Ý NGHĨA CỦA TRO TRONG NGÀY LỄ TRO?

Trong phụng vụ thứ Tư lễ tro hiện hành, chúng ta dùng tro đốt từ các nhành cây được phát vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá năm trước. Vị linh mục làm phép tro và xức trên trán các tín hữu theo dấu thánh giá và nói: “Hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro” hay “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Bắt đầu mùa Chay thánh chuẩn bị cho lễ Phục Sinh, chúng ta phải nhớ ý nghĩa của tro mình lãnh nhận: thống hối vì tội lỗi mình.

 

Ý NGHĨA CỦA TRO TRONG NGÀY LỄ TRO?
Lm. William Saunders
Tạp chí Arlington Catholic Herald
 
Tro dùng trong phụng vụ có từ thời Cựu Ước. Tro biểu tượng cho sự u buồn, cái chết và sự thống hối. Chẳng hạn, trong sách Esther, Mordecai mặc áo vải thô và xức tro khi nghe chiếu chỉ của vua Ahasuerus (hay Xerxes, 485-464 BC) ra lệnh giết hết người Do Thái trong Đế quốc Ba Tư (Et 4, 1). Ông Gióp (câu chuyện được viết vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7 và 5 trước Công nguyên) cũng mặc áo vải thô và xức tro khi sám hối (G 42, 6). Khi tiên báo thành Giêrusalem bị quân Babylon chiếm đóng, Đaniel (khoảng năm 550 BC) viết: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, sau khi Giona rao giảng về sự thống hối và hoán cải, cả thành Ninivê ăn chay và mặc áo vải nhặm, ngồi trên đống tro (Gn 3, 5-6). Những bằng chứng trong Cựu Ước này cho thấy từ lâu đã có sử dụng tro cũng như ý nghĩa biểu tượng của nó được nhìn nhận.

Chính Chúa Giêsu cũng nhắc đến tro: khi dân các thành phố từ chối thống hối dù đã chứng kiến những phép lạ và nghe Tin Mừng, Ngài nói: “Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Siđôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối”  (Mt 11, 21).

Giáo hội sơ thời tiếp tục sử dụng tro vì các ý nghĩa biểu tượng của nó. Trong cuốn De Poenitentia (về sự thống hối), Tertullian (khoảng năm 160-220) quy định người thống hối phải “sống u buồn sầu thảm trong sự thô ráp của áo vải nhặm và tro bụi dơ dáy”. Eusebius (260-340), sử gia danh tiếng của Giáo hộ sơ thời, đã thuật lại trong cuốn Lịch sử Giáo Hội về một người bội giáo tên là Natalis đã mặc áo vải thô và xức tro, quỳ gối trước Đức giáo hoàng Zephyrinus để xin tha thứ. Trong suốt thời kỳ giáo hội sơ thời này, tro được rắc lên đầu những người bị buộc phải thú tội và sám hối công khai.

Vào thời Trung cổ (khoảng thế kỷ thứ 8) những người hấp hối được đặt nằm dưới đất trên tấm vải rắc đầy tro. Linh mục rảy nước thánh trên người hấp hối và nói: “Hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro”. Sau đó, linh mục hỏi: “Anh (chị) có bằng lòng với vải thô và tro bụi để minh chứng lòng thống hối trước mặt Thiên Chúa trong ngày phán xét không?”. Người hấp hối trả lời: “Con xin bằng lòng”. Đây là những bằng chứng cho thấy ý nghĩa biểu trưng cho tang chế, cái chết và thống hối.

Cuối cùng, người ta dùng tro để đánh dấu Mùa Chay bắt đầu, một thời gian chuẩn bị 40 ngày (không kể ngày Chúa Nhật) hướng đến lễ Phục Sinh. Nghi thức “Ngày lễ tro” được tìm thấy trong cuốn Nghi thức bí tích Grêgory (thế kỷ thứ 8). Khoảng năm 1000, một linh mục Anglo-Saxon tên là Aelfric rao giảng rằng: “Trong lề luật mới lẫn cũ đều nói rằng người sám hối tội lỗi phải xức tro và mặc vải thô. Vậy thì bây giờ chúng ta phải rắc tro trên đầu để tỏ lòng thống hối vì tội lỗi chúng ta trong suốt mùa Chay tịnh này”. Để củng cố quan điểm của mình, Aelfric kể lại câu chuyện về một người đàn ông không tham dự và xức tro trong ngày thứ Tư lễ tro, liền bị chết ít ngày sau đó trong cuộc săn lợn. Ít ra là từ thời Trung cổ, Giáo hội đã dùng tro để đánh dấu sự bắt đầu của Mùa Chay thống hối, nhắc lại cái chết và sự u buồn vì tội lỗi chúng ta.

