Giải viết văn đường trường 2013
Lm. Trăng Thập Tự
NGÀY NĂM ĐỨC TIN CỦA GIỚI CẦM BÚT
Chúng tôi xin gửi đến quý Ban Biên Tập và độc giả bốn phương bản tin số 5.
Giải Viết Văn Đường Trường tổ chức trao giải 6 năm liền (2013-2018) cho những truyện ngắn có nội dung Kitô giáo và ấn hành giới thiệu các tuyển tập truyện ngắn cho các tác giả đạt giải. Những truyện ngắn lần này….
Lễ trao giải năm nay sẽ trùng vào ngày năm đức tin của giới cầm bút tại giáo phận Qui Nhơn, tối 21-9-2013. Thân ái mời tất cả những tác giả có gửi bài dự thi cùng tham gia buổi trao giải và hôm sau, 22-9, dự sinh hoạt dã ngoại thăm trại phong Qui Hòa nhân kỷ niệm ngày sinh nhật nhà thơ Hàn Mạc Tử.
Với hạn chót nhận bài 15-4-2013, chỉ còn vài tuần vắn vỏi, xin quý tác giả gửi bài về sớm. Những ai chưa rõ thể lệ, xin mời xem:
- Bản Thể Lệ Giải Viết Văn Đường Trường
- Chương trình tìm kiếm và xây dựng tài năng văn xuôi cho văn học công giáo
tại http://gpquinhon.org/qn/news/viet-van/
Chúng tôi ước mong quý vị giúp giới thiệu chương trình này rộng rãi để có thêm nhiều bạn trẻ dự thi.
Cũng vào đoạn cuối của chương trình, chúng tôi xin có đôi lời tâm sự. Giải Viết Văn Đường Trường do Ban mục vụ Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn đứng tổ chức. Tuy nhiên trong thực chất, chúng tôi không có một ngân quỹ nào. Cho đến lúc phát đi bản tin số 5 này, chúng tôi chưa nhận được bất cứ một khoản tiền lớn hay nhỏ của bất cứ ai dành cho Giải Viết Văn này (cả giải thưởng Văn thơ Linh mục Đặng Đức Tuấn lần thứ IV, dành cho các học sinh giáo lý thuộc giáo phận Qui Nhơn, sẽ hết hạn nhận bài vào 15-4-2013 này, cũng thế, mời xem tại http://gpquinhon.org/qn/news/dang-duc-tuan/). Chúng tôi noi gương những vị xây nhà thờ, cứ lên chương trình và thực hiện, rồi phó mặc tất cả cho sự quan phòng của Thiên Chúa và lòng tốt của mọi người. Không có những linh mục liều mạng thì không có nhà thờ. Trong việc xây nhà văn hóa, tìm kiếm và đào tạo nhân tài cho Giáo hội Việt Nam cũng thế, phải đánh liều mới mong gặt hái được cho Giáo hội một đôi hoa quả.
Trong tâm tình biết ơn những người giúp đỡ tinh thần và vật chất cho các chương trình truyền giáo tại Giáo phận Qui Nhơn, từ bốn năm nay tôi vẫn dành và đang tiếp tục dành thánh lễ mỗi ngày Thứ Bảy để cầu nguyện cho quý ân nhân xa gần và các đẳng linh hồn bị bỏ rơi. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho tình hiệp thông và sự cộng tác của các con cái Ngài trên đường loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.
Quy Nhơn, 21-3-2013
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
Tòa Giám Mục Qui Nhơn
116 Trần Hưng Đạo, Tp Qui Nhơn
ĐTDĐ: 0935-424-449; gopnhattho@yahoo.com
BÀI DỰ THI
Mã số 13-021
MỘT BUỔI TỐI TRỜI
Tiết trời miền Nam tháng cuối năm thật khó chịu, buổi sáng rơm rớm nắng, chiều tối lại se se lạnh, nhưng thật lạ là cái se lạnh ấy hòa với không khí những ngày này lại tạo nên sự nôn nao, vui vui trong lòng những giáo dân xứ nhà. Họ như đang chờ đợi một điều - một niềm vui. Một niềm vui mà cả người lớn, trẻ em, những đôi lứa đang yêu nhau và kể cả những người ngoại giáo cũng đang trông chờ. Một niềm vui kéo mọi người lại gần với nhau hơn qua những lời chúc hạnh phúc và an lành. Mọi người cố gắng hoàn thành những công việc của mình một cách vội vã để có thể yên lòng an hưởng trọn vẹn niềm vui này. Chị Liên cũng thế. Chị đã giao chuyến hàng cuối cùng trong ngày, cố gắng không để tồn đọng qua ngày mai. Đạp xe chầm chậm ngang qua và cúi chào tượng Đức Mẹ trên đài của nhà thờ xứ mình, chị mỉm cười. Khung cảnh sao rộn ràng thế, nào là hoa, nào là những bông tuyết, những dây đèn, dây cờ nhiều màu sắc, các ông phục vụ hội đồng giáo xứ đang tất bật làm hang đá, trang trí cây thông, giăng mắc đèn màu để chuẩn bị cho đại lễ vì chỉ vỏn vẹn hai tuần nữa thôi là đến đêm Giáng Sinh.
Những hình ảnh ấy quyện với âm điệu của bản nhạc Jingle bell mà một nhà nào đó trong xóm đạo mở máy hát đã gợi nhớ trong chị những ký ức xưa. Như mới ngày hôm qua thôi, nhớ ngày ấy mấy chị em háo hức mong cho mau đến lễ Chúa Giáng Sinh để cùng nhau ríu rít kiếm giấy, chặt cây khô làm hang đá Chúa Hài Đồng. Những bức tượng nho nhỏ, xinh xinh mà chị em có được là do dành dụm tiền quà mà mẹ phát cho mỗi sáng. Cô bé Liên của ngày ấy thích thú ngắm nhìn hang đá do chính tay mấy chị em làm, bên ngoài là cành cây khô phủ những hạt tuyết li ti, bên trong là Chúa Hài Đồng nhỏ bé nằm trong nôi xinh, xung quanh là những cọng rơm vàng được lót tỉ mỉ; Đức Mẹ Mari và Cha Thánh Giuse đang quỳ chắp tay cung kính; lại còn có cả ba Vua, nhất là tượng ông vua da đen mà chị Liên vẫn còn giữ cho tới tận bây giờ. Chị còn nhớ, những dây kim tuyến óng ánh đủ màu sắc là do chị hai Tâm mua về trang trí cho hang đá nhỏ cùng với những chú chiên con con nữa chứ. Con bé Út Vân, do em bị bệnh không giúp được mấy chị nhưng em cũng hay quấn quýt ở bên và luôn miệng xuýt xoa: “Chúa Hài Đồng dễ thương quá… Đức Mẹ đẹp quá… em thích dây màu đỏ này… thích cả màu xanh nữa… chị Liên ơi… cho em sợi đây màu vàng nhé…” và chị cười cho cái cảm giác âm ấp khi mấy chị em xum vầy.
Nhưng rồi, những hồi ức đẹp ấy vụt tắt, chị thở dài nghĩ đến cảnh gia đình chị em mình hiện giờ. Những dòng suy nghĩ tuôn chảy trong chị, chị về đến nhà tự lúc nào mà không hay, uể oải dắt chiếc xe đạp vào sân nhà, bước vào nhà trong bằng những bước chân nặng nề, mệt nhọc như bị đeo đá. Bỗng: “Á…” chân chị đạp phải thứ gì đó đau nhói, chưa kịp định thần thì một cảnh tượng bày ra trước mắt chị: Út Vân vóc người nhỏ thó đang ngồi co rúm nơi góc giường, trán em rịn lấm tấm những mồ hôi, mắt em nhìn trân trân xuống nền đất, hai bàn tay gầy guộc co quắp bấu chặt vào nhau, hơi thở của em gấp gáp nhưng yếu ớt như những người đang lên cơn hen suyễn, đôi môi em suýt rướm máu vì bị cắn chặt, rõ ràng em run vì sợ hãi, dưới nền nhà vương vãi những mảnh vỡ của chiếc ly thủy tinh, chuyện gì đã xảy ra ? Chị chưa kịp hỏi chuyện Út Vân thì ngay lúc đó chị Tâm – người chị lớn vừa đi làm về thấy thế la toáng lên: “Lại gì nữa đây… lại đổ bể… nhà này nát của là tại mày đó Vân… không làm được việc thì ngồi yên đi… tao không rảnh theo mày cả đời để dọn mấy thứ mày bày ra…”. Câu mắng ấy như kim đâm nhói vào lồng ngực chị, chị hiểu rằng những từ ngữ đó không phải chỉ dành riêng cho Út Vân mà có cả phần của chị trong đó nữa, nhưng chị biết làm như thế nào đây trong trường hợp này, rõ ràng miệng chị Tâm la Út Vân cơ mà. Chị cố nén lòng, nhẹ nhàng quay lại nói với chị Tâm: “Chị đừng la nó, tôi nghiệp, vì nó bệnh tật chứ nó đâu có muốn thế đâu…”. Chị Tâm được thể ngắt ngang lời Liên và quát lớn hơn: “Mày không phải dạy tao… cả mày nữa đó… sao ám tao hoài vậy… mày tha cho tao đi Liên…”. Cơn mệt nhọc sau một ngày mưu sinh đang đè nặng lên đôi vai của một người mẹ đơn thân nuôi con, cái đau buốt rướm máu đang chảy ở chân chị, những lời mắng nhiếc lúc này như cây đinh đóng vào ngực chị, tiếng khóc của Út Vân lùng bùng trong tai chị, đầu chị như sắp nổ tung, chị không thể chịu đựng được nữa, chị không thể nhịn được trước những hành động đó của chị Tâm, chị quát lớn:
- Tôi ám bà cái gì? bà nói đi!
- Sao mẹ con mày không kiếm nhà khác mà ở? Kéo nhau về đây, không ám tao thì là gì?
- Nhà của cha… của mẹ tôi để lại… tôi ở… bà lấy quyền gì mà đuổi tôi?
