về dòng họ Lê, vậy các
đời trước hơn nữa liệu các cụ cao tổ thuộc về họ gì ? và những biến
đổi của nó như thế nào ? điều này làm con phân vân. Nhưng rồi con
suy nghĩ rằng dù con mang dòng họ nào thì con vẫn biết ơn các cụ
tổ đã sáng lập ra các dòng họ để con cháu ngày nay được mang tên
dòng họ của các cụ lưu truyền lại. Và điều này đã làm con cảm thấy
vui bác à, con mong rằng sau này con sẽ có nhiều cơ hội được hiểu
về nguồn gốc đích thực của các cụ tổ mà hiện đang là một dấu hỏi
rất lớn trong suy nghĩ của con bác ạ!.
Cảm ơn bác nhiều lắm.
Con chúc bác có nhiều cơ duyên hơn nữa để tìm về cội nguồn nơi
đích thực vẫn còn là một sự bí ẩn.
Chúc bác luôn sức khỏe và an lành.
Võ Thị Kim Đoan (sđt: 0988-234-828)
Nữ độc giả của tôi là một Phật tử ăn chay trường, nên sớm nhận ra ngay mọi
sự đều vô thường và tương đối. Tôi muốn nói thêm với cô rằng, khi phải giấu
họ Lê, ông Cao của cô đã chọn họ Võ chứ không phải một họ nào khác, hẳn
là do ông cảm kích lòng tốt của một vài người họ Võ nào đó. Tương tự, nếu
có người họ Võ nào đó phải thay tên đổi họ và đã chọn họ Lê chứ không phải
họ khác, thì chắc hẳn vì ông thấy người họ Lê đáng mến. Nếu các vị tổ phụ
nhân loại hướng lòng ta đến vị Cha Chung trên trời thì những thực tế về quan
hệ họ hàng máu mủ dẫn ta đến cảm nghiệm anh em bốn biển một nhà. Điều
thứ hai này bắt nguồn từ điều thứ nhất: Mọi người trên thế giới không thể là
anh em với nhau nếu không có chung một người Cha.
Chúng ta đọc thấy trên nhiều bia mộ cụm từ sau đây: “Mộ thủy tổ họ…”,
“Mộ cao tổ họ…”. Vị nằm ở đó được coi là “thủy tổ” nhưng người ta không
biết tên, mặc dù có khi chỉ là người sống cuối thế kỷ XIX. Gia tộc phía nội
tôi cũng nằm trong trường hợp này, vị tổ khuyết danh sống vào giữa thế
kỷ XIX. Việc truy tìm thủy tổ một dòng họ quả là chuyện mịt mờ vô vọng
nhưng cũng có cái hay là đánh thức nơi mọi người mối bận tâm đi tìm
nguồn cội đích thực và cuối cùng của nhân loại là chính Thiên Chúa Tạo Hóa.
Hiểu như thế, ta sẽ tiến tới một thái độ trung dung về vấn đề gia phả. Một
đàng, ta tâm đắc với lời Thánh Phaolô dạy ở đầu thư thứ nhất gửi cho Timôthê:
“Đừng chú ý đến những chuyện hoang đường và những gia phả dài dòng;
những cái đó chỉ gây ra tranh luận, chứ không đóng góp vào kế hoạch của
Thiên Chúa mà đức tin cho chúng ta biết” (1Tm 1,4). Một đàng, vì ích lợi giáo
dục, ta sẽ cổ võ đồng tộc và đồng đạo xây dựng lại bản gia phả giới hạn với
những bậc Tổ Tiên hiện còn biết được, bởi lẽ đây là một công việc mang tính
sư phạm, có tiềm năng đóng góp vào sự phục hồi tấm “lòng lành”, cõi lòng
hướng thiện cho thế hệ trẻ giữa dòng cuồng lưu của sự suy đồi đạo lý.
Trong bài tiếp sau về “tâm tư của người loan Tin mừng cho người cùng
dòng họ”, tôi sẽ chia sẻ thêm về điều ấy...
Lm TRĂNG THẬP TỰ VÕ TÁ KHÁNH