CÁC BÀI THUYẾT TRÌNH - TỌA ĐÀM VỀ ƠN GỌI VÀ SỨ VỤ NGƯỜI GIÁO DÂN

ĐT I. Giáo huấn của Giáo hội về ơn gọi và sứ vụ của giáo dân trong Giáo hội và xã hội (Giuse Lm Nguyễn Trọng Viễn OP). ĐT II. Người giáo dân trưởng thành (Gd Giêrônimô Nguyễn Văn Nội). ĐT III. Sự dấn thân của giáo dân trong các lãnh vực trần thế: Ơn gọi nên thánh trong môi trường sống (Bs Giuse Nguyễn Đăng Phần).

 

TỌA ĐÀM VỀ ƠN GỌI VÀ SỨ VỤ NGƯỜI GIÁO DÂN
THEO CÔNG ĐỒNG VATICAN II
Sáng 29/09/2012 tại Trung Tâm Mục Vụ Sài-gòn
 

Nhân kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vatican II (0962- 2012), Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Thành phố HCM , kết hợp với Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình đã tổ chức buổi Toạ đàm với chủ đề: “Ơn gọi và sứ vụ của giáo dân theo Công đồng Vatican II”. 

Toạ đàm diễn ra tại Hội trường Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Thành phố HCM vào sáng thứ Bảy 29/9/2012 với khoảng 500 người tham dự.  Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp OP, GM giáo phận Vinh kiêm chủ tịch UB Công lý và Hoà bình HĐGM VN, phát biểu khai mạc và bế mạc toạ đàm.

Ba đề tài được trình bày trong buổi toạ đàm là: Gíao huấn của Giáo hội về ơn gọi và sứ vụ của giáo dân trong Giáo hội và xã hội do cha Giuse Nguyễn Trọng Viễn, OP trình bày; Người giáo dân trưởng thành do ông Giêrênimô Nguyễn Văn Nội trình bày và Sự dấn thân của giáo dân trong các lĩnh vực trần thế: Ơn gọi nên thánh trong môi trường sống do bác sỹ Giuse Nguyễn Đăng Phấn và nhóm bạn trình bày.

Sau phần trình bày của các diễn giả, cha Phêrô Nguyễn Văn Hiền, giám đốc Trung tâm MV Tgp Tp HCM đã hướng dẫn mọi người trao đổi thảo luận về các đề tài vừa nghe. Các ý kiến tham gia hội thảo đã nhấn mạnh đến vai trò của người giáo dân trong Giáo hội và xã hội. Giáo dân cần tích cực cộng tác và chia sẻ trách nhiệm với hàng giáo sỹ, giáo dân cần mạnh mẽ dấn thân để thăng tiến xã hội trần thế… Để có thể trưởng thành và dấn thấn trong các sứ vụ, người Kitô hữu phải có và phải học 4 “bửu bối” căn bản là Kinh Thánh, Sách Giáo lý HTCG, Văn kiện Công đồng Vatican II và Giáo huấn của Giáo hội về các vấn đề xã hội.

Buổi toạ đàm phần nào đã giúp các tham dự viên sống lại những tâm tình “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay…”
 

Đề Tài I.

Giáo huấn của Công đồng (và các Giáo hoàng kế tiếp) về ơn gọi và sứ vụ của giáo dân trong Giáo hội và thế giới[1].

 (Giuse Lm Nguyễn Trọng Viễn OP).

 

1.      Vài dòng về lịch sử người giáo dân[2]

Người giáo dân đã có mặt ngay từ buổi đầu của lịch sử Giáo hội và chắc chắn sẽ còn luôn có mặt trong suốt những chặng đường lịch sử của Giáo hội trên đường hướng về ngày Cánh Chung. Tuy nhiên, vị thế của người giáo dân trong dòng lịch sử đó không phải lúc nào cũng được công nhận như một thành phần thiết yếu và chủ động, và cũng không phải lúc nào cũng xếp vào hạng "những con chiên ngoan ngoãn, thụ động, chỉ có nghĩa vụ để người khác hướng dẫn mình và theo các chủ chăn mình như đàn cừu dễ bảo".

Chúng ta cũng nhìn lại những bước "thăng trầm" đó.

 

1.1.  Giáo dân trong Kinh Thánh và trong Giáo hội sơ khai

Trong Kinh Thánh không có từ ngữ "giáo dân". Nhưng Kinh Thánh dùng nhiều từ khác để chỉ chung một cộng đoàn thuộc về Thiên Chúa như: Giáo hội Chúa (Chúa Kitô), Dân Thiên Chúa, Thân Mình Chúa Kitô. Các phần tử các dân tộc trong cộng đoàn đó thì được gọi là: "những người được chọn", "các thánh", "các môn đệ", nhất là từ ngữ "anh em".

Qua tất cả những từ ngữ Thánh kinh đó, người ta đọc được những ý nghĩa chung :

- Đây là một dân cánh chung, được Thiên Chúa kêu gọi để tiến vào vương quốc của Ngài, thừa hưởng đời sống vĩnh cửu của Chúa trong Đức Kitô.

- Họ là những người đáp lại lời Chúa gọi, gia nhập vào hàng ngũ dân Chúa, được hiệp thông với Đức Kitô và nhờ Đức Kitô được thông hiệp đời sống thần linh của Chúa. Từ đó, họ cũng thông hiệp với nhau nữa.

Như thế, một cộng đoàn Kitô hữu trước tiên và căn bản mang ý nghĩa là một cộng đoàn được thánh hiến cho Thiên Chúa, khác biệt với thế giới chứ không diễn tả một sự phân biệt bên trong giữa giáo sĩ và giáo dân. Tất cả mọi người được Thiên Chúa kêu gọi, được lãnh bí tích Thánh Tẩy đều là những người được thừa kế gia sản Thiên Chúa ban trong Đức Kitô, có sự bình đẳng về phẩm giá và đều lãnh trách nhiệm chung về sứ vụ Chúa giao cho, bởi vì họ được chọn để làm ích cho "nhiều người".

Điều đó không có nghĩa là không có khác biệt nào về vai trò của các thành phần : "Thần khí tỏ mình ra nơi mỗi người mỗi cách là vì ích chung" (1 Cr 12,7 tt).