- Mày lấy chồng… thì sao mày không theo thằng chồng của mày đi mà còn ở lỳ đây?
- Tôi lấy thằng nào thì kệ tôi… nhưng tôi sinh ra ở nhà này… có chết thì cũng chết ở nhà này…
- À… mày muốn chết hả… vậy mày chết thử tao coi!
Cứ thế, mỗi người một câu, mỗi người một giọng, cãi nhau qua lại, không ai để ý, ngó ngàng đến em Vân đang ràn rụa nước mắt và thều thào những tiếng yết ớt van lơn:
- Thôi… em xin hai chị… đừng lớn tiếng với nhau nữa… hai chị đang làm mẹ khóc đó… mẹ ơi mẹ… con nhớ mẹ…
Và hình như là do Út Vân nhắc đến mẹ nên hai người thôi cãi nhau. “Bộp…” chị Tâm đập tay xuống bàn rõ mạnh khiến những chiếc ly trên bàn như muốn rơi xuống, cái đập bàn đó là dấu hiệu kết thúc cuộc khẩu chiến, cả hai im lặng, mỗi người một hướng, quay về phòng riêng mặc kệ những mảnh ly vỡ và mặc kệ cô em bệnh tật đang khóc lóc khi phải chứng kiến cảnh hai chị của mình luôn bất hòa với nhau.
Trằn trọc mãi tới nửa đêm vẫn chưa ngủ được, gác tay lên trán chị Liên suy nghĩ và nhớ lại chuyện hồi chiều tối. Chị lẩm bẩm thầm trách mình: “Sao tối qua mình lại nóng nảy thế… mọi lần chị Tâm la mắng… mình vẫn im lặng cơ mà...”. Nhớ lại lời Út Vân nói hồi tối, chị cảm thấy hối hận và nhớ lại lời mẹ dặn dò mấy chị em lúc khi lâm chung: “Cha mẹ không có gì ngoài căn nhà này để lại cho các con… các con hãy sống tốt với nhau như khi mẹ đang còn trong căn nhà này… các con có hứa với mẹ như thế không… vậy nhé… mẹ đã sẵn sàng về với Chúa…”, chị Liên chỉ dám nhớ đến đấy thôi thì sống mũi đã cay cay rồi, chị mà nhớ thêm những lời mẹ dặn dò nữa thì chị sợ rằng không kìm được nước mắt. Chị gượng dậy lò mò trong ánh đèn vàng ra ngoài đến bên bàn thờ mẹ, trước di ảnh chị thắp nén hương và thì thầm: “ Mẹ ơi… con xin lỗi… chị em con đã không nghe lời mẹ… con biết mẹ buồn… vì chị Tâm khó tính thì đáng lẽ ra con phải là người nhẫn nhịn mới đúng… đàng này con lại làm thế… con sai rồi mẹ ơi…”. Chị đứng thật lâu, yên lặng như đang nghe lời mẹ khuyên bảo, dạy dỗ mình khi còn nhỏ. Chính lúc này đây, chị thèm lắm một cái ôm, chị thèm lắm cảm giác được mẹ vuốt tóc khi rúc đầu vào lòng mẹ và nhất là khi đã trải qua biết bao nhiêu sóng gió trong đường đời, chị nhớ lắm giọng nói mẹ: “Mọi chuyện sẽ ổn thôi con à…”. Chị biết mẹ thương mình nhiều lắm vì có lẽ chị đã phải chịu nhiều thiệt thòi và không được hạnh phúc từ khi lập gia đình, chị nhớ mẹ luôn miệng nói: “Sinh ra phận gái là khổ… nhưng bất hạnh hơn nếu chọn sai người đàn ông cho đời mình…” Những câu từ đó luôn hằn sâu trong đầu chị, chị nghiệm ra rằng từng câu, từng chữ mẹ nói không hề sai bao giờ, chị muốn quên đi cái bất hạnh đó mà cố sống vì con cái và chị đã làm được. Chị đã quên được người đàn ông bội bạc đã bỏ mặc hai mẹ con chị để đi tìm người phụ nữ khác mà ông ấy gọi là hạnh phúc. Lúc ấy thằng bé con chị đang chập chững tập đi, những bước đi đầu tiên trong cuộc đời nó mà không có bố bên cạnh. Tuy được gia đình chồng thương yêu cả hai mẹ con nhưng đó chưa đủ để bù đắp được những thiệt thòi mà chị phải gánh chịu. Trong thâm tâm, chị hiểu được tình cảm mà họ dành cho mẹ con chị, họ luôn khuyên chị cố gắng nhẫn nại và cầu xin cho chồng chị hồi tâm. Thế nhưng dường như mọi sự nỗ lực của gia đình chồng của chị là vô ích, thời gian trôi chị biết mọi chuyện không thể cứu vãn được gì và ngày ấy cũng đã đến, tòa án hòa giải hôn nhân không thành đã tuyên cho anh chị ly hôn. Chị dắt thằng bé về ở với mẹ và từ khi ấy chị Tâm đã có vẻ không bằng lòng, hay cau có, gắt gỏng với chị, nhưng vì con, chị đã cố gắng mềm mỏng và nhẫn nhịn chịu dựng tất cả, đã đôi lần chị nghĩ: “Ra ngoài thuê phòng trọ để ở cho yên… kệ cho “bả” ở nhà mà lo cho Út Vân… cho “bả” biết mình ở trong cái nhà này là không vô dụng…”.
Chị thôi không suy nghĩ lan man những chuyện buồn, đối với chị bây giờ chị sống là vì con cái mà thôi, quay về phòng ngủ và chị chợt nhớ: “Những mảnh ly vỡ chưa ai dọn dẹp… ngộ nhỡ ngày mai lại đạp phải miểng ly như hồi tối thì lại khổ… làm sao mà đạp xe giao hàng”, chị ra ngoài phòng khách, giật mình khi thấy bóng chị Tâm đang lui cui dọn dẹp những mảnh ly vỡ. Chị thoáng nhớ lại những gì chị Tâm đã làm cho mình vào Noel năm ngoái mà nước mắt rơi. Dạo ấy nếu không có chị Tâm ở lại bệnh viện chăm sóc chị thì chị không biết phải xoay xở làm sao với cái chân đang phải băng bột vì bị một thanh niên tông vào xe khi đang trên đường đi bán hàng về. Sợi dây ký ức đó dù chỉ thoáng qua thôi nhưng hình ảnh một người chị ân cần chăm sóc em gái thì chị không bao giờ quên. Chị liền gọi: “Chị ơi…” với giọng run run vì nước mắt đã làm nghẹn cổ họng đang đau rát của chị. Chị Tâm giật mình quay lại. Trước mắt chị là cô em gái đang ràn rụa nước mắt, lúc này đây lời nói đối với hai chị em như là một sự thừa thãi mà thay vào đó là một cái ôm, một cái ôm mà từ lâu nay hai chị em chưa dành cho nhau, hành động thay cho lời nói và nước mắt thay cho lời xin lỗi… Phải lâu sau chị Liên mới thôi xúc động, chị nói khẽ: “Tha lỗi cho em nha chị…” Chị Tâm cũng thổn thức: “Em cũng bỏ qua cho chị… gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau… đúng không em”. Dường như bức di ảnh của người mẹ đang mỉm cười hạnh phúc và trìu mến nhìn hai con… Chị Liên trở về phòng ngủ với niềm vui trong lòng, thứ tình cảm ruột rà ấy trở lại trong tim chị mà bao lâu nay chị gần như là đã đánh mất nó. Chị nghĩ đêm nay không chỉ riêng mình chị mà cả chị Tâm cũng sẽ có một giấc ngủ thật ngon.
***
Dù gì thì cũng quá nửa đêm, với sự yên lòng chị dễ dàng đưa mình vào giấc ngủ. Trong lúc mơ màng, chị bỗng nghe một tiếng nói bên tai, giọng nói khàn khàn phát ra chầm chậm giữa khuya vắng rõ ràng và rờn rợn như tiếng cửa ken két vì khô nhớt. Tiếng nói gần sát bên tai như thể chị đang nằm kề sát bên một ai đó: “Mày… giỏi… lắm…” Theo phản xạ, chị mở mắt ngay và xoay đầu sang phía bên tai – nơi mà tiếng nói phát ra, không một ai nằm kề bên chị cả. Chị biết chị không hề bị hoa mắt, tự hỏi mình: “Vậy ai nói ra lời đó ?”. Một cảm giác lạ đang bao trùm căn phòng – nơi hàng đêm chị vẫn ngủ yên. Lạnh sống lưng, chị trở mình xoay lưng vào phía trong tường cố để đầu thôi không suy nghĩ những điều vẩn vơ. Bản thân chị là một người công giáo thì chẳng có lý do gì để chị phải sợ những trò chọc phá vặt vãnh của những đứa mà đời đời đã phải dìm mình trong lửa hỏa ngục. Thế nhưng sự việc chưa dừng lại ở đó… “Phù… phù…. phù…”. Tiếng thổi hơi mạnh đến nỗi phát ra những âm thanh khó chịu,. Nó hiền hiện bên tai và táp vào mặt chị như muốn thổi át đi không khí khiến chị không thể thở. Luồng gió này là cảm giác ảo hay là thật? Trước lúc đi ngủ chị đã đóng kín cửa sổ rồi cơ mà! Đầu quay cuồng. Chiếc giường đang bị dựng đứng chăng? hình như chị đang bị tuột khỏi giường. “Phù… phù… phù…”. Chị không thể thở, đây không phải là giấc mơ, rõ ràng đầu óc chị đang rất tỉnh táo vì chị biết được những gì đang xảy ra với mình. Thứ gì đó đang ghìm lấy chị, chị không thể nhìn thấy nó, nhưng chị cảm nhận được nó đang ở đây, nó bịt chặt miệng chị, nó trói chân tay chị, nó bắt ép chị phải nghe cái giọng nói ghê rợn ấy: “Mày giỏi lắm… mày muốn thắng tao à”. Chị phải làm gì để đuổi nó đi, đuổi nó về cái nơi tối tăm, nhơ nhuốc, nơi mà đời đời kiếp kiếp đã thuộc về nó. Chị nghĩ: “Mày bịt miệng tao nhưng mày không bao giờ bịt chặt được đức tin của tao đâu”. Trong thâm tâm chị la lớn: “Giêsu – Maria – Giuse – xin cứu con…” chị kêu tên cực trọng ba đấng bằng chính niềm tin vững vàng, những câu kinh Kính mừng được đọc thành kính trong đầu chị và hiện tượng ấy biến mất ngay lập tức. Miệng chị thốt lên: “Chúa ơi…” Chị chạy đến bên bàn thờ Chúa, hơi thở vẫn còn gấp gáp vì sợ hãi. Chị làm dấu Thánh Giá thật sốt sắng, ngước nhìn tượng Chúa chịu nạn: “Chúa ơi… xin Chúa luôn ở cùng con… che chở con… vì chúng nó luôn tức tối, ghen tuông khi thấy chị em con hòa thuận… chúng nó muốn chia rẽ chị em con… con yếu đuối Chúa ơi… nhưng có Chúa… con không sợ… con sẽ thắng chúng nó… con biết và con tin Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse luôn dõi theo con… áo choàng mẹ phủ lên con… bao bọc con trước những cám dỗ của ma quỷ…”
***
Mỉm cười, chị hát khẽ: “… bỏ Ngài con đi với ai… vì Ngài có lời ban sự sống… bỏ Ngài thân con héo hon… đời cô liêu trên trốn dương gian… bỏ Ngài con đi với ai… đường xa lắm tương lai mịt mù… nào ai dẫn con trên đường dài… bỏ Ngài con đi với ai…”.