Trong phụng vụ thứ Tư lễ tro hiện hành, chúng ta dùng tro đốt từ các nhành cây được phát vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá năm trước. Vị linh mục làm phép tro và xức trên trán các tín hữu theo dấu thánh giá và nói: “Hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro” hay “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Bắt đầu mùa Chay thánh chuẩn bị cho lễ Phục Sinh, chúng ta phải nhớ ý nghĩa của tro mình lãnh nhận: thống hối vì tội lỗi mình. Chúng ta hướng tâm hồn về với Chúa là Đấng chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại để ta được cứu rỗi. Chúng ta làm mới lại lời hứa khi chịu phép rửa tội, bỏ lối sống cũ và sống đời sống mới trong Đức Kitô. Cuối cùng, hãy nhớ rằng thế gian này sẽ qua đi, chúng ta cố gắng sống Nước Trời ngay từ bây giờ và hướng đến ngày hoàn tất trên Thiên Đàng. Điều chính yếu là chúng ta chết cho chính mình và sống cuộc sống mới trong Đức Kitô.

Khi nhớ lại ý nghĩa của tro bụi và cố gắng sống ý nghĩa ấy trong suốt thời gian mùa Chay này, chúng ta phải để cho Chúa Thánh Thần lay động để tỏ lòng bác ái đối với tha nhân. Sứ điệp mùa Chay năm 2003, Đức Thánh Cha đã nói: “Tôi hy vọng các tín hữu sẽ tìm thấy mùa Chay này là thời gian thuận tiện để làm chứng cho Tin Mừng đức ái khắp mọi nơi, vì ơn gọi đức ái là trái tim của Phúc âm hóa”. Ngài cũng lấy làm tiếc về “thời đại này đang bị tính vị kỷ cám dỗ, nó ẩn nấp trong trái tim con người … Ước muốn thái quá về của cải đã ngăn cản con người mở lòng ra với Đấng Tạo Hóa và với anh chị em mình”.

Trong mùa Chay, các hành vi của tình yêu trao ban cho những ai đang thiếu thốn sẽ phải là một phần trong sự thống hối, hoán cải và đổi mới của chúng ta, bởi vì những hành vi đó cấu thành tình liên đới và sự công bằng để xây dựng Nước Trời trong thế gian này.

 

MÙA CHAY

NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA

Jean Luc Muller

Église en fêtes, Téqui, 1990

Là thời gian hướng về ngày lễ Phục Sinh bắt đầu với thứ Tư Lễ Tro, một thời gian thiêng liêng phong phú cho các cộng đoàn Kitô giáo, Mùa Chay với hình thức như hiện nay là kết quả của quá trình tiến triển lâu dài về lịch sử cũng như phụng vụ, xét về độ dài thời gian cũng như sự nghiêm ngặt của các quy định.


Nguồn gốc

Nói thật ra, Mùa Chay là một thiết chế của Giáo Hội không bắt nguồn từ thời Giáo Hội sơ khai. Đối với các Kitô hữu thời các tông đồ, mỗi ngày Chúa Nhật là một cử hành biến cố phục sinh, và mãi cho đến thế kỷ thứ II mới thấy xuất hiện một ngày lễ đặc biệt dành để tưởng niệm cái chết và phục sinh của Đức Kitô để rồi sau đó biến thành Tam Nhật phục sinh (Triduum pascal): thứ Năm Tuần Thánh, thứ Sáu Tuần Thánh và Vọng Phục Sinh.

Biến cố này được chuẩn bị bằng một hay nhiều ngày ăn chay tuỳ theo miền, thường là từ chiều thứ Năm Tuần Thánh cho đến sáng ngày lễ Phục Sinh, hoặc ít ra là trong vòng 40 giờ từ lúc Chúa chịu chết cho đến thời điểm phục sinh. Đến giữa thế kỷ thứ III, ở Alexandrie việc giữ chay kéo dài suốt Tuần Thánh, và đến cuối thế kỷ III thì tại Ai Cập cũng đã xuất hiện việc giữ chay kéo dài đến 40 ngày mà mục đích trước hết dường như là sống lại thời gian chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang mạc cũng như chuẩn bị cho lễ Phục Sinh.

40 ngày

Chẳng bao lâu sau, Mùa Chay 40 ngày của người Ai Cập đã định hình như là thời gian chuẩn bị cho cái chết và phục sinh của Đức Kitô và lan rộng ra khắp Giáo Hội. Vào tiền bán thế kỷ thứ IV, ở Roma đã hình thành một thời gian chay tịnh trong 3 tuần trước khi cử hành biến cố phục sinh và vào khoảng giữa những năm 354 đến 384 họ cũng đã thêm vào 3 tuần nữa. Như vậy chính xác có 40 ngày (quadragesima) giữa Chúa Nhật mở đầu Mùa Chay cho đến khi bắt đầu Tam Nhật Thánh (Triduum).

Nhưng vì không ăn chay vào các ngày Chúa Nhật nên thực tế chỉ có 34 ngày ăn chay trong thời gian này. Cộng thêm ngày thứ Năm và thứ Sáu Tuần Thánh thì cũng chỉ có 36 ngày. Và cũng vì muốn chuẩn bị cho biến cố phục sinh bằng cách rập khuôn chính xác 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang mạc nên vào thế kỷ thứ VII người ta thêm vào 4 ngày còn thiếu, và từ khi ấy người ta bắt đầu Mùa Chay với thứ Tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay mà sau này trở thành thứ Tư Lễ Tro. Vào ngày này, các tín hữu ở Roma tụ họp nhau tại nhà thờ Thánh Anastasie dưới chân đồi Palatin là nơi Đức Giáo Hoàng công bố mở đầu Mùa Chay; rồi mọi người đi thành đoàn rước đến nhà thờ Thánh Sabine trên đồi Aventin để cử hành thánh lễ.

Thứ Tư Lễ Tro

Việc xức tro có nguồn gốc từ thực hành thống hối công khai, một nghi thức bắt buộc dành cho các tín hữu phạm lỗi nặng hoặc làm gương xấu trước khi họ được chính thức tái hoà nhập cộng đoàn vào ngày thứ Năm Tuần Thánh, họ được xá tội và được phép rước lễ trở lại vì trước đó họ bị cấm.

Một trong những thực hành thống hối công khai này là xức tro trên đầu. Cử chỉ này thịnh hành ở Roma từ thế kỷ thứ IV và dần dần lan ra các xứ Kitô giáo, rồi nhiều tín hữu tự nguyện xức tro trên đầu để biểu lộ ý muốn thống hối. Chính các Đức Giáo Hoàng cũng đã chấp nhận nghi thức này và vào thế kỷ XI thì các ngài đã kết hợp việc thống hối này với việc bắt đầu Mùa Chay, do đó mà có tên gọi thứ Tư Lễ Tro và thực hành xức tro.

Là bụi đất, hình ảnh của tội lỗi và sự mong manh của con người, là những gì còn lại của thân xác sau khi ngọn lửa sự sống vụt tắt đi (St 3, 19; 18, 27), tro rắc trên đầu mà ngày nay người ta xức trên trán biểu lộ sự thống hối và tang chế (Is 58, 5; 61, 3; Gr 6, 26). Chính vì thống hối dưới bụi tro và áo mặc áo vải thô mà dân thành Ninivê nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa (Gn 3)

Linh đạo Mùa Chay

Là thời gian hoán cải dành cho hối nhân, trong những thế kỷ đầu tiên, Mùa Chay cũng là thời gian chuẩn bị cho các dự tòng chịu phép rửa để được gia nhập cộng đoàn Kitô giáo vào đêm Phục Sinh, sau khi giữ chay và tiết chế trong suốt thời gian này cũng như miệt mài cầu nguyện.

Như thế, khi khuyên nhủ các tội nhân công khai hối cải, Giáo Hội cũng khích lệ toàn thể cộng đoàn thống hối, và khi nhắn gởi với các dự tòng, Giáo Hội cũng chuẩn bị cho mọi tín hữu sống lại ân sủng phép rửa của chính mình  
          
Khi chuẩn bị cho mọi người gặp gỡ Thiên Chúa, đối với các tín hữu, Mùa Chay đã trở thành một hành trình tiến về Thiên Chúa, một con đường vòng băng qua hoang mạc, một cuộc chiến đấu với những cám dỗ trong đời sống. Giáo Hội đề nghị chúng ta sống trọn vẹn cuộc sống Kitô hữu của chúng ta một cách nồng nhiệt hơn trong suốt mấy tuần hướng về ngày lễ Phục Sinh.

Như đoàn dân của Môisen lang thang nhiều năm dài trước khi vào Đất Hứa, chúng ta cũng khám phá ra rằng hành trình tiến về Thiên Chúa, con đường tiến về Nước Trời của chúng ta không phải là không gặp khó khăn, chướng ngại, thụt lùi, đôi khi có phản kháng nữa; thế nhưng Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện để mang lại cho ta hy vọng và niềm tin. Khi kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô vẫn luôn trung thành với Chúa Cha trong thử thách cuối cùng, chúng ta sống kinh nghiệm cuộc vượt qua tiến về Chúa Cha qua sự sống và cái chết, chúng ta dần tiến về mầu nhiệm của Đức Kitô để hiệp thông vào đấy một cách sâu xa hết sức có thể.

Làm thế nào để diễn dịch cách cụ thể cuộc hành huơng tiến về với Thiên Chúa mà mỗi Kitô hữu được mời gọi trong suốt thời gian Mùa Chay này? Đã có câu trả lời được lập đi lập lại qua các bản văn phụng vụ ngày Chúa Nhật (và những ngày khác) trong thời gian chuẩn bị cho biến cố phục sinh: các bài đọc Tin Mừng cũng như Kinh Tiền Tụng đã dành ưu tiên cho bộ ba này: cầu nguyện, ăn chay và chia sẻ.

 
  1. Cầu nguyện
Là khoảng không ngút mắt nơi không có sự sống, hoang mạc mà dân của Giao Ước cũ và chính Đức Kitô đã đi qua đưa chúng ta đến yếu tính của đời sống, dẫn chúng ta gặp gỡ với Hữu Thể độc nhất, cội nguồn cho hiện hữu của chúng ta: Thiên Chúa. Là nơi chốn gợi lên sự vô cùng của Thiên Chúa, chính trong hoang mạc mà Charles de Foucauld đã tận hiến hoàn toàn cho Ngài qua lời cầu nguyện. Như thế, hoang mạc và Mùa Chay là nơi chốn và thời gian để gặp gỡ Chúa trong lời cầu nguyện.

 Qua lời cầu nguyện, đời sống chúng ta hướng về Thiên Chúa, chúng ta để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn mình theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá để trở nên sẵn sàng cho Đức Kitô và cho anh em. Cầu nguyện là “lương thực hằng ngày” nuôi sống chúng ta bằng tình yêu của Thiên Chúa, không có nó tâm hồn chúng ta có nguy cơ xa rời ý muốn của Chúa Cha.

Theo gương các dự tòng vào những thế kỷ đầu tiên đã toàn tâm toàn ý cầu nguyện cách quảng đại và thực tâm, theo gương Đức Kitô lui vào trong cô tịch của hoang mạc Giuđa, chúng ta hãy biến Mùa Chay thành một thời gian gặp gỡ Chúa, chiêm niệm và tạ ơn, ngợi ca Danh Thánh Chúa và biến đổi tâm hồn.

 
  1. Ăn chay
Là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, đối với dân Israel cũng như đối với Đức Kitô, hoang mạc đồng thời cũng là thời gian thử thách, là trận chiến chống lại thế lực sự dữ để không nhường bước trước thú vui, điều choáng ngợp và quyền lực, ba thần tượng mà con người thường hy sinh tất cả để đạt cho được. Những cám dỗ này không ngừng quấy nhiễu chúng ta và là nguồn gốc nhiều sự dữ, ngay từ khi xuất hiện Mùa Chay, việc từ bỏ những cơn cám dỗ này được diễn dịch bằng việc ăn chay, một thực hành rất đòi hỏi nhưng lại đạt được nhiều kết quả thiêng liêng. Khi giảm thiểu những nhu cầu sống để chỉ giữ lại những gì thiết yếu, việc ăn chay giúp chúng ta trở nên những người nghèo khó trong tâm hồn (xem Các Mối Phúc), nghĩa là thành những con người cần đến Thiên Chúa, nhường cho Ngài một chỗ trong đời sống mình, người nghèo trong Tin Mừng là những người đặt hết niềm hy vọng vào Chúa, háo hức gặp gỡ với Đức Kitô. Như vậy sự khổ hạnh và từ bỏ mọi sự rất cần thiết để Thánh Thần Thiên Chúa xâm chiếm lấy con người mình.    
         
Nếu chay tịnh trước hết có nghĩa là từ bỏ của ăn thì trong ý nghĩa tận căn hơn nữa ăn chay cũng có nghĩa là từ bỏ tính ích kỷ, tính cứng đầu và lòng tham lam của chúng ta: “Đây là những điều bạn phải thực hành khi muốn ăn chay. Trước hết, hãy xa lánh mọi lời nói và ước muốn xấu xa, thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi thứ hư không đời này. Nếu giữ được điều đó, việc ăn chay của bạn sẽ nên hoàn hảo. Sau khi hoàn tất những gì tôi đã viết trên đây, vào ngày ăn chay, bạn không ăn gì ngoại trừ bánh mì và nước lã và rồi hãy tính toán giá lương thực mà bạn thường ăn trong ngày ấy, bạn dành tiền ấy để cho quả phụ, cô nhi hoặc người nghèo … Nếu bạn ăn chay theo như những điều tôi khuyên nhủ trên đây, hy sinh của bạn sẽ được Thiên Chúa chấp nhận” (Le Pasteur d’Hermas).

 
  1. Chia sẻ
Ngay từ thế kỷ thứ II, việc ăn chay đã có khuynh hướng chia sẻ như là một phương tiện giúp đỡ những ai đang túng thiếu để chúng ta có thể tiến đến gần Thiên Chúa hơn. Thánh Cyprianô thành Carthage vào thế kỷ thứ III cũng đã để lại những dòng chữ rất thuyết phục về chủ đề này: “Những người giàu có và dư dật … bạn sẽ trở nên vàng ròng khi tinh luyện mình qua các công việc vì đức công bình và làm bố thí … Hãy xem trong Tin Mừng, một bà goá nghèo đã đi vào trong lời dạy của Thiên Chúa khi bà bố thí giữa lúc thất vọng và túng bấn. Bà ném vào trong thùng tiền hai đồng xu cuối cùng. Chúa đã lưu ý và nhấn mạnh về tấm lòng quảng đại của bà và nói: “Bà goá này đã dâng cho Thiên Chúa nhiều hơn mọi người khác” … Đức Giêsu Kitô muốn chúng ta hiểu rằng của bố thí của chúng ta sẽ đến với chính Thiên Chúa và rằng những ai bố thí thì đẹp lòng Chúa”.

Chia sẻ cũng là tình yêu tha nhân, nhìn nhận người khác như đồng loại của mình, nhận ra Đức Kitô trong những người anh em hèn mọn nhất. Đây là biểu hiện tình yêu Thiên Chúa của chúng ta và không thể được diễn dịch đơn thuần chỉ bằng một phong trào cứu trợ hay phong trào đoàn kết nào đó. Qua sự thiếu thốn và chia sẻ, chúng ta đáp ứng được giới răn kép của tình yêu: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi và yêu tha nhân như chính mình”.

Ghi chú:

Khi nói về việc ăn chay, mãi cho đến thế kỷ thứ IX, tất nhiên là việc giữ chay nghiêm nhặt hơn ngày nay nhưng không phải là các tín hữu cả ngày không ăn uống gì. Thật ra, người ta phân biệt:
- Ăn chay đơn giản, kiêng mọi thứ thịt, cả trứng, phômai, bơ và sữa. Việc ăn chay này kéo dài suốt Mùa Chay, trừ các ngày Chúa Nhật.
- Ăn chay nhặt một vài ngày nào đó trong thời gian này, nhất là thứ Sáu và thứ Bảy Tuần Thánh. Trong những ngày này người ta chỉ dùng một bữa ăn nhẹ duy nhất trong ngày.
Hiện nay, Giáo Hội chỉ buộc kiêng thịt vào các ngày thứ sáu của Mùa Chay, ăn chay cùng với kiêng thịt vào các ngày thứ Tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh. “Luật kiêng thịt buộc những người đã 14 tuổi trọn. Luật ăn chay buộc hết mọi người đã đến tuổi trưởng thành cho tới lúc bắt đầu 60 tuổi” (Giáo luật điều 1252).
Nhưng trọn Mùa Chay vẫn là thời gian thống hối, các ngày thứ Sáu khác trong năm cũng vậy. Trong những ngày này, “Các tín hữu chú trọng đặc biệt đến sự cầu nguyện, thi hành việc đạo đức và việc bác ái, từ bỏ bản thân, bằng cách chu toàn các bổn phận riêng và nhất là bằng cách giữ chay và kiêng thịt” (Giáo luật điều 1249). Việc giữ chay và kiêng thịt cũng có thể được thay thế bằng các hình thức thống hối khác do Hội Đồng Giám Mục quy định (Giáo luật điều 1253).


Phụng vụ

Sự thống hối của Mùa Chay được biểu lộ ra bên ngoài qua màu lễ phục phụng vụ (màu tím) và không đọc kinh Allêluia và kinh Vinh Danh trong thánh lễ và các giờ kinh. Ngày xưa, việc đánh đàn trong nhà thờ hoàn toàn bị bãi bỏ trong thời gian này, ngày nay người ta hết sức giảm thiểu, chỉ đệm đàn để hát.

Một nốt nhạc vui đột nhiên cắt ngang những ngày thống hối này: đó là ngày Chúa Nhật Vui (Laetare), hay Chúa Nhật thứ tư Mùa Chay với lễ phục màu hồng thay cho màu tím. Nguyên thuỷ của ngày này được tìm thấy trong nghi thức trao ban Tín biểu đức tin (kinh Tin Kính) cho các dự tòng vào ngày thứ Tư sau Chúa Nhật thứ tư Mùa Chay. Vì thế, niềm vui của Giáo Hội đã được biểu lộ trong phụng vụ ngay từ ngày Chúa Nhật vì mình sắp được thâu nhận những tín hữu mới. Lý do thật sự của ngày Chúa Nhật Vui (Laetare) – mà tên gọi xuất phát từ ca nhập lễ trong ngày này (Laetare Jerusalem – Hãy vui lên hởi Giêrusalem) – sau đó đã bị lãng quên để rồi mang lấy một ý nghĩa khác là “để an ủi cho các tín hữu khỏi bị ngã lòng nản chí vì nỗ lực kéo dài trong Mùa Chay và giúp họ tiếp tục chịu đựng những hạn chế với tâm hồn thanh thản và nhẹ nhàng” (Giáo Hoàng Innôcentê III, 1216).

Bài đọc các ngày Chúa Nhật Mùa Chay

Hướng về ngày lễ Phục Sinh, phụng vụ Lời Chúa trong 5 Chúa Nhật Mùa Chay (Chúa Nhật thứ sáu là Lễ Lá và Thương Khó) được diễn dịch bằng cách gợi lại những giai đoạn lớn trong hành trình của nhân loại tiến về ngày Phục Sinh của Đức Kitô:

- Những giao ước nguyên thuỷ (Năm A: St 2, 7-3, 7; Năm B: St 9, 8-15; Năm C: 26, 4-10)
- Abraham (Năm A: St 12, 1-4; Năm B: St 22, 1-18; Năm C: St 15, 5-18)
- Môisen (Năm A: Xh 17, 3-7; Năm B: Xh 20, 1-17; Năm C: Xh 3, 1-15)
- Đất Hứa (Năm A: 1 Sm 16, 1-3; Năm B: 2 Sb 36, 14-23; Năm C: Gs 5, 10-12)
- Các ngôn sứ (Năm A: Ed 37, 12-14; Năm B: Gr 31, 31-34; Năm C: Is 43, 16-21)

Chủ đề của các bài Tin Mừng:

- Cơn cám dỗ và sự biến hình của Đức Kitô trong hai Chúa Nhật đầu tiên theo một trong ba Tin Mừng Nhất Lãm.
- Giáo lý về bí tích rửa tội trong ba Chúa Nhật còn lại của năm A (Ga 4, 5-42; Ga 9, 1-41; Ga 11, 1-45)
- Thập giá, dấu hiệu tôn vinh của Đức Kitô, trong ba Chúa Nhật còn lại của Năm B (Ga 2, 13-25; Ga 3, 14-21; Ga 12, 20-33)
- Lòng thương xót của Chúa kêu mời hối cải trong ba Chúa Nhật còn lại của Năm C (Lc 13, 1-9; Lc 15, 1-32, Ga 8, 1-11)

Cuối cùng là các bài thánh thư được chọn lựa để làm rõ nghĩa cho bài Tin Mừng hay bài trích Cựu Ước.
 
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ .

Nguồn tin: Gpquinhon.org