* Từ ngữ “giáo dân” xuất hiện

Dần dần các công đoàn Kitô hữu phát triển rộng lớn hơn, người ta cảm thấy cần phải củng cố tổ chức để điều hành sinh hoạt của cộng đoàn, cần phải xác định vai trò đặt tên cho mỗi thành phần riêng biệt cũng như cần chỉ định rõ công tác của mỗi thành phần trong các buổi cử hành phụng vụ. Thế là từ ngữ "giáo dân" xuất hiện, trước tiên, trong thư của thánh Clement (năm 95), để chỉ một người tín hữu bình thường, phân biệt với phó tế và linh mục; sau đó, trong thư thánh Justin, để chỉ những người đối đáp với vị chủ tế trong phụng vụ Thánh Thể.

 

1.2.  Giáo dân trong Giáo hội thời tử đạo

Trong thời kỳ Giáo hội bị bách hại, có hai luồng tư tưởng chính vẫn tồn tại song song hoặc nhiều khi đối nghịch nhau:

- Một đàng khi phải chịu bách hại khổ đau, Giáo hội ý thức mãnh liệt mình là dân Cánh chung tha thiết mong chờ Chúa đến để giải thoát và hoàn tất công trình cứu độ của Ngài. Tất cả mọi thành phần trong Giáo hội, giáo sĩ cũng như giáo dân, đều có một nỗi mong chờ chung và đều gấp rút thi hành sứ vụ Chúa trao cho, nỗ lực rao giảng Tin Mừng để chuẩn bị đón Ngày Chúa Quang Lâm mà họ tưởng chừng như đã sắp tới. Trong tình hình như thế, Giáo hội ý thức mạnh mẽ về một sự khác biệt, một sự đối kháng giữa mình với thế giới.

- Đàng khác, vì Giáo hội vẫn phải tồn tại, vẫn phát triển và vẫn phải tổ chức đời sống của những cộng đoàn, nên không thể không chú tâm tới việc sắp xếp, tổ chức một phẩm trật để điều hành, để quyết định nhiều vấn đề trong cộng đoàn. Hơn nữa, thời đó, ảnh hưởng của tư tưởng Platon đang lan rộng, nhiều giáo phụ coi phẩm trật trong Giáo hội như là phản ảnh của trật tự của thiên quốc, các chức vụ trong Giáo hội không chỉ là sự khác biệt cần phải có trong cách tổ chức một cộng đoàn, nhưng còn là những trách vụ đại diện đặc biệt của Thiên Chúa, của Đức Kitô.

Từ đó, dần dần hình thành một cơ cấu phẩm trật trong Giáo hội, cơ cấu này vì chưa có được một nền tảng thần học vững chắc nên thường nặng về tính cách pháp lý nhiều hơn.

 

1.3.  Giáo dân trong Giáo hội thời Trung Cổ

Với chiếu chỉ Milan 313, vua Constantinô đã mở màn cho một giai đoạn mới trong lịch sử Giáo hội. Giáo hội được sống tự do, an bình, được công khai sống đạo và truyền đạo. Đó quả thật là một hạnh phúc lớn lao của cả Giáo hội cũng như của mọi Kitô hữu sau bao năm bị cấm cách. Tuy nhiên điều đó không phải là không kéo theo những hậu quả làm thay đổi sâu xa bộ mặt của Giáo hội.

Cuộc sống an bình làm cho ý thức về một Giáo hội Cánh Chung càng ngày càng giảm bớt, đồng thời củng cố thêm nhu cầu cần phải tăng cường cơ cấu tổ chức. Ngay sau khi hết thời bách hại, khuynh hướng quyền bính đã phát triển mạnh mẽ và người giáo dân càng ngày càng trở thành những người cấp dưới trong Giáo hội. Cuối thế kỷ IV cuốn sách mang tên "Giáo huấn các Tông Đồ" đã viết : "Người giáo dân chỉ là những đứa con nít phải canh chừng".

Hơn thế nữa, trong lòng đế quốc Roma, Giáo hội càng ngày càng phát triển có thêm nhiều đặc quyền và trở thành một thế lực bao trùm hầu hết thế giới tây phương. Giáo hội và trần thế ban đầu thì nương tựa, hỗ trợ mật thiết cho nhau, sau đó gần như đồng nhất thành một. Sự khác biệt, đối lập giữa Giáo hội và thế giới biến mất và thay thế vào đó là sự phân biệt, đôi khi sự đối kháng ngay trong lòng Giáo hội. Người ta bắt đầu sắp xếp các thứ bậc, phân biệt các cách sống đạo, đặt ra mỗi ngày mỗi nhiều thêm chức tước...

Theo dòng thời gian và cùng nhịp độ với hoàn cảnh xã hội, chính trị thuận lợi cho cho Giáo hội, khoảng cách giữa hàng giáo sĩ, tu sĩ và người giáo dân càng ngày càng rộng thêm hơn :

- Khoảng đầu thế kỷ V, các linh mục có y phục riêng.

- Khoảng cuối thế kỷ V, chức "cắt tóc" được thiết lập để đánh dấu những người của Giáo hội.

- Từ thế kỷ thứ VII, với phụng vụ bằng tiếng La tinh, giáo dân  càng ngày càng thụ động hơn và càng có thêm những khoảng cách trong cộng đoàn phụng vụ: phần lễ quy được đọc thầm, các lời nguyện linh mục đọc ở ngôi thứ nhất số ít (con, tôi) thay vì là chúng con (chúng tôi).

Những sự phân biệt về phương diện tổ chức như thế đương nhiên kéo theo những hậu quả về phương diện phẩm giá và quan niệm tu đức. Trong một thế giới (Tây phương) hầu như toàn tòng, sứ mệnh truyền giáo mất dần ý nghĩa, thay vào đó là nỗ lực sống đời sống luân lý. Mức độ của đời sống trọn lành cũng được đánh giá ăn khớp theo tổ chức phẩm trật: trước hết là giáo sĩ đến tu sĩ rồi giáo dân.

Ban đầu người ta gọi các tu sĩ là những "con người thiêng liêng" sau cũng áp dụng cho cả các giáo sĩ triều, đối ngược lại với những "con người xác thịt", tức là người giáo dân. Giáo sĩ và tu sĩ được ví như bên phải và giáo dân như bên trái trong một thân thể. Nền tảng của phẩm giá người Kitô hữu không còn là bí tích Thánh Tẩy nhưng là bí tích Truyền Chức, lời khấn dòng, bí tích Hôn nhân. Trọng tâm của đời sống Kitô hữu không còn là trung thành và phát triển gia sản chung mà mọi người được thừa hưởng khi được Thánh Tẩy, mà là nỗ lực từ bỏ ma quỷ, thế gian và xác thịt....

Tóm lại, Giáo hội dần dần biến từ một Giáo hội Cánh chung, nghĩa là một Giáo hội lữ hành qua trần gian để tiến về vương quốc Thiên Chúa trong ngày cánh chung, để trở thành Giáo hội luân lý, đóng chốt trong trần gian và nỗ lực thiêng liêng hóa trần gian.