Mã số 13-022
MẢNH GHÉP!
“Mỗi người là một mảnh ghép trong bức tranh lớn là cuộc đời – người ta nói vậy”. Mấy hôm nay trong đầu nó cứ miên man suy nghĩ về cô gái câm – điếc ở một “Mái ấm” mà nó may mắn được đi cùng với một nhóm sinh viên hôm chủ nhật vừa qua.
Nó là đứa cũng hay tà lanh. Vừa cùng các anh chị đặt chân đến mái ấm, sau khi chào hỏi Sơ quản lý ở đó và giới thiệu về nhóm cho Sơ biết, nó bắt đầu thỏa mãn sự tò mò vốn có của mình bằng cách đi tham quan hết các phòng sinh hoạt ở đó. Đi quanh một vòng, chụp hình cho đã đời, nó dừng lại ở một góc nhỏ. Nó ấn tượng với cô bé đang ngồi một mình khâu khâu vá vá một tấm chăn – tấm chăn nhiều màu, nhiều mảnh ghép. Cô bé đó nhìn duyên lắm – nó thầm nghĩ vậy trong lòng. Nghĩ vậy nên nó lấy máy hình ra chộp trộm 1 tấm hình. Cô bé biết có người chụp hình mình. Cô nhìn lên rồi lại cúi xuống tiếp tục công việc của mình một cách lặng thinh làm nó cũng thấy ngại ngại. Nó lấy hết sự mạnh dạn can đảm hiếm hoi của mình ngồi xuống cạnh đó hỏi vài câu hỏi mang tính chất xã giao, cô bé vẫn lặng thinh không trả lời và tiếp tục công việc dường như đã rất thành thạo của mình. Nó cũng chưa biết phải làm sao thì có một bạn nữ trong nhóm cũng ngồi xuống đó rồi câu chuyện bắt đầu khi bạn gái kia hỏi chuyện cô bé. Cô bé ý chạy đi lấy một cuốn vở và một cái bút. Khi đó nó mới biết được rằng cô bé không nghe được và cũng không có khả năng nói (theo lẽ thường: “Người nào không nghe được thì cũng đồng thời sẽ không nói được” người ta bảo thế.) Nhờ cái bút và cuốn vở, nó và vài người trong nhóm có một cuộc trò chuyện vui vẻ, cởi mở với cô bé tội nghiệp đó. Nó thầm nghĩ khi được sinh ra là một con người bình thường, khỏe mạnh đó đã là một ân ban lớn biết chừng nào mà Thiên Chúa trao ban cho nó rồi. (Nó thầm cảm ơn cô bé câm – điếc đó đã chỉ cho nó nhận biết điều đó). Cô bé chỉ cho nó và mọi người trong nhóm ngôn ngữ bằng tay. Nó vui lắm vì ngày hôm nay nó học được biết bao điều từ cô bé câm điếc đó.
Hình ảnh cô bé ngồi may chiếc chăn bằng chính đôi tay của mình, một chiếc chăn với nhiều mảnh vải ghép lại rất đẹp rất dễ thương cứ in đậm trong tâm tưởng của nó – lòng nó vui vui. Chiếc chăn được hình thành từ nhiều mảnh vải nhỏ ghép lại với nhau, trở nên một mảnh vải lớn – Mỗi con người nơi mái ấm này là một hoàn cảnh khác nhau trôi dạt về đây, tụ họp lại bởi tình thương của Chúa qua bàn tay các Sơ hình thành một tình yêu lớn, trở nên một ngôi nhà, hóa thành một Mái ấm.
Lạy Chúa Giê-su yêu mến, mỗi chúng con là một mảnh tình yêu còn thiếu của nhau trong cuộc lữ hành trần thế này, xin ban cho chúng con luôn biết mở trái tim ra để đón nhận, để chia san, để nâng đỡ, để yêu thương nhau. Để rồi chúng con khi biết yêu thương nhau sẽ trở nên một mảnh ghép lớn trong tình yêu của Đức Kitô là tình yêu – Vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 16).
***
Một đêm khó ngủ!
Một tuần lặng lẽ trôi qua, tức là nó đã có bảy ngày sống nơi mái ấm này. Một mái nhà có đủ mọi hoàn cảnh trôi dạt về. Nhỏ thì bệnh đao, nhỏ thì mồ côi – chẳng bao giờ biết tại sao mình có mặt ở đây và cha mẹ mình là ai. Một vài em khiếm thính; một vài em lại bị khờ chậm phát triển. Có những em thì do gia đình đông con lại nghèo quá đành gửi vào đây để cho các Sơ cho ăn học. Muôn hình vạn dạng của Chúa Kitô nằm ở đây.
Bảy ngày qua nó cố gắng lắng nghe, chiêm ngắm và hỏi dò về hoàn cảnh của những em mà nó nói chuyện để có một chút hiểu về những hoàn cảnh ở đây. Nghe, tìm hiểu – để được lắng đọng, để cảm nghiệm, để đồng cảm. Nghe, tìm hiểu – để mở lòng ra, để chia sẻ phận người… Chỉ đơn giản bằng nụ cười và ánh mắt yêu thương.
Em!
Em là một cô bé dáng người mảnh khảnh. Đặc điểm cho người khác không thể nhầm em với ai đó là cái mụn ruồi duyên dáng ngay cái miệng xinh xinh của em. Cái dáng người mảnh khảnh đó có lẽ tạo nên cho em một vẻ nhanh nhẹn và thông minh lắm. Hôm nay tôi nghe chuyện của em, nghe xong lòng tôi như gợn một con sóng – một con sóng sầu vô tận không có đường ra. Nghe em nói em là người Miền Tây, mẹ em làm bà phụ bếp cho mái ấm này. Hỏi về bố em, em nói em cũng chẳng nhớ mặt nữa. Nhưng em biết bố em là người hay uýnh mẹ em nên em ghét. Bố em hay đánh mẹ em nên họ chia tay nhau… Nghe những lời văn trong câu chuyện gia đình của một đứa trẻ kể mới đơn sơ và mộc mạc đáng yêu quá. Cái mộc mạc đậm nét tuổi thơ ấy lại làm lòng tôi xuyến xao. Em còn quá nhỏ để hiểu hết chuyện của người lớn. Em còn quá nhỏ để phải chứng kiến những cảnh nội chiến, những bữa cơm chẳng lành canh chẳng ngọt ấy. Em còn quá nhỏ để phải nhìn thấy viễn tượng “mỗi người một nơi”.
Em mến! Cánh cửa tương lai vẫn luôn mở toang chào đón em đi tới. Em hãy tiến tới mạnh dạn với hành trang là tình yêu của Chúa, sự đùm bọc của các Sơ nơi ngôi nhà mái ấm này. Và đồng hành với em còn người mẹ nữa mà. Chính vì vậy hãy cố gắng học hành cho tốt, sống cho có ích, đừng làm phiền lòng người lớn nha. Luôn nhớ phải cầu nguyện cho em và mọi người em nhé.
***
Ngày 05/06/2012
Em giống ai?!
Lại một lần nữa nó ngồi trong sự tĩnh lặng của màn đêm để suy nghĩ, để cảm nhận, để hưởng thụ lại cái nét đơn sơ mộc mạc và rất tuổi thơ trong những câu chuyện nó nghe từ những em bé ở đây kể về hôàn cảnh của mình. Vẫn là mảnh trăng khuyết, nhưng mỗi em lại có những hoàn cảnh khác nhau, gia đình của từng em lại có từng cái mảnh khuyết khác nhau. Câu chuyện của mỗi một em lại là từng dòng cảm xúc lạ khác nhau trong nó. Những cảm xúc đó cứ lúc ẩn lúc hiện, khi mờ khi tỏ trong trái tim nó. Làm lòng nó bừng bừng một thứ lửa – lửa yêu mến và cảm thông…
Hôm nay tôi gặp em giống như mọi ngày vẫn vậy, nhưng cảm xúc thì khác lắm. Cũng có lẽ vì câu chuyện em kể về gia đình của em chăng? Tôi cũng không rõ nữa… Câu chuyện của em bắt đầu bằng câu hỏi của tôi: “Em giống ba hay giống má vậy?” Con bé bảo, em giống ba em – người ta bảo thế anh ạ. Nhà em có năm anh chị em. Ba em mất rồi… em kể với tôi vậy đấy.
Em! Ngồi nghe em kể về ba của mình say xưa và hồn nhiên lắm. Nhìn ngắm nét mặt em lúc em kể chuyện làm anh bỗng như trôi dạt vào một câu chuyện cổ tích về một người cha từ xa xưa vậy – cảm ơn em vì câu chuyện em kể về bố. Em biết không, người ta bảo: “Con không cha như cái nhà thiếu nóc.” Vậy mà em lại phải thiếu đi cái nóc ấy. Đó là cái thiệt thòi của em. Nhưng em ạ, cánh cửa này đóng sẽ có cánh cửa kia mở rộng chào đón em. Giờ em đã có ngôi nhà mái ấm này với biết bao người yêu thương chăm sóc em. Hãy mạnh mẽ lên, để sống không phụ lòng những người yêu thương em. Giờ này em có đến bao nhiêu là cái nóc đang quan tâm đến em đó. Chính vì vậy điều quan trọng hãy chú tâm học cho tốt và nghe lời người lớn nha em. Em có những người ở mái ấm này, anh, và còn rất nhiều người nữa luôn yêu thương cầu nguyện cho em đó. Đừng làm mọi người buồn nhé em. Cố gắng lên, anh sẽ đồng hành với em trong lời cầu nguyện.
Thương nhiều
***
Ngày 07/06/2012
Niềm Hy Vọng!
Vẫn là những tiếng sâu bọ kêu khi màn đêm bao phủ kín mọi vật xung quanh. Vẫn là những đêm ngồi đây ngáp ngắn, ngáp dài mà vẫn không chợp mắt được. Nó vẫn ngồi đây trong cái im ắng đến lạnh người của màn đêm chỉ để “ngẫm” và “nghĩ”.
Chiều nay có trận mưa vô duyên nào đó chợt đổ xuống mảnh đất này như trút nước, rồi vội tạnh ngắt như vô tâm vô tình lắm ý. Chiều nay mẹ em lên đây đón em ra ngoài để đi chơi – em và mẹ đi thăm chị của em học ở trên thành phố. Có lẽ trận mưa chiều nay là công cụ níu chân mẹ em ở lại mái ấm để tôi có cơ hội trò chuyện với bà. Bà kể cho tôi nghe về em. Một cuộc trò chuyện như vậy là hệ quả tất yếu cho việc gặp gỡ của tôi và mẹ em, đúng không? Mẹ em kể với tôi, em bị khiếm thính từ ngày bé. Nhà em có bốn chị em gái, duy chỉ có mình em là bị bẩm sinh như vậy. Theo lời mẹ em kể thì em vô đây cũng đã 8, 9 năm rồi. Ở đây các sơ cho em đi học – học ngôn ngữ riêng của người khiếm thính.
Ngày tôi gặp mẹ em là ngày mà các bạn học sinh lớp 12 đang thi tốt nghiệp THPT và chuẩn bị cho kỳ thi tuyển Đại học. Nhìn vào khuôn mặt dám sương dám nắng của mẹ em tôi bắt gặp một ánh mắt đượm buồn, mẹ em đang nhìn về một phía xa xôi nào đó tôi cũng không biết nữa. Bà nói với tôi, “nếu em nó không bị như vậy thì tầm giờ nó cũng đang đi thi cùng các bạn ở nhà đó”. Câu nói ấy của mẹ em làm lòng tôi bỗng chết đứng – xót xa cho những hoàn cảnh kém may mắn hơn mình. Tôi thầm thĩ xin lỗi Chúa và ba mẹ tôi vì tôi đã chưa sống trọn hết những gì Chúa ban cho mình.
Em mến!
Cám ơn em nhiều lắm, vì em là người dạy cho anh bài học to lớn. Đó là, được làm một con người bình thường đã là “Ân huệ” lớn lao biết mấy rồi. Em hãy mạnh dạn lên, can đảm lên nhé, đừng mặc cảm vì điều gì nhé. Tương lai vẫn đang chào đón em tiến tới để thành “danh” và thành “công” một cách rực rỡ. Hãy ký thác cho Chúa mọi ước mơ của em để Ngài qua bàn tay các Sơ ở đây sẽ là điểm tựa cho em trong suốt hành trình của em. Chúc em thành công và nhớ cầu nguyện cho anh nhé!
Thương nhiều!
Mã số 13-023
ẤN TƯỢNG
Ngày…tháng…năm…
Sáng nay, mình đi học mà chỉ thấy mệt mỏi, mong cho buổi học kết thúc thật nhanh để về còn làm hết cái diều để chiều khoe với tụi thằng Phong cho hả hê. Mà buồn ghê, chiều nào cũng học về muộn. Có được chiều thứ bảy với chủ nhật rảnh, tụi nó lại chẳng chơi được cứ đi lễ hoài. Có Đạo cũng khổ thật! Không biết tụi nó đi nhà thờ làm gì ta? Chắc vui lắm nên tuần nào cũng đi mà không biết chán như vậy. Bữa nào phải hỏi tụi nó mới được. Tò mò quá!
…
Ngày…tháng…năm...
Hôm nay, nghe cô giáo hỏi lớp mình có ai theo Đạo không mà thấy không khí lớp căng thẳng quá. Mà sao không thấy anh em thằng Phong giơ tay ta, chắc tụi nó sợ cô. Mà cũng phải, cả lớp ai cũng vào đội hết mới vui chứ. Nhưng lúc chiều sao anh em nó không vui vậy ta, chẳng giỡn như mọi hôm gì cả. Lại thêm một chuyện khó hiểu nữa rồi.
…
Ngày…tháng…năm...
Trời ơi! Sao mình ghét thái độ của bà cô tổng phụ trách quá đi. Sao lúc nào cũng đưa mình vào “tầm ngắm” hết. Chắc cô chỉ ngồi nhìn mình chăm chăm xem sai gì để đưa lên trước lớp sửa cho “quê’ chơi. Trong khi cả lớp nghỉ giải lao chơi lại bắt mình phải luyện tập một mình.
…
Ngày…tháng…năm…
Thật là hả hê quá! Cứ nhìn thái độ hậm hực, tức tối của bà cô là mình thấy đỡ ấm ức biết bao. Ai bảo cứ “chiếu tướng” mình chi. Mới học được chiêu mới, cứ bắt chước mấy người đi nhà thờ quơ tay trên mặt làm dấu thập là bà cô “gai” mắt liền. Vậy cho bỏ ghét!
…
Ngày…tháng…năm…
Hic, tiêu mình rồi. Chuyến này bị ăn đòn là cái chắc rồi, sao cô lại ác thế chứ. Ai lại tới nhà méc với mẹ chứ. Chỉ là giỡn thôi mà, nhưng nhờ vậy mình biết cái quơ tay ấy là làm dấu thánh giá của người theo Đạo Công giáo. Kể ra nhái như vậy chắc anh em thằng Phong tưởng mình chọc tụi nó chẳng thèm nói chuyện với mình mấy bữa nay luôn. Mai rủ tụi nó chơi bi để giải thích chứ không tụi nó ghét mình nữa, mà mình cũng muốn hỏi thăm tụi nó những điều đặc biệt trong Đạo mới được.
…
Tôi đã vui mừng khi nhặt được quyển sổ tay của ba trong chiếc rương sắt cũ kĩ, và càng hứng khởi hơn khi biết ba đã viết nhật kí trong sổ đó. Hóa ra, ba đã từng là một cậu bé mơ mộng như vậy, chẳng trách bây giờ tôi cũng sướt mướt văn thơ. Khi đọc những dòng nhật ký, trong lòng tôi cảm giác sung sướng lại được nhân đôi, khi biết rằng đã có những chuyện xảy ra khi ba còn nhỏ và ba đã được biết Đạo từ nhỏ, chứ không phải là mãi tới khi cưới mẹ. Nhưng lại pha một chút buồn vì tôn giáo mà tôi vẫn hằng tin tưởng lại một thời lại bị ghẻ lạnh như vậy. Dù vậy cảm giác rõ rệt nhất vẫn là sự vui mừng bởi tôi biết rằng định mệnh đã đưa những dự báo trước khi ba tôi đủ trí khôn và trách nhiệm để đến với Đạo. Dù ba còn rất nhỏ tuổi, vẫn có những trò nghịch ngợm, ham chơi nhưng đã có những cái nhìn ban đầu đẹp đẽ về Đạo Ki-tô. Để giờ đây, tôi là thế hệ sau tự hào xiết bao khi được hưởng một nền giáo dục trong gia đình Ki-tô hữu chuẩn mực. Và tôi cũng thêm tin tưởng hơn nữa nơi quyền năng Thiên Chúa, những việc Người làm luôn có những dự báo trước, những hành động tưởng chừng như vô ý lại là những viên đá đầu tiên để xây dựng một Đức tin vững chắc. Nó mở ra cho tôi hiểu biết về Đức tin, Đức tin có thể không chỉ xuất phát từ nhận thức chủ ý mà còn thấm xâu vào mỗi người qua những tiếp xúc ngẫu nhiên. Ba tôi đã chính thức vào Đạo bằng con đường hôn nhân, nhưng sự tiếp nhận đã bắt đầu âm thầm từ những ấn tượng và sự tò mò. Ba vẫn bảo ngày đó mọi người ái ngại khi theo đạo, bởi vì lúc đó vẫn có những hiểu lầm về đạo Công giáo, và còn những cấm túc hà khắc cho nên mọi người vẫn có những thành kiến về Đạo. Nhưng ba đã rất tự hào khi tiếp nhận những ấn tượng thật đẹp đẽ về Đạo qua cuộc sống của những người bạn có Đạo và sau này là mẹ tôi. Chính vì thế ba luôn quan tâm tới chúng tôi, ba muốn chúng tôi phải sống tốt đời đẹp đạo để có thể qua chính cuộc sống của mình mà cho những người chưa biết Chúa, hay có những định kiến hiểu lầm về Người có thể nhận ra và quay về.
Mã số 13-024
CHUYỆN TRẺ CON
- Con chào nội con mới qua !
- Con chào nội con mới qua !
- Con chào nội con mới qua !
Ba đứa nhỏ con anh Hai ào vào nhà như cơn lốc.
- Ừ, ngoan ! Đi qua chơi với mấy em hả. Ai chở tụi con qua đây ?
- Dạ thưa nội, mẹ chở qua. Mẹ cất xe rồi vô sau.
Thấy Lùn đi sau cùng, Bà Tư ngoắc lại :
- Lùn đâu, lại đây nội biểu.
Lùn chạy lại, một chút e sợ trong mắt nó. Bà Tư vuốt tóc nó, giọng nhẹ nhàng :
- Nói cho nội nghe, hôm nay thứ 6, mẹ cho ăn cơm với gì ?
- Thưa nội, mẹ cho ăn cơm với thịt kho.
Rồi nó đứng thẳng người lên, vẻ hãnh diện : - Con đã nói với mẹ rồi, hôm nay thứ 6, bà nội dặn là phải kiêng thịt, chỉ ăn cơm với trứng hoặc với cá thôi. Nhưng mẹ nói là cứ ăn thịt đi, không sao đâu.
Bà Tư “hư” một tiếng trong cổ họng : - Tao biết ngay mà, mẹ tụi bây thì có thiết tha gì giữ luật đâu…
Vừa lúc đó chị Hai bước vào, nghe tiếng được tiếng mất của Bà Tư, lại thấy con đang đứng chỗ bà nội, chị chào bà rồi hỏi :
- Có chuyện gì vậy mẹ ? Lùn lại phạm lỗi gì nữa à ?
Lùn trả lời thay cho nội :
- Không. Chỉ là bà nội hỏi con hôm nay mẹ cho ăn cơm với gì thôi.
Chị Hai như hiểu ra vấn đề, lúng túng giải thích :
- Dạ, tại còn ít thịt kho từ hôm tết, con cho mấy đứa nhỏ ăn chứ để hư mẹ ạ.
- Kho từ hôm tết, nó hư thì đã hư rồi chứ đợi đến hôm nay mới hư sao. Chỉ giỏi bào chữa…
Rồi giọng bà dài ra, mỉa mai nhắc lại câu nói của chị : - Con cho mấy đứa nhỏ ăn…còn mấy đứa lớn nhịn chắc…
Nói rồi Bà Tư bỏ đi lên phòng. Chị Hai bấu mạnh vào vai con, nói qua kẽ răng :
- Lần sau bà nội có hỏi thì cứ nói đại là ăn cơm với trứng nghe chưa.
Lùn lắc đầu không chịu : - Không được, như vậy là nói dối. Bà nội nói nói dối là có tội, sẽ bị phạt xuống hỏa ngục, ghê lắm.
- Tội tội cái gì, chị nạt con, Bà nội mà cắt trợ cấp thì chết đói hết trước khi xuống hỏa ngục chứ ở đó mà tội với chẳng tội.
Nhưng con Lùn đang ngóng được chơi, nó bỏ chạy lên nhà trước khi kịp nghe hết câu nói của mẹ. Vừa thấy Lùn, con Xíu chạy lại :
- Bà nội nói gì vậy ?
- Bà nội hỏi hôm nay ăn cơm với gì ?
Con Xíu lo lắng :
- Rồi em nói sao ?
- Thì em nói ăn cơm với thịt kho.
- Ngốc thế. Nói vậy cho bà nội la à.
Con Misa ở gần đó nói chen vào :
- Đúng rồi, thứ 6 mà dám khoe ăn cơm với thịt mà không bị bà la mới lạ.
Con Lùn tròn mắt ngạc nhiên :
- Thì hôm nay mẹ cho ăn cơm với thịt thật mà.
Misa thủng thẳng nói, ra vẻ hiểu biết :
- Ai chả biết vậy ! Nhưng ngu gì nói thật. Như hôm kia ngoại hỏi Misa nè. Ngoại hỏi Misa là hôm nay lễ Tro, má Năm có đi lễ không, Misa nói đại là có, nên ngoại đâu có la má Năm đâu.
Thằng Bôn nghe vậy thắc mắc :
- Nhưng hôm đó em nghe chị Hai nói với ngoại là chị Hai nhìn thấy mẹ lên xức tro mà.
Con Misa quay lại :
- Thì phải nói như vậy Ngoại mới tin chứ, dốt thế.
- Thì ra chị hai chỉ nói dối bà ngoại thôi. Chị hai được rước lễ rồi mà còn dám nói dối nha, không sợ phạm tội à. Phạm tội là sẽ bị xuống hỏa ngục đó.
Con Misa nghênh mặt lên :
- Phạm tội thì đi xưng tội, có sao đâu ! Còn đỡ hơn bị nghe bà ngoại la. Đi xưng tội, cha không la, cha tha hết tội, sợ gì xuống hỏa ngục… Quê xệ ! Chẳng biết gì mà còn bày đặt nói.
Con Misa “xí” một tiếng dài rồi quay qua bên con Xíu, lấy tay che miệng nói nhỏ vào tai Xíu :
- Ba em nói là không có hỏa ngục đâu, bà ngoại chỉ hù thôi, nên chẳng có gì phải sợ.
Xíu có vẻ băn khoăn :
- Thiệt không ? Nhưng ba Năm đâu có đạo đâu mà biết là có hỏa ngục hay không.
Misa hỏi má Năm chưa ?
- Xuỵt, nói nhỏ thôi, kẻo mấy đứa kia nó nghe thì lộ hết bí mật. Em chưa hỏi. Nhưng ba em giỏi lắm, ba đi nhiều nơi, đi ra cả nước ngoài nữa nên chắc chắn là ba biết nhiều thứ hơn bà ngoại, chắc là ba không nói sai đâu. Giống như ba nói em với Bôn là một tuần đi lễ một lần vào ngày chúa nhật thôi, còn phải lo học. Học giỏi thì mai mốt lớn lên làm gì cũng được, muốn gì cũng có, như ba vậy, ba không cần đi lễ mà có thiếu gì đâu.
Con Xíu nghe có vẻ xiêu xiêu. Đúng là ba Năm chẳng bao giờ đi lễ, còn má Năm và hai chị em Misa một tuần chỉ đi lễ một lần ngày chúa nhật. Nhưng nhà ba má Năm giàu thật, trong nhà chẳng thiếu cái gì, hai chị em Misa có đủ thứ, thích gì ba Năm cũng mua cho. Không như nhà nó. Chị em nó nghe lời bà nội, ngày nào cũng đi lễ, cầu nguyện rất nhiều với Chúa, nó cũng xin Chúa cho ba má nó đi làm có tiền, nhưng ba má nó làm vẫn không đủ ăn. Tháng nào bà nội cũng phải mua gạo đem qua, tiền học của chị em nó nội cũng đóng. Nhưng con Xíu cũng thấy băn khoăn. Nó nhớ lại mấy ngày trước khi được rước lễ lần đầu, bà nội mua cho nó một cái áo đầm trắng mới tinh, gọi riêng nó ra dặn dò rất kỹ.
Bà nội dạy nhiều điều mà nó không nhớ hết. Nhưng có một câu bà nội dặn đi dặn lại nên nó thuộc lòng luôn. Bà nói nó phải nhớ là được rước lễ rồi thì phải sống ngoan hơn, siêng năng đi lễ hơn và nhất là không được phạm tội nữa, nếu không sẽ bị xuống hỏa ngục. Mà hỏa ngục thì có rất nhiều quỷ, con nào cũng có đuôi có sừng và đen thui; còn lửa ở hỏa ngục thì cháy to phải biết, lại không bao giờ tắt nữa. Chỉ nghe thôi nó đã thấy sợ rồi. Từ sau hôm được rước lễ, nó chưa bỏ lễ ngày nào, nó cũng cố gắng học giỏi hơn, để ý để giúp đỡ mẹ những việc trong nhà, nó không dám cãi mẹ, cũng bớt đánh thằng Đen với con Lùn. Nó sợ phải xuống hỏa ngục ở với quỷ, nó sợ bị lửa thiêu… Vậy mà bây giờ em Misa lại nói là ba Năm nói không có hỏa ngục đâu, bà nội chỉ hù dọa cho nó sợ thôi. Có thật là không có hỏa ngục không nhỉ ! Con Xíu ôm mớ thắc mắc thật to trong lòng. Nó không dám nghi ngờ bà nội, vì ngày nào bà nội cũng đi lễ sáng, lễ chiều nên chắc bà nội biết đúng hơn ba Năm.
Nhưng nó cũng thích nhà nó giàu có như nhà em Misa vậy. Nếu nhà nó giàu, thì năm nào nó cũng được may đồ mới, năm nào nó cũng được mua cặp mới ; nếu nhà nó giàu thì nó sẽ có nhiều đồ chơi, không cần phải chạy vô nhà nội để chơi ké đồ chơi của chị em Misa; và nếu nhà nó giàu thì thứ 6 có lỡ ăn thịt cũng không sợ nội la nữa, vì như má nói, nếu không giữ luật đạo cho hẳn hoi, bà nội sẽ không trợ cấp cho nhà nó nữa. Nó thấy sao mà rắc rối thế ! Nó định chạy đi hỏi nội, nhưng chợt nhớ bà nội chắc đang giận chuyện hôm nay thứ 6 mà nhà nó ăn thịt nên nó thôi không dám hỏi nữa. Nhưng ngày mai nhất định nó sẽ hỏi lại bà nội cho rõ. Bà nội thì cái gì mà chẳng biết…
***
Bà Tư gọi vợ chồng anh chị Năm ra hỏi :
- Tụi con nói gì mà con Xíu nhà thằng Hai cứ đi theo hỏi mẹ là có hỏa ngục thật không. Nó nói là ba Năm nói không có hỏa ngục, có phải không ?
- Ui dào, mẹ thấy có mấy khi con nói chuyện với mấy đứa nhỏ đâu, mẹ biết là con bận công việc suốt ngày mà.
Chị Năm chậc lưỡi :
- Hơi đâu mẹ để ý đến mấy đứa nhỏ làm gì cho mệt sức. Con nít thì cái gì mà chẳng thắc mắc, chẳng hỏi. Toàn chuyện trẻ con…
Mã số 13-025
GIEO MẦM SỰ SỐNG
Ngồi đợi gần nửa giờ đồng hồ vẫn chưa thấy đò xuất hiện, tôi bồn chồn như lửa đốt trong lòng. Nhìn đồng hồ, tôi nghĩ đi máy bay từ Hà Nội vào Sài Gòn còn nhanh hơn đi xe đò từ Sài Gòn về quê tôi.
Cần Giờ quê tôi cách trung tâm Sài gòn có mấy chục cây số nhưng do ngăn sông cách đò phải mất mấy tiếng mới về đến nhà. Từ hồi lấy chồng xa đến giờ, tôi ít khi về thăm quê. Có khi cả năm không về nhà lần nào! Sau khi tốt nghiệp đại học, rồi duyên số đẩy đưa, tôi lấy chồng xa.
Nay, em trai gọi điện báo mẹ đau nặng khó có thể qua khỏi. Tôi phải xin nghỉ việc để về quê. Cha tôi mất sớm, mình mẹ tần tảo nuôi năm chị em chúng tôi nên người. Tôi là đứa con gái đầu tiên trong làng học lên đến đại học. Điều này là niềm tự hào của mẹ tôi.
Cách nhau con sông Long Hầu, vậy mà bên này sông khác bên kia một trời một vực. Bên này huyện Nhà Bè điện, nước, đường, trường học, trạm xá khá đầy đủ còn bên kia vẫn thiếu nước, chưa có điện, đường thì lầy lội, ổ gà ổ voi…
Nghe đâu người ta sắp mở đường, xây cầu để phát triển vùng biển quê tôi thành trung tâm du lịch gì đó. Tôi cầu mong cho có cái cầu, con đường hẳn hoi để dân huyện tôi dễ dàng bắt nhịp cuộc sống cùng các huyện thị khác của Thành phố.
Nghĩ đến đây, tôi ngẩng mặt lên nhìn sang bên kia một màu xanh ngút ngàn chân trời của cánh rừng đước trải dài vô tận. Tôi có cảm giác lo sợ không biết màu xanh kia, sự bình lặng, yên ả của quê hương tôi có còn nữa hay không? Xã hội càng văn minh nếu không được chuẩn bị tốt sẽ phải đối diện với nhiều vấn đề phát triển khập khiễng. Tự dưng tôi cảm thấy tiếc nuối nếu một ngày nào đó với sự phát triển quá mức sẽ làm lụi tàn những cánh rừng kia. Một sự giằng co giữa cái bình yên của cuốc sống và sự ồn ào của đô thị không biết bên nào tốt hơn xảy ra trong tâm hồn tôi.
Bành bạch kêu đều đặn, chiếc đò rẽ nước đi tới. Ngồi trong khoang dành cho hành khách, tôi hướng mắt nhìn ra bên ngoài. Sự mênh mông của sông nước làm tôi cảm thấy mình thật bé nhỏ trước sự bao la của đất trời. Mỗi lần đi phà, hay đò tôi rất thích một mình thinh lặng ngắm nhìn sự diệu vợi của thiên nhiên. Từ lâu rồi, mỗi lần như thế hình ảnh anh lại hiện về trong tâm trí tôi:
“người đâu gặp gỡ làm chi
trăm năm biết có chuyện gì hay không.”
***
Chuyện đến với tôi đã hơn mười năm rồi. Nhưng tôi vẫn còn nhớ như in mọi tình tiết êm đềm đó. Lúc ấy tôi đang là sinh viên năm cuối đại học. Cũng tại bến đò này, nhưng hồi đó chưa có đò máy, chỉ có đò chèo bằng tay. Vui thì bác chèo đò ở bên này, buồn thì bác ở bên kia nên nhiều hôm phải đợi cả tiếng đồng hồ mới đi được. Đấy là chưa kể những hôm nước xuống còn phải đợi lâu hơn nữa.
Chiều Chúa nhật hôm đó, mẹ tôi nói: nay đúng con nước. Nước xuống! Con nên đi sớm kẻo lỡ đò. Nếu lỡ đò phải đợi đến đầu giờ chiều nước mới lên.
Mấy tháng mới về nhà một lần, tôi và các em ríu rít đủ thứ chuyện. Và kết quả khi tôi ra đến bến đò thì chiếc đò đã ở tít xa giữa lòng sông. Tôi băn khoăn trở về nhà thì tốn kém và thế nào cũng bị mẹ tôi cũng cho một bài; còn ở lại đợi mấy tiếng cũng chán.
Đang lưỡng lự thì vừa lúc đó, anh phóng xe tới. Nhìn ra giữa lòng sông, anh buột miệng: hay thật! Lại trễ đò nữa rồi.
Nhìn thấy tôi, anh mỉm cười và hỏi: Em cũng trễ đò à?
Tôi trả lời: Vâng!
Lúc trả lời anh, tôi ngước lên nhìn và chợt nhận ra nơi anh có cái gì đó đặc biệt mà tôi không tìm thấy nơi những người bạn trai của mình.
Tôi bị anh hớp hồn ngay. Anh người cao lớn, trông có vẻ hiền lành và có vẻ đứng đắn. Đôi mắt sâu dưới cặp kính cận rất trí thức càng tô điểm thêm những điều thiện cảm tôi có về anh.
Anh dẫn xe để dưới bóng râm của cây bàng. Anh quay về phía tôi và hỏi: Uh? Trông em có vẻ là người dân vùng này sao lại bị trễ đò?
Tôi không trả lời mà hỏi lại: anh trông giống dân thành phố, xuống đây làm gì vậy? Sao lại chỉ đi có một mình thôi?
Nhìn tôi đầy dễ tính, anh nói chậm rãi: thường thứ bảy, Chúa nhật mình hay xuống vùng này thăm bà con. Mình thích đi thăm họ lắm!?
Chuyện đợi đò vẫn thường xảy ra đối với mình. Em có muốn đi thăm những bà con gần đây với anh không? Anh hỏi có vẻ không tha thiết cũng chẳng khách sáo.
Tôi hỏi lại: Bà con anh ở gần đây à?
Anh cười: Không! Mình không biết nữa! Thì mình cứ đi thăm đại. Vào nhà ai họ cho gặp thì gặp, ai không thì mình đi chỗ khác.
Thấy vẻ mặt nhíu mày tỏ vẻ không hiểu của tôi, anh giải thích:
Bà con mình nói là những người dân vùng này, chứ không ai là họ hàng ruột thịt với mình chi hết. Tứ hải gia huynh đệ! Mình là con người với nhau nên có sự liên đới tình người. Mình đi thăm, xem và cảm nghiệm đời sống cơ cực của bà con vùng này như thế nào.
Tôi hỏi: thế anh là chuyên viên khảo cứu xã hội à? Chứ chẳng có ai rảnh rang đi không không bao giờ.
Đưa mắt nhìn tôi anh nói: em có muốn đi hay ở đây thì tùy. Vừa nói xong anh quay bước men theo bờ sông đi về phía những túp lều ven sông.
Tôi lưỡng lự ở lại một mình cũng chẳng làm gì, mà đi theo anh kể cũng kỳ kỳ. Nhìn bề ngoài người ta là vậy còn bên trong thế nào ai mà biết được:
“Hoạ hổ họa bì nan họa cốt
Tri nhân tri diện bất tri tâm”.
Mấy năm sống xa nhà, ở trọ đã giúp tôi có kinh nghiệm khi tiếp xúc với những người khác, trở nên dè dặt thận trọng hơn.
Anh vẫn để đồ đạc lại trên xe, đi người không giữa cái nắng chang chang tiến về phía những túp lều xa xa. Tôi cảm thấy như mình bị thúc gọi bởi một cái gì đó liền gọi với theo: đợi em với! Anh gì ơi? Cho em đi theo với.
Anh dừng lại và đợi tôi đến rồi cùng đi. Vừa đi anh vừa hỏi tôi một vài thông tin xã giao về bản thân tôi.
Hai chúng tôi đi men theo bờ sông, khoảng chừng hai trăm mét là tới mấy túp lều gần đó.
Nhìn thấy chúng tôi đang đi bộ từ đàng xa, bọn trẻ như phát hiện ra một cái gì đó. chúng chạy tới, tíu tít đủ thứ chuyện: thầy cô đến thăm chúng mày ơi.
Đứa đi trước. Đứa chạy sau. Đứa nắm tay. Đứa xô đẩy nhau chí choé. Chúng với anh hình như có mối giây liên lạc vô hình nào đấy. Tôi không hiểu được. Điều tôi cảm nhận là chúng rất quý anh và anh có tác động tích cực lên chúng. Đi qua túp lều nào anh cũng ghé vào chào hỏi họ dăm ba câu. Người già anh hỏi han về sức khoẻ, các bậc cha mẹ anh nói chuyện về công việc làm ăn, việc học hành của con cái họ. Gặp các thanh niên nam nữ anh trêu khéo: bao giờ thì mời anh uống rượu…!!!
Điều tôi cảm nhận, anh là người của mọi người. Anh biết rõ hoàn cảnh của mỗi gia đình anh đi thăm. Anh nhớ tên mọi người và hỏi họ về những vấn đề khó khăn trong cuộc sống họ đang đối mặt.
Qua câu chuyện anh tiếp xúc với bà con nơi đây, tôi dần hiểu ra: tên anh là Ngọc, mọi người gọi là Thầy Ngọc. Anh là thầy giáo!? Năm ngoái anh về công tác dưới huyện tôi một năm. Cứ thứ bảy, Chúa nhật anh từ đưới huyện lên đây thăm bà con. Bây giờ anh về lại thành phố, lâu lâu rảnh rang anh lại xuống thăm bà con một lần, đặc biệt vào các dịp lễ Tết.
Chẳng biết từ đâu ra, hay anh có tín hiệu gì đặc biệt mà mấy chục em thiếu nhi từ các ngõ ngách chung quanh gọi nhau í ới, đổ ra đi theo chúng tôi.
Sau khi đi thăm mấy nhà đầu lối, anh quy tụ các em lại thành vòng tròn ở bãi cỏ ven sông và cùng nhau hát hò vui chơi. Đột nhiên, tôi cảm thấy ghen tị với các em vùng này. Chúng chân lấm tay bùn như tôi. Nhiều đứa không có cơ may đến trường, còn những đứa đi học thì nửa buổi đến trường, thời gian còn lại đi mò cua bắt ốc… Vậy mà hồi nhỏ bằng chúng, tôi nào có cơ may hát hò, chơi giỡn như thế này. Mãi đến khi lên tới đại học, khi đi tham dự các kỳ cắm trại tôi mới chợt nhận ra mình khờ khạo, không thuộc những bài hát sinh hoạt đơn giản, những quy định tối thiểu của sinh hoạt nhóm. Tôi rất thích tham dự những buổi sinh hoạt hát hò, các công tác từ thiện xã hội, nhưng bị mặc cảm về những hạn chế của mình và không biết cách thức phải sinh hoạt ra sao. Tôi nghĩ sau này lớn lên, khi tung mình vào các môi trường xã hội các em sẽ cảm nhận được những giá trị mà chúng đón nhận được từ nơi anh lúc này.
Vừa chơi, tôi vừa lén nhìn anh nhã nhễ mồ hôi khi hát, sinh hoạt với các em. Tìm tôi đập rộn ràng, một cảm giác nao nao. Thương anh cách lạ lùng. Một cảm giác tự nhiên tôi không hiểu và chưa từng có trước đây. Một ý nghĩ táo bạo loé lên trong tôi: muốn chiếm trọn anh cho riêng mình.
Mọi tiết mục (trò chơi) anh cho chơi, tôi đều hưởng ứng, tham dự tích cực. Tôi cũng không hiểu sao hôm nay đứng trước anh và các em vùng này tôi tự tin cách lạ thường, không như những dịp tham dự ở trường, ở lớp. Có phải cách thức anh đưa những người tham dự vào cuộc chơi một cách đặc biệt, không phải là lối trình diễn, thể hiện mình như tôi đã từng thấy nơi những người khác?
Chúng tôi đang chơi hào hứng. Bỗng dưng thấy anh nhìn ra dòng sông và bảo các em dừng. Rồi anh dặn dò điều này điều kia.. vì nước đã lên và anh phải về. Tụi trẻ có vẻ tiếc nuối vì cuộc chơi chấm dứt. Nhưng có lẽ quen với sự đến rồi ra về bất chợt của anh nên chúng ngoan ngoãn nghe theo. Lúc chia tay, các em lại tíu tít đủ điều. Chúng mong anh mau lại xuống thăm chúng. Có lẽ, vì chúng quý mến anh nên tôi cũng được hưởng lây. Tôi cảm nghiệm một tình liên đới giữa con người với con người cách đặc biệt. Tôi cũng là dân vùng này, nhưng hôm nay tôi cũng có sức hút đấy chứ? ?
Tôi và anh trở lại bến đò. Vẫn chưa có đò. Chúng tôi đến ngồi dưới gốc cây, nơi anh để xe. Anh lấy chai nước ra mời tôi uống. Chúng tôi ngồi đợi đò và nghỉ ngơi cho đỡ mệt.
Tôi nghĩ đây là lúc thuận tiện để thăm dò những thông tin về anh. Vì từ nãy tới giờ tôi đâu có dịp nào thuận tiện. Thấy anh mồ hôi nhễ nhãi, tôi định lấy khăn giấy ra lau cho anh. Nhưng nghĩ mình là con gái, lại mới gặp anh mấy tiếng đồng hồ chưa biết thế nào nên tôi thôi. Tôi đưa để anh tự lau lấy.
Anh hỏi tôi cảm thấy thế nào? Có vui không?
Tôi không muốn khen anh nhưng chỉ nói lên sự thật: chưa bao giờ em có một cuộc chơi vui như hôm nay. Đây sẽ là kỷ niệm đẹp trong đời em. Chắc sẽ không bao giờ em quên được. Hoá ra trễ đò mà lại hay!
Anh nhìn tôi cười đầy bí ẩn: cuộc đời là vậy đó. Nó là một trò chơi đã có giải đáp, nhưng chúng ta phải tìm cách giải nào có ý nghĩa nhất. Nó chứa đầy bí ẩn trong suốt hành trình ta đi tới. Nó không đơn giản như phép toán một cộng một là hai mà có những mối liên hệ vòng vo chằng chịt.
Tự dưng anh quay sang hỏi tôi: em có nhớ bài hát lúc nãy anh tập cho các cháu con nít ở đây không?
Tôi trả lời: Nhớ chứ! Nhưng em chưa thuộc! Anh hát lại cho em để em ghi được không?
Anh hát cho tôi nghe “Đời con một chuyến đi dài, dọc hành trình con âu yếm trong tay những hạt mầm cho tương lai rực rỡ, con gieo xuống bên vệ đường đất đỏ, thật trìu mến như muốn ngỏ tình yêu … để một sớm, để một trưa, để một chiều, để thêm mưa, để thêm nhiều giọt nắng, đường con qua sẽ rực thắm muôn hoa…”1
Anh vừa hát xong thì đò cập bến. Lúc này đã có nhiều người đang đứng đợi ở bến đò. Chúng tôi đi tới và cùng nhau lên đò.
Bác chèo đò, đang chống sào đẩy con đò ra xa khỏi bến.
Tôi vào trong khoang ngồi nhưng anh lại đứng ở mũi đò, mặt hướng xa, nhìn nước mênh mông, trời cao trong xanh và như đang suy nghĩ điều gì đó. Anh đứng bất động như hoà quyện vào đất trời bao la. Nhìn anh, tôi khát khao được đứng bên, cùng anh hoà quyện vào cái thế giới bao la ấy. Tôi mường tượng ra một ngày nào đó được đầu kề vào vai anh để anh truyền cho sức mạnh. Nhưng không biết bao giờ mới thành hiện thực? Bây giờ tôi muốn lắm nhưng không thể. Tôi không dám phá vỡ cõi riêng tư của anh.
Mọi khi tôi thấy bác chèo đò chèo chậm dãi khoan thai nhưng hôm này tôi có cảm tưởng bác chèo vội vàng hơn mọi khi. Tôi muốn cứ được ngồi nhìn anh như vầy mãi. Nhưng thời gian không ngừng trôi. Đò đã cập bến. Giờ nói lời chia tay với anh đã đến.
Đò cập bến. Bác chèo đò vừa bắt xong tấm ván là anh đã vội vàng dắt xe lên. Không quay lại chào tôi một tiếng. Anh tệ thật. Thế là anh đi thật ư.
Tôi lòng buồn bực, lững thững bước lên bờ chen lấn trong đoàn người đang vội vã bước lên. Tôi như nhói đau trong tim. Tôi có cảm giác hụt hẫng, như vừa tuột mất cái gì đó không bao giờ lấy lại được. Tôi tự xấu hổ và cảm thấy mình thật vô lý…
- Này cô bé. Anh gọi.
Tôi vờ như không nghe thấy. Anh lại gọi lần nữa.
- Này! Thanh Tâm.
Khi anh gọi đúng tên tôi, nghe anh gọi tôi cảm nhận được sự quan tâm, lo lắng anh dành cho tôi. Tôi quay về tiếng anh gọi mà chân vẫn bước vờ như không nhìn thấy anh. Anh vẫy tay về phía tôi và nói:
- Anh quên mất. Em đi xe đò, phải đợi ở đây cả tiếng đồ hồ mới có chuyến xe cuối cùng từ ngã ba chạy vào. Nếu muốn đi quá giang đến ngã ba anh cho đi. Rồi sau đó bắt xe buýt cho nhanh.
Tôi mừng hết cỡ. Nhưng còn ra vẻ lưỡng lự. Vì từ lúc ở bên kia đò tôi đã có ý định xin đi nhờ nhưng còn e ngại. Tính tôi vốn không muốn nhờ vả nhưng với anh sự thể lại khác. Giờ anh gợi ý cho đi qua giang còn gì bằng. Tôi nói ra vẻ đắn đo:
- Vậy cũng được. Em đỡ mất thời gian và cũng đỡ tốn tiền xe.
Con đường từ bến đò ra ngã ba chừng năm cây số. Đường đất lồi lõm. Những lần trước thỉnh thoảng bị nhỡ đò, tôi vẫn đi xe ôm. Tôi phát khiếp khi các chú xe ôm chạy. Ngồi đằng sau người cứ nẩy lên tưng tưng. Mỗi lần như thế, tôi phải ôm chặt lấy bác tài nếu không muốn bị rớt. Lần này không vậy. Anh chạy đều đều. Tôi cảm tưởng những ổ gà ổ vịt đi đâu hết. Tôi mong có cơ hội ôm chầm lấy anh mà không có.
Đi gần đến ngã ba, tôi nghĩ trường mình nằm trên đường về trung tâm thành phố nên muốn xin anh cho quá giang cả thể và để anh biết chỗ có dịp nào ghé qua chơi. Tôi nói lên ý định của mình và được anh đồng ý.
Xe tiếp tục chạy bon bon. Ngồi đằng sau anh bao nhiêu suy nghĩ mông lung hiện về trong trí tưởng tượng của tôi. Nhìn sang hai bên đường rừng đước xanh bạt ngàn trải dài mêng mông, lòng tôi cảm thấy nhẹ nhàng buâng quơ.
Nhoáng một cái, anh đã chạy đến trước cổng trường tôi. Chừng bốn chục cây số từ đò đến trường tôi, những hôm nào thuận giờ, đi xe buýt nhanh cũng phải mất gần hai tiếng. Nay chưa đầy một tiếng đồng hồ tôi đã có mặt trước cổng ký túc xá.
Xe anh dừng trước cổng. Tôi mời anh lên phòng uống nước và để biết chỗ ở của tôi nhưng anh từ chối vì đã trễ giờ, anh phải về.
Mời anh lên phòng không được tôi định xin địa chỉ, số điện thoại để liên lạc. Nhưng nghĩ mình là con gái, ai lại làm vậy. Hơn nữa, tôi có thể dọ tìm, xin bà con ven sông địa chỉ của anh cũng được.
Khi xe anh phóng đi rồi, hoà theo dòng chảy vô tận của dòng người tôi mới giật mình và tiếc nuối. Giữa dòng người đông đúc như kia nêu không biết đích xác về anh khó có thể gặp lại. Một cảm giác tiếc nuối trong tôi.
Từ lần đó đến nay, tôi không bao giờ gặp lại anh nữa. Tôi có dò la tin tức bà con ven sông, nhưng họ chỉ biết anh ở trên thành phố xuống thăm họ là đủ. Họ chẳng có nhu cầu phải xin địa chỉ … Cuộc sống của họ rất đơn giản, nhưng cũng rất chân tình. Tôi âm thầm ấp ủ những tình cảm đẹp có về anh. Tôi chẳng biết phải gọi tình cảm này là gì. Tôi chỉ biết hình ảnh anh luôn hiện diện trong tôi.
Thời gian trôi đi, tôi tốt nghiệp đại học, và làm cho một công ty đa quốc gia. Công ty tôi có chi nhánh ở nhiều nơi trong khắp đất nước. Tôi được chuyển ra Hà Nội để làm việc. Ở đó tôi quen Anh Sơn, sau mấy năm làm chung, tìm hiểu nhau chúng tôi đã tiến tới hôn nhân. Hiện tôi đã có hai con. Chúng đều xinh sắn, ngoan ngoãn. Gia đình tôi hạnh phúc vì chúng tôi có thời gian dài tìm hiểu nhau trước khi tiến đến hôn nhân và chúng tôi được cả hai bên nội ngoại thương mến. Tuy vậy, nơi sâu thẳm tâm hồn, tôi vẫn chừa một khoảng trống cho những hình ảnh cao đẹp tôi đã có về anh, dù chúng chỉ gặp gỡ có một lần trong đời:
“cái thủa ban đầu lưu luyến ấy
ngàn năm hỏi dễ mấy ai quên”.
***
Mấy hôm nay, về đến nhà, nhìn cảnh mẹ tôi nằm thở thoi thóp.
Mẹ như ngọn đèn trước gió. Các bác sĩ bó tay trước căn bệnh của mẹ. Mẹ nằm đợi tử thần đến rước đi. Tôi có cảm giác mẹ rất ung dung tự tại trước cái chết. Mẹ tôi càng bình an bao nhiêu thì tôi lại càng khắc khoải bấy nhiêu. Lâu nay, tôi ít khi suy nghĩ về cái chết, về phận người… Chẳng nhẽ cuộc đời con người bi đát vậy sao? Sống ở đời này làm gì? Trên đời này không thiếu gì những con người thừa ý chí, thừa trí khôn, kể cả những kẻ được mệnh danh là “làm nên lịch sử” chung quy cũng chỉ là những nhân vật của một tấm bi hài kịch vĩ đại và bất tận sao? Con người chỉ là con vật chết rồi hết!
Mấy trăm tiết học về chính trị, học về chủ thuyết Mac - Lênin thật vô ích, không giúp tôi vượt qua được biến cố hiện sinh trước mắt. Nó không giúp trả lời đâu là những giá trị mẹ tôi đã vất vả tạo lập suốt cuộc đời?
Chuyện gì đến sẽ đến. Con người chẳng thể níu kéo thêm cuộc sống ở cõi đời này. Mẹ tôi đã ra đi. Điều làm tôi ngạc nhiên, mẹ tôi ra đi trong bình an, thanh thản, như đi vào giấc ngủ, đi vào một thế giới khác. Tôi cảm nhận mẹ vẫn đang hiện diện đâu đây cùng chị em chúng tôi.
Vùng tôi, lác đác có những người, những gia đình theo đạo Công Giáo. Nguyên do, chú Hai Tương, bên cạnh nhà tôi bị đưa đi “học tập cải tạo” sau biến cố 1975 và ở cùng một ông Cha. Chú được ông cảm hoá. Sau khi “đi học tập” về chú đã hướng dẫn, giúp đỡ những người khác theo Đạo.
Nghe đâu, lúc đầu cũng có nhiều khó khăn từ chính quyền lắm. Tôi biết được chuyện này vì mẹ tôi và các em cũng là những người theo đạo. Phải chăng mẹ tôi đã tìm ra được chân lý cho cuộc đời mình trong niềm tin của Đạo?
Vì đã sống xa gia đình, xa làng xóm cả chục năm và đang là đảng viên, tôi là người duy nhất trong gia đình chưa vào Đạo. Nên trong suốt mấy ngày mẹ tôi nằm xuống bà con đến đọc kinh cầu nguyện cho mẹ, tôi chẳng biết phải làm gì; chỉ biết tiếp đón, mời nước lúc họ mới đến cũng như trước lúc họ về. Có lẽ vì lý do trên, và cũng với tư cách là chị hai, nên sáng này, sáng cuối cùng trước khi tiễn biệt mẹ tôi ra nơi an nghỉ cuối cùng, các em giao cho tôi nhiệm vụ đáp từ khách mỗi khi có hội đoàn đến cầu nguyện, kính viếng. Em tôi còn dặn kỹ càng hôm nay có “cha” đến dâng lễ nên chị …
Không biết tôi được nghe câu nói “tôn giáo là thứ thuốc phiện ru ngủ” bao nhiêu lần trong mọi cuộc học tập liên quan tới chính trị, tôn giáo nhưng những ngày này, đứng trước sự ra đi của mẹ tôi, tình cảm và đức tin của những người đồng đạo đã làm cho tôi suy nghĩ rất nhiều.
Tôi chưa xét đến mặt đức tin, chỉ xét riêng mặt xã hội thì tôn giáo vẫn còn nguyên những giá trị của nó. Nó làm cho con người sống xứng đáng là người hơn.
Tôi đang ngồi trong phòng suy tính công việc thì cậu út chạy vào:
- Chị hai ơi! Cha đến rồi. Nhờ chị ra tiếp chuyện giúp em.
Tôi đứng lên, chỉnh lại quần áo cho ngay ngắn và đi ra. Nhìn thấy anh, tôi quên mất anh là “cha” đến dâng lễ cầu nguyện cho mẹ tôi. Tôi hấp tấp, vồn vã chạy đến bên và hỏi: anh Ngọc! Anh còn nhớ em không? Em là Thanh Tâm, cô bé cách đây hơn mười năm về trước cùng nhỡ đò với anh và sau đó anh cho em đi thăm bà con ven sông và sinh hoạt văn nghệ với các em ở đó. Và rồi, còn cho em đi quá giang về tận ký túc xá… Từ hồi ấy, em tìm gặp anh mà không được.
Anh vẫn dáng người như thủa nào, nở nụ cười hiền từ và hỏi tôi: ủa đây là nhà em à. Tôi có nghe mọi người nói về em, nhưng không nghĩ là người tôi đã từng gặp.
- Dạ! Đây đúng là nhà em.
Lúc này tôi giật mình nhớ ra cậu út nói ra tiếp ông cha. Chẳng lẽ anh là cha đạo? Tôi phải xưng hô thế nào đây. Ngôn ngữ của những người có đạo tôi không rành. Tôi mời anh ngồi và nói chuyện cách thân tình. Tôi kể cho anh đôi chút về hoàn cảnh và cuộc sống của tôi. Lúc này bà con đã đến rất đông, tôi không hiểu tại sao mọi người từ già đến trẻ đều chào anh là Cha một cách thành kính. Tôi chẳng biết mình phải xưng hô thế nào?
Đang băn khoăn thì cậu út vào và mời cha ra chuẩn bị cử hành nghi lễ. Nhìn cung cách nói chuyện tự nhiên và thân tình của tôi với anh, cậu út tôi ngạc nhiên và hỏi:
Chị hai quen cha à? Chị có hay về quê đâu mà lại quen được cha? Với lại cha ở thành phố chỉ những dịp lễ lớn mới về đây “dâng lễ trộm” rồi lại đi ngay, chị gặp ngài khi nào?
Tôi nhìn anh với ánh mắt ra hiệu và gật đầu nói với cậu út: con người là một huyền nhiệm đầy bí ẩn với những mối liên hệ vòng vo chằng chịt…
Trong buổi hành lễ, anh giảng những điều trong đạo tôi không hiểu được nhiều lắm. Có câu anh giảng làm tôi thấy vững tin hơn khi nhìn về cái chết: hạt lúa mì gieo vào lòng đất, có thối đi mới sinh nhiều hạt khác. Bất cứ vật gì sống trên trần gian nay cũng phải vậy, ngay cả đối với cái chết của con người. Chúng ta không chết mà đi vào trong sự gặp gỡ Thiên Chúa một cách đầy đủ nhất.
Nghe anh giảng, trong tôi lại vang lên lời bài hát năm nào anh đã hát cho tôi. Bài hát mà đã bao nhiêu lần trong đời tôi hát để nhắc nhủ mình hãy gieo những hạt mầm cho tương lai rực rỡ …. đường con qua sẽ rực thắm muôn hoa…
Tôi chợt hiểu ra, tại sao mới gặp anh lần đầu trực giác tôi đã cảm nhận nơi anh những điều phi thường. Đời thất có ý nghĩa biết bao khi ta biết gieo xuống cho đời, cho người, cho Trời những hạt mầm sự sống. Một niềm hy vọng về cõi xa xăm nào đó đang bừng lên trong tôi. Con người chết không phải là hết mà đang nảy mầm vào một sự sống mới…!
Lm. Trăng Thập Tự