Tuy nhiên, trong thời kỳ này, dù bị đánh giá thấp so với các "bậc" khác trong Giáo hội, người giáo dân khá hăng say nhiệt thành; họ cố gắng nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Nhiều hội đoàn được thành lập để liên kết với nhau, giúp đỡ nhau sống đời sống Kitô giáo tốt đẹp, thánh hóa đời sống hôn nhân, nghề nghiệp, của cải và đời sống binh nghiệp. Những hội đoàn này hoạt động khá sầm uất, họ có thánh quan thày riêng, cờ hiệu và đồng phục riêng. Trong đó đặc biệt phải kể đến các tổ chức dòng ba. Những tổ chức này đã phát triển rộng rãi và vẫn còn tồn tại mãi đến ngày nay.

Cũng vào thời kỳ này, Giáo hội ý thức được một khía cạnh chưa hề có trong thời Giáo hội chịu bách hại: đó là sứ vụ trần thế của người giáo dân. Giáo hội muốn hướng đời sống trần thế trực tiếp quy hướng vào việc phụng thờ Thiên Chúa, hướng tới ơn cứu độ, tới đời sống luân lý theo tinh thần Kitô giáo. Tất cả đời sống trần thế được đóng khung trong khuôn khổ tôn giáo và theo những luật lệ của Giáo hội. Tuy nhiên, sứ vụ này mới chỉ được hiểu về phương diện chính trị mà thôi, và cũng chỉ mới được áp dụng cho các ông hoàng, là những người giáo dân ưu tuyển. Giáo hội chăm chút đến đời sống đạo đức của các ông hoàng, nêu lên ý nghĩa đạo đức trong trách vụ cai quản quốc gia, chức tước của các ông cũng được thánh hóa với nhiều nghi thức gần như là chức thánh. Sở dĩ như vậy, là vì khi đó Giáo hội tin tưởng rằng một ông hoàng đạo đức, biết xử dụng tốt luật pháp và quyền hành chính trị thì có thể bảo đảm cho một dân chúng tốt.

 

1.4.  Giáo dân trong thời cận đại

Từ thế kỷ XVI đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử thế giới. Những biến chuyển trong giai đoạn này của thế giới tây phương không chỉ liên đến tây phương, nhưng có nhiều liên lụy với toàn thế giới. Những yếu tố chính trong khúc ngoặt lịch sử này là :

- Trào lưu nhân bản thuyết nhấn mạnh tính cách tự lập và cao qúi của con người.

- Những khám phá mới về khoa học, kỹ thuật có ảnh hưởng sâu rộng: máy in, máy hơi nước, la bàn....

- Những cuộc khám phá và những mối liên lạc giao thương với các lục địa khác với châu Âu, có những nền văn hóa và tôn giáo không phải là Kitô giáo.

- Cuộc cách mạng Pháp 1789 khởi đầu một phong trào cách mạng khắp nơi, muốn tách rời Giáo hội và nhà nước.

- Trào lưu vô thần phát triển ngay trong lòng châu Âu Kitô giáo.

- Cuộc cải cách Tin lành và các trào lưu cải cách  trong Giáo hội Công giáo (các dòng tu mới, công đồng Trente....). Nhiều yếu tố lớn trong Giáo hội và xã hội như vậy đưa đến một tiến trình tước đoạt, giảm thiểu ảnh hưởng của Giáo hội mỗi ngày mỗi mạnh hơn. Nhiều lãnh vực trước kia nằm trong tay Giáo hội nay tìm cách giữ sự độc lập riêng, trước tiên là về phương diện chính trị sau đó là văn hóa, khoa học, kỹ thuật, giáo dục cho đến cả lãnh vực bác ái và luân lý nữa.

Thế là sau hơn 10 thế kỷ, Giáo hội một lần nữa lại cảm thấy mình chỉ là một nhóm nhỏ giữa dòng một thế giới "trần tục" bao la. Sự phân biệt, đối kháng giữa Giáo hội và thế giới lại xuất hiện như trước kia và như một thách thức nghiêm trọng. Cũng từ đó mối hiệp nhất trong lòng Giáo hội lại bắt đầu hình thành, địa vị của người giáo dân được khôi phục lại dần dần.

Trước hết phải kể đến cuộc cải cách Tin Lành. Trào lưu này đưa tới một sự phân ly đau đớn cho Giáo hội, nhưng không phải là không có một số nét góp phần thúc bách cải tổ Giáo hội và đánh giá lại vị thế, vai trò của người giáo dân trong Giáo hội. Một số nét tích cực của phong trào cải cách Tin Lành là :

- Ý thức được tình trạng "chưa được Phúc Âm Hóa" ở nhiều miền, đặc biệt các vùng nông thôn, phong trào tin lành đã phát khởi một trào lưu rao giảng Tin mừng, làm rõ bản chất của Giáo hội trước hết là để phục vụ Tin Mừng.

- Đề cao việc đọc trực tiếp Kinh Thánh, dịch Kinh Thánh ra tiếng địa phương để người giáo dân không biết tiếng La tinh có thể đọc được.

- Khôi phục lại giá trị chức tư tế cộng đồng. Luther viết : "Chính phép Thánh Tẩy, việc loan báo Tin mừng và đức tin là những yếu tố duy nhất tạo nên tình trạng Giáo hội và thiết lập dân Kitô giáo".

Đáng tiếc là Luther đã đi quá xa khi đề cao chức tư tế cộng đồng để chống lại chức tư tế thừa tác và hàng giáo phẩm. Phản ứng chống lại những quá đáng của Tin lành, công đồng Trentô nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của chức linh mục thừa tác và không nói đến chức tư tế cộng đồng của người giáo dân. Tuy nhiên, trong đời sống, các nhà cải cách Công giáo không hề quên rằng bất cứ ai đã chịu phép rửa tội đều có trách nhiệm đối với sức sống của Giáo hội. Chẳng hạn vào cuối thế kỷ XVI, Philippê Nêri khi bắt đầu công cuộc tông đồ ở Roma cũng mới chỉ là một người đã chịu Thánh Tẩy. Tại Pháp, bà Acarie, đã biến nhà mình thành một trong những trung tâm tích cực nhất của cuộc cải cách Công giáo. Cả những nhà cải cách thuộc hàng giáo sĩ cũng nhắm đến mục tiêu "canh tân đời sống Kitô giáo" dựa trên việc khám phá lại ơn gọi do bí tích Thánh Tẩy (Jean Jacques Olier).

 

1.6. Giáo dân trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX

Cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 đã đưa đến một trào lưu không thể nào cưỡng lại được nữa: các quốc gia dần dần tách khỏi bàn tay của Giáo hội để biến thành những xã hội hoàn toàn tục hóa. Ban đầu nỗ lực của các vị Giáo hoàng là tìm cách khôi phục lại một xã hội Kitô giáo như xưa, và không có cách nào khác lại phải cậy nhờ đến sự đóng góp của người giáo dân. Thế là hàng rào giới hạn sức lực của người giáo dân được mở ra, nhiều giáo dân nhiệt thành hăng hái lao vào cuộc, rồi các hiệp hội được thành lập nhằm tới các mục tiêu bác ái (chẳng hạn: Hội Thánh Vinh Sơn Phaolô) hoặc mục tiêu tông đồ (chẳng hạn: Hiệp hội Thanh Niên Công giáo Pháp ra đời năm 1886).

Thế nhưng, trào lưu thế tục hóa không vì thế mà suy giảm; các vị Giáo hoàng nhận ra là không thể quay ngược lại dòng lịch sử. Từ đó, ý thức tông đồ của Giáo hội cũng dần dần biến chuyển đến chỗ: phải làm chứng cho Chúa Kitô ở giữa lòng đời, làm chứng cho những gì căn bản và thuần khiết nhất của Kitô giáo, làm chứng bằng chứng tá của chính đời sống tràn đầy tình bác ái, đầy lòng tin, cậy, mến, chứ không phải bằng cách thiết lập một thế giới Kitô giáo như xưa. Ý thức mới này, may mắn thay lại mở màn cho một cuộc canh tân sâu xa hơn nhiều: canh tân ý thức đức tin, canh tân ý thức về đòi hỏi của Tin Mừng, canh tân phụng vụ, canh tân ý thức sứ vụ về những phương pháp tông đồ trong lòng xã hội trần tục.

Kết quả là một số phong trào Công giáo tiến hành được hình thành và hoạt động tích cực. Khởi đầu là phong trào Thanh Lao Công do linh mục Cardjin lập năm 1924 và được Đức Thánh Cha Piô XI hỗ trợ.

Về phần mình, Giáo hội tìm lại được sự thống nhất các thành phần, ý thức được tầm quan trọng của một chi thể mà lâu nay không được nhìn nhận đúng mức; nhất là Giáo hội sống lại tinh thần Cánh chung, là tính cách cốt yếu của Giáo hội.

Các người giáo dân trong thời đại này cũng tìm lại được phẩm giá của mình trong Giáo hội, ý thức mạnh mẽ sứ vụ được Chúa trao cho giữa trần gian. Trong lãnh vực tông đồ rõ ràng người giáo dân có nhiều điều kiện thuận lợi hơn tu sĩ và giáo sĩ. Nhất là sứ vụ trần thế được làm cho sáng tỏ hơn lúc nào hết. Khi thi hành công việc "làm đẹp bộ mặt thế giới" người giáo dân không chỉ mang tinh thần "để sống cho qua ngày", nhưng ý thức được ý nghĩa công việc đó là tiếp tục công trình sáng tạo của Chúa, là sắp xếp các sự vật cho thích hợp và hướng tất cả theo ý định ngàn đời của Thiên Chúa.

2. Tiến đến một nền thần học về giáo dân

Lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội, một công đồng chung đã dành hẳn một chương trong một hiến chế quan trọng để trực tiếp bàn về người giáo dân. Những khẳng định thần học về phẩm giá và ơn gọi của người giáo dân trong Công Đồng Vatican II, ngày nay, như lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, "vẫn có tính hiện đại đáng ngạc nhiên đôi khi còn có tầm mức tiên tri"[3]. Những suy tư đó vẫn là nền tảng cho những triển khai thần học sau Công đồng, cũng như việc áp dụng những suy tư ấy vào đời sống thực tế của Giáo hội, để người giáo dân thực sự là một ơn huệ Chúa ban, góp phần giúp Giáo hội chu toàn sứ mạng của mình. Chúng ta cũng nhìn lại giáo huấn của Công đồng.

 

2.1. Những bước chuẩn bị

Chẳng phải ngẫu nhiên mà Công đồng đã có được một sáng kiến độc đáo và hình thành được một công trình như thế. Thánh Thần đã chuẩn bị, hướng dẫn và cũng chính Ngài đã thúc đẩy những bước tiến quyết định trong Giáo hội. Thánh Thần không chỉ làm việc nơi Công đồng, qua các nghị phụ, nhưng còn làm việc trong toàn thể đời sống của Giáo hội. Học thuyết của Công đồng không phải chỉ là một sáng kiến độc đáo mà còn là một sự tổng hợp, đúc kết, quảng diễn những gì đang sinh động trong đời sống Giáo hội, và sau cùng chính thức trình bày với toàn thể Dân Chúa. Ở đây, chúng ta có thể kể ra một vài dữ kiện tiêu biểu trên quãng đường đó trước khi đi vào giáo huấn căn bản của Vatican II về người giáo dân.

* Đóng góp của các thần học gia: Trong khoảng thập niên 30 của thế kỷ này, người ta thấy xuất hiện một số công trình nghiên cứu của các thần học gia bàn về phẩm trật trong Giáo hội và người giáo dân. Trong số đó đặc biệt phải kể đến đóng góp của cha Yves Congar OP.

* Đức Piô XII : trong bài nói chuyện với các tân hồng y ngày 20-2-1946, đức thánh cha Piô XII đã nói :

"Những người giáo dân đứng hàng ngũ những người tiên phong của đời sống Giáo hội. Nhờ họ mà Giáo hội trở thành nguyên lý sống động của xã hội nhân loại. Vì thế họ phải ý thức rõ rệt hơn rằng mình chẳng những thuộc về Giáo hội mà chính là Giáo hội".

Khẳng định đó của Đức Thánh Cha chắc chắn đã có một tiếng vang lớn. Thượng Hội Đồng Giám Mục 1987 và tông huấn "Kitô hữu giáo dân" của đức Gioan Phaolô II cũng đã nhắc lại ý tưởng đó[4].

* Những đại hội thế giới về tông đồ giáo dân: trong khi đó, từ sau thế chiến thứ nhất, đã có một số phong trào công giáo tiến hành nảy sinh ở các nước Tây phương và đã góp phần làm cho ý thức của Giáo hội về vai trò làm tông đồ của người giáo dân thêm mạnh mẽ. Cao điểm là những đại hội thế giới về tông đồ giáo dân năm 1951 và 1957.

- Tại đại  hội 1957, Đức Thánh Cha Piô XII một lần nữa lại đưa ra một ý niệm quan trọng, góp phần hình thành rõ nét hơn về vai trò của người giáo dân cũng như tính cách đặc thù trong ơn gọi giáo dân.

"Mối tương quan giữa Giáo hội và thế giới đòi phải có sự can thiệp của các tông đồ giáo dân. Việc "thánh hiến trần gian", trong cốt yếu, chính là công việc của người giáo dân, là những người hòa nhập một cách chặt chẽ vào đời sống kinh tế xã hội".

- Đức Gioan XXIII: Sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, trước một xã hội tan nát nhưng cũng đồng thời manh nha nhiều yếu tố mới, đức thánh cha Gioan XXIII lại nhắc đến vai trò của người giáo dân như là lời đáp lại tiếng kêu khẩn thiết của thế giới :

"Giáo hội hôm nay phải đương đầu với một trách nhiệm lớn lao: đem sắc thái nhân bản và Kitô giáo vào trong nền văn minh hiện đại, sắc thái mà nền văn minh này đòi hỏi và dường như khẩn khoản nài xin, nhằm lợi ích phát triển và sự hiện hữu của nền văn minh ấy. Giáo hội chu toàn các trách nhiệm ấy, đặc biệt nhờ các giáo dân, là những người phải cảm thấy mình dấn thân vào việc thực hiện những hoạt động nghề nghiệp như là việc chu toàn một nghĩa vụ, như là một dịch vụ mà do họ thực hiện trong sự kết hiệp mất thiết với Thiên Chúa, trong đức Kitô, để làm vinh danh Ngài"[5].

 
2.2. Học thuyết Công Đồng

Công đồng Vatican II dành hẳn chương IV trong hiến chế tín lý Ánh Sáng Muôn Dân để bàn về phẩm giá vai trò của người giáo dân. Tuy nhiên chương IV này lại liên hệ mật thiết, đúng hơn là đặt nền tảng ở chương II nói về Dân Thiên Chúa. Vì thế trước khi đi vào những suy tư thần học của chương IV, chúng ta phải nhìn đến nền tảng chung của mọi thành phần trong Giáo hội, bởi vì phẩm giá và ơn gọi của các thành phần chỉ thực sự có được và có ý nghĩa đích thực trong nền tảng chung ấy mà thôi.

 
2.2.1. Giáo hội: Dân Thiên Chúa

Ý niệm “Dân Thiên Chúa” giữ một vị trí then chốt trong toàn thể tư tưởng của hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân[6]. Ý niệm đó trình bày hình ảnh Giáo hội trong chiều kích lịch sử. Giáo hội là dân lữ hành trong trần gian và hướng về ngày cánh chung. Khi diễn tả Giáo hội là Dân Thiên Chúa, Công đồng thực sự đã lấy lại được một cách nhìn đã có từ trước, theo đó, Giáo hội chỉ thực sự là mình và chỉ thực sự đóng đúng vai trò của mình khi đặt mình trong dòng lịch sử cứu độ.

Theo cha Yves Congar OP, nguyên việc sắp xếp thứ tự các chương trình trong Hiến chế đã cho thấy một ý nghĩa quan trọng. Thứ tự các chương như sau :

1/ Mầu nhiệm Giáo hội.

2/ Dân Thiên Chúa.

3/ Phẩm trật trong Giáo hội.

4/ Người giáo dân.

Theo thứ tự này, Công đồng muốn nói lên rằng chính Giáo hội như Dân Thiên Chúa mới đích thực là nền tảng chung, là thực tại căn bản quy tụ và hiệp nhất mọi thành phần, chứ không phải như não trạng của một số người vẫn coi hàng giáo phẩm là nền tảng của Giáo hội.

Về nội dung của ý niệm Dân Thiên Chúa, chúng ta thấy có những điểm chính như sau :

* Sự liên tục trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa

Giáo hội được Thiên Chúa kêu gọi làm dân của Ngài, một dân mới, kế tục và thay thế cho dân cũ là Israel. Dân mới này được triệu tập từ khắp muôn dân, đón nhận mọi người, hợp thành một dân duy nhất "trong Thánh Thần chứ không theo xác thịt"[7]. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Dân Mới có một vai trò đặc biệt, không thể thay thế, không thể hoán đổi. Giáo hội thực sự là Dân cánh chung trong quãng thời gian mong chờ ngày cánh chung này.

* Gia nhập Dân Thiên Chúa

Mỗi người Kitô hữu được Chúa gọi không phải là đơn độc, một mình theo Chúa và một mình có trách nhiệm với Ngài, nhưng được mời gọi để gia nhập vào Dân Thiên Chúa, vào trong một cộng đồng đức tin, tham dự vào Thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô là Giáo hội. Thuộc về Đức Kitô, đồng thời cũng có nghĩa là thuộc về Giáo hội. Công đồng nói :

"Thực vậy, chính Người đã lấy máu mình mà chuộc lấy Giáo hội (Cv 20,28). Người đổ tràn Thánh Thần và ban các phương thế thích hợp để kết hiệp thành một xã hội hữu hình. Thiên Chúa triệu tập tất cả những người tin và mong đợi Chúa Kitô, Đấng ban ơn cứu độ và hiệp nhất, nguyên lý của sự hòa bình, Ngài thiết lập họ thành Giáo hội để Giáo hội trở nên bí tích hữu hình của sự hiệp nhất cứu độ ấy cho toàn thể và cho mỗi người"[8].

Ý niệm giáo dân chỉ thực sự có ý nghĩa trong ý nghĩa chung của Giáo hội, vì Giáo hội là một thực tại nền tảng, không phải do các thành phần góp thành, nhưng chính Giáo hội thể hiện tính cách chung của mình nơi mỗi thành phần. Thần học về người giáo dân chỉ là một trắc diện trong toàn thể thần học về Giáo hội. Vì vậy, những khẳng định về giáo dân bao giờ cũng phải gắn liền với những xác quyết rộng lớn hơn, bao trùm hơn, trọn vẹn hơn đó là những khẳng định về mầu nhiệm Giáo hội.

Như thế, là Kitô hữu, trước tiên có nghĩa là được sát nhập vào dân của Chúa. Mọi ân huệ, phẩm giá và sứ vụ của người Kitô hữu đều phát xuất từ cộng đoàn dân Chúa mà họ được hiệp thông. Ơn gọi Kitô hữu, giáo dân hay các ơn gọi khác, chỉ có ý nghĩa trong cộng đoàn dân Chúa.

* Sống đức tin như một lịch sử ơn cứu độ

Phải công nhận rằng, từ lâu trong Giáo hội, vẫn có một não trạng “siêu lịch sử” chi phối suy tư thần học và cung cách sống đạo. Khuynh hướng ấy giả thuyết rằng việc gặp gỡ Thiên Chúa và đạt được ơn cứu độ của Ngài diễn ra hoàn toàn trong một nơi huyền nhiệm nào đó của tâm hồn, một tâm hồn không bị nhiễm bẩn do những thực tại của không gian và thời gian. Do đó, người ta nỗ lực thoát khỏi những biến động của thời cuộc, nhìn những biến cố lịch sử xung quanh mình như một thế giới đi song song hoặc bên ngoài đời sống thiêng liêng.

Khởi từ Vatican II, có một nỗ lực triển khai trong chiều hướng thần học lịch sử và cụ thể, để đưa Giáo hội thoát khỏi một lối nhìn siêu lịch sử và mở ra cho Giáo hội sự hiểu biết đa dạng, xuyên qua không gian và thời gian, qua những nền văn hoá và văn minh. Cuộc gặp gỡ lịch sử giữa con người và Thiên Chúa, dưới ánh sáng đức tin, là ý nghĩa đích thực của tất cả lịch sử và do đó, trở nên “lịch sử cứu độ” hay “nhiệm cục cứu độ”. Chân lý cứu độ không còn là một hệ thống các ý tưởng soi sáng từ trên cao, nhưng là một lịch sử hướng tới tương lai đầy tràn ý nghĩa mà con người không ngừng khám phá, xây dựng, thông hiểu và tác tạo nên.

Suy tư thần học trong những thập niên cuối thế kỷ XX, nhờ vào các nhà thần học như Newmann, Teilhard de Chardin, Congar, Chenu, Danielou, Rahner, de Lubac, Schillebeeckx ..., luôn ý thức rằng chiều kích thời gian thấm sâu vào đời sống tinh thần của con người và tạo nên tính chất thiết yếu của mọi kinh nghiệm nhân sinh cũng như kinh nghiệm đức tin. Kinh nghiệm đức tin chính là nhận ra “nơi chốn” thực hiện nhiệm cục cứu độ, kinh nghiệm ấy được thực hiện trong chính lịch sử. Theo nghĩa này, không có đức tin, không có ơn cứu độ, không có thần học nào ở ngoài lịch sử; bởi vì đức tin là sự trả lời đối với một biến cố, ơn cứu độ cũng chính là một biến cố và thần học chỉ có thể hiện hữu khi dựa vào những sự kiện, từ Abraham cho đến đức Giêsu Kitô, và đến Giáo hội, một Giáo hội vốn sống trong không gian và thời gian.

Kitô giáo không phải là một hệ thống các tư tưởng, nhưng là “nhiệm cục cứu độ”. Chúng ta không thể hiểu được thế giới nếu loại bỏ thời gian và những đặc tính riêng biệt, cụ thể của thế giới. Chính đường nét ấy thể hiện tính mới mẻ riêng biệt của mặc khải Do Thái – Kitô giáo, so với những quan niệm Đông phương cũng như Hy Lạp.

 
2.2.2. Bí tích Thánh Tẩy

Chính bí tích Thánh Tẩy hay nói rộng hơn các bí tích khai tâm Kitô giáo, là nguyên lý tháp nhập mỗi người vào trong Dân Chúa. Qua bí tích Thánh Tẩy, người Kitô hữu được cùng chết, cùng phục sinh với Đức Kitô. Người Kitô hữu chết đi cho con người cũ và sống lại thành nên một thụ tạo mới; được biến đổi hoàn toàn; có một phẩm giá, một địa vị mới và bước vào một lãnh vực mở ra một chân trời mới huyền nhiệm. Qua bí tích Thánh Tẩy, người Kitô hữu trở nên con Thiên Chúa, nên "những người con trong Người Con" - được hội nhập vào thân thể duy nhất của Đức Kitô là Giáo hội và được trở nên đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần.

Cũng như Dân Thiên Chúa là thực tại nền tảng cho các thành phần trong Giáo hội, thì bí tích Thánh Tẩy là bí tích tháp nhập mỗi người vào Dân Thiên Chúa cũng thực sự là nền tảng của mọi bí tích khác và làm nên nền tảng chung của mọi Kitô hữu, giám mục, linh mục, tu sĩ cũng như giáo dân. Nền tảng chung này là: phẩm giá và ơn gọi làm con Chúa. Nền tảng chung đó thực sự đã bao hàm tất cả những gì cao quý nhất của cuộc đời Kitô hữu và xác định một sự bình đẳng thực sự giữa mọi thành phần trong Giáo hội. Chúng ta có thể nói được là: các ơn gọi khác nhau cũng như các bí tích khác nhau chính là những cách thức thể hiện cụ thể và riêng biệt một ơn gọi chung, là ơn gọi làm con Chúa được lãnh nhận trong bí tích Thánh Tẩy.

Đức thánh cha Gioan Phaolô II, trong tông huấn "Kitô hữu giáo dân" đã viết: "Thật không quá đáng khi nói rằng toàn bộ đời sống của giáo dân nhằm tới việc thông hiểu tính mới mẻ căn bản của Kitô giáo, phát sinh từ bí tích Thánh Tẩy"[9].

Và công đồng Vatican II trong hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân viết :

"Thế nên chỉ có một dân Thiên Chúa được Ngài tuyển chọn 'Chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một Thánh Tẩy' (Ep 4,5), cùng chung một phẩm giá của những chi thể, vì đã được tái sinh trong Chúa Kitô, cùng một ân huệ được là con cái, một ơn gọi trở nên trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất, một đức ái không phân chia (...) giữa tất cả mọi người vẫn có bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương diện phẩm giá và hoạt động của mọi tín hữu, để xây dựng thần thế Chúa Kitô"[10].

Như thế, hình ảnh Giáo hội không còn là hình ảnh một kim tự tháp, nhưng là một sự hiệp thông của mọi thành phần bình đẳng, hiệp thông vào ơn gọi và sứ vụ chung của Giáo hội.

 

2.3. Ba chức vụ: Tư tế - Ngôn sứ - Vương giả

Truyền thống Tân Ước xác nhận nơi Đức Kitô có tất cả những chức vụ liên quan đến vai trò của vị Cứu Tinh được nói trong Cựu Ước, đó là các chức vụ: Tư tế, Ngôn sứ và Vương giả.

Đức Kitô không phải là một vị tư tế, tiên tri hay vị vua như các vị khác trong Cựu Ước, nhưng Ngài chính là vị Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Giả đặc biệt và duy nhất, theo nghĩa hoàn hảo nhất.

Nhờ bí tích Thánh Tẩy, người Kitô hữu, mọi Kitô hữu, được tháp nhập vào Đức Kitô, thì cũng được thông chia ba chức vụ đó của Ngài. Không phải chỉ là một danh nghĩa bên ngoài, nhưng đó là một sự thông phần thực sự. Như vậy người Kitô hữu cũng phải thực sự đảm nhận trách nhiệm và thi hành tác vụ thích hợp với ba chức vụ đó của Chúa Kitô.

 

a. Chức vụ tư tế

Chúa Kitô là vị linh mục duy nhất, bởi vì chỉ có Ngài mới dâng lên Chúa Cha của lễ đích thực có thể xóa được tội lỗi con người. Của lễ đó chính là Mình Máu Ngài chứ không phải chỉ là máu chiên bò như các tư tế khác đã dâng và không cứu độ ai. Để thi hành chức vụ này cách trọn vẹn, Ngài cũng gọi một Dân là Giáo hội và Giáo hội được thánh hóa thành Dân Thánh, Dân Tư Tế.

Khi lãnh bí tích Thánh Tẩy, người Kitô hữu được tham dự vào chức tư tế của Đức kitô, người ta gọi là chức Tư tế Cộng đồng. Nhờ chức tư tế cộng đồng này, Kitô hữu có thể thực sự thánh hóa đời sống mình, thánh hóa mọi sinh hoạt, mọi trách vụ và kể cả các thử thách trong cuộc sống nữa. Tất cả những điều đó được thực sự kết hiệp với lễ vật của Đức Kitô mà dâng cho Chúa Cha, khi mà người Kitô hữu sống những hoàn cảnh đó trong đức tin, và trong lúc tham dự các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Hiến chế Giáo hội viết :

"Thực vậy những kẻ mà Người đã cho tham dự mật thiết vào sự sống và sứ mạng của Người, Người cũng cho họ dự phần vào chức vụ tư tế để họ thực hành việc phụng thờ thiêng liêng, hầu tôn vinh Thiên Chúa và cứu độ nhân loại (...)

.... Mọi hoạt động,  kinh nguyện và công cuộc tông  đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất cả đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Kitô"[11].

 

b. Chức vụ Ngôn sứ

Tiên tri hay ngôn sứ là người thay mặt Thiên Chúa để nói cho nhân loại biết ý muốn của Ngài. Đức Giêsu là vị Ngôn Sứ cao cả mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân, Ngài là vị Ngôn Sứ chỉ nói "những điều đã nghe biết nơi Chúa Cha". Ta thấy chỉ có Đức Kitô mới đích thực là tiên tri theo nghĩa hoàn hảo nhất, vì chỉ nơi Ngài, ý định của Chúa Cha mới được tỏ lộ trọn vẹn. Các tiên tri khác chỉ là chuẩn bị và loan báo về vị Ngôn Sứ Kitô mà thôi.

Trong Giáo hội, người giáo dân được tham dự vào chức vụ ngôn sứ của Đức Kitô thì họ cũng góp phần vào sứ vụ loan báo ý định cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại: họ bày tỏ đức tin và đức ái cho những người chung quanh, trong lãnh vực nghề nghiệp và nhất là trong đời sống gia đình.

“Có một bậc sống rất giá trị để thể hiện nhiệm vụ đó, bậc sống được một bí tích đặc biệt thánh hoá, đó là đời sống hôn nhân và gia đình. Gia đình là môi trường hoạt động và trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân. Từ gia đình, Kitô giáo thấm nhập vào tất cả các tổ chức cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức ấy; nơi gia đình, vợ chồng tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho nhau và cho con cái lòng tin vào tình yêu Chúa Kitô. Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của Nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế, bằng gương lành và chứng tá, gia đình Kitô giáo thuyết phục thế gian đảm nhận tội lỗi mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang kiếm tìm chân lý”[12].

Ngoài ra, trong cuộc sống đó, người giáo dân cũng phải làm chứng cho một thế giới siêu việt hơn và làm chứng cho một chung cuộc của thế giới: ngày cánh chung. Họ phải vững tin trông đợi vinh quang một ngày kia sẽ đến.

 

c. Chức vụ Vương giả

Chúa Kitô một khi đã vâng phục Chúa Cha, lãnh nhận cái chết và đã phục sinh, Ngài bắt muôn vật phải phục vương quyền của Ngài cho đến khi Ngài đặt tất cả mọi sự suy phục Chúa Cha, để Thiên Chúa nên tất cả trong mọi sự (1 Cr 15, 27-28). Đó là vương quyền của Đức Kitô.

Khi lãnh nhận tước vị vương giả của Đức Kitô, người giáo dân được hướng một sự tự do đích thực, tự do vương giả, không còn làm nô lệ cho ác thần, nhưng chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi mình. Đồng thời chức vụ đó cũng thúc đẩy người giáo dân hoạt động để đưa tất cả anh em mình cũng như tất cả vạn vật về với Thiên Chúa Cha.

Để thi hành sứ vụ này, Công đồng nhắn nhủ người giáo dân cần phải nhận biết bản tính sâu xa của các tạo vật, biết cùng đích của chúng là nhằm ca tụng Thiên Chúa. Cho nên người giáo dân, trong môi trường sống của mình giữa trần thế, cần phải nỗ lực làm cho trần gian thấm nhuần ơn cứu độ của Đức Kitô và đưa trần gian đạt tới cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong công lý, bác ái và hòa bình.

Đó cũng là trách vụ chung của Giáo hội, nhưng trong công việc này, người giáo dân giữ một trách vụ chính yếu.

 

2.4. Tính cách trần thế

Với Công đồng Vatican II, chúng ta có thể thấy một giá trị mới xuất hiện trong tâm thức của Giáo hội: giá trị trần thế. Cuộc sống trần thế, cuộc sống thật của con người, không còn là một điều gì đi song song và bên ngoài vận hành của niềm tin. Chính thái độ trân trọng cuộc sống trần thế đưa người Kitô hữu trở lại một cuộc sống “hiện sinh” đầy tràn ý nghĩa, đặt người người Kitô hữu vào hành trình tìm kiếm Nước Trời thông qua cuộc sống và bao hàm những thái độ “có ý nghĩa” đối với dòng lịch sử trần thế.

Được lãnh nhận ba chức vụ Tư tế, Ngôn sứ, Vương giả của Đức Kitô, giáo dân có cùng phẩm giá với các thành phần khác trong Giáo hội. Nhưng tính cách riêng trong việc thi hành ba chức vụ này của người giáo dân là tính cách trần thế.

Chúa Kitô đã kêu gọi những người Kitô hữu làm con Chúa, làm môn đệ của Chúa, không phải để đưa họ tách khỏi thế gian, nhưng để sai đến trong thế gian. Tính cách "không thuộc về thế gian, nhưng được sai đến trong thế gian" một cách nào đó, chính là tiếp tục mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đó cũng chính là sứ mạng chung của Giáo hội, và của mọi thành phần khác trong Giáo hội. Nhưng sứ vụ trần thế này thể hiện rõ rệt nhất nơi ơn gọi riêng của người giáo dân và nó làm nên tính cách riêng biệt đặc thù của người giáo dân.

Tính cách trần thế không chỉ có nghĩa là họ phải sống ở giữa trần gian, vì sinh kế hay là vì một nghĩa vụ trần thế nào đó, nhưng thực ra nó chính là một sứ vụ của Giáo hội. Sứ vụ đó bao hàm :

- Trước tiên nhờ những mối giây liên lạc xã hội, gia đình, người giáo dân sống liên đới, đồng cảnh với mọi người.

- Nhờ những mối giây liên lạc đó, người giáo dân làm dậy lên chất men Tin Mừng, nêu cao lòng tin, cậy, mến của một người con Chúa và làm chứng cho người khác về tình yêu Thiên Chúa.

- Ngay khi thi hành những công việc hoàn toàn trần thế, người giáo dân cũng nhằm mục đích là làm cho mọi thực tại trần thế "biết ca tụng Đấng Sáng Tạo, quy hưởng những tạo vật đó về con người để con người lại quy hưởng về Đức Kitô".

Như vậy tính cách trần thế, theo Công đồng xác định, không chỉ có nghĩa xã hội (vì phải hiện diện ở đó một trăm phần trăm vì một nghĩa vụ trần thế nào đó), nhưng có một tính cách thần học, nghĩa là mang một sứ vụ đặc biệt và riêng biệt của người giáo dân. Trách vụ đó không có tính cách thụ động, không phải chấp nhận bất đắc dĩ, nhưng là một động lực tích cực giúp người giáo dân mạnh dạn dấn thân. Như thế, người giáo dân không chỉ mong chờ ngày cánh chung, nhưng thực sự góp phần làm cho ngày đó mau chóng được thực hiện. Đó là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cao quý. Ta hãy nghe Đức Gioan Phaolô II nói trong bài giảng bế mạc Thượng hội đồng giám mục 1987 :

"Người tín hữu giáo dân được đặt vào tận biên thùy của lịch sử: gia đình, văn hóa, xã hội, thế giới lao động, kinh tế, chính trị, khoa học, kỹ thuật, truyền thông đại chúng, những vấn đề lớn của sự sống, của liên đới, hòa bình, đạo đức nghiệp vụ, nhân quyền, giáo dục, tự do tôn giáo".

 

2.5. Mọi Kitô hữu đều có ơn gọi nên thánh
Trong bài giảng bế mạc Thượng hội đồng Giám mục 1987 về chủ đề "Giáo dân", đức thánh cha Gioan Phaolô II đã nói rằng : "Người giáo dân mang ơn gọi nên thánh, ao ước mãnh liệt có một linh đạo riêng, xứng hợp và khẩn thiết".

Những lời đó là tiếng vang dội lại từ một khẳng định của công đồng Vatican II :

"Vì thế tất cả mọi người trong Giáo hội....đều được kêu gọi lên thánh, như lời thánh Tông Đồ dạy: Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa”. (1 Tx 4,3, Ep 1,4)[13].

Đây là vấn đề tương đối mới, vì trước đây người ta thường hiểu, hay ít ra, thường cảm nhận chung chung là nhiệm vụ phải sống thánh thiện chỉ đòi buộc các linh mục, tu sĩ và ai muốn nên trọn lành thì tìm đến một lối sống "giống giống" như lối sống của các người đó. Não trạng này chắc chắn không phù hợp với truyền thống Giáo hội sơ khai, trong đó mọi người đều được kêu gọi nên thánh, và được gọi là "các thánh của Chúa". Công đồng Vatican II khẳng định lại chân lý này, một chân lý vốn có ngay từ đầu và có lẽ đã bị bỏ quên khá lâu.

Khi lãnh bí tích Thánh Tẩy, như trong Giáo hội sơ khai, người Kitô hữu được gọi là "các thánh của Chúa". Đó không phải là một danh xưng bên ngoài, nhưng nói lên một thực tại, một sức sống thực sự sâu xa, trong lòng người Kitô hữu. Ơn gọi nên thánh là một khía cạnh của thực tại này nên nó cũng là một điều thiết yếu, nội tại, gắn liền với cuộc đời người Kitô hữu. Như thế, với Công đồng, người ta tìm thấy được một hoa trái mới mẻ đặc biệt, đó là một “linh đạo giáo dân”.

Tính cách riêng của người giáo dân, như công đồng Vatican II xác định, là tính cách trần thế. Như vậy, chính trần thế là nơi người giáo dân được gọi, được đặt vào đó thể hiện ơn gọi nên thánh của mình chứ không phải nơi nào khác. Người giáo dân cần phải sống, thể hiện phẩm cách của "các thánh của Chúa" trong cuộc sống hằng ngày của mình ở giữa trần thế: trong gia đình, công việc, trong những mối tương quan xã hội....tất cả những điều gì dệt thành đời sống của người giáo dân.

Phẩm giá của người giáo dân gắn liền với sứ vụ tông đồ và với ơn gọi nên thánh. Vì thế chính sứ vụ tông đồ và ơn gọi nên thánh của người giáo dân cũng gắn liền với nhau. Người giáo dân không thể nại cớ phải chu toàn nhiệm vụ trần gian mà lơ là, bỏ qua ơn gọi nên thánh, hoặc là ngược lại. Đây cũng không phải là một đòi hỏi nghịch lý. Chẳng phải là người giáo dân phải khó khăn chu toàn hai trách vụ tách biệt nhau. Trái lại, hai trách vụ đó kết thành một, hay đúng hơn, đó là hai khía cạnh của một cuộc sống, hoặc ngay cả của cùng mỗi một hành vi.

Thượng hội đồng giám mục 1987 về giáo dân xác quyết sự thánh thiện của người giáo dân nhất thiết phải gắn liền với nghĩa vụ trần thế :

"Chúa Thánh Thần khiến ta khám phá mỗi ngày một rõ là ngày nay sự thánh thiện chỉ có thể đi liền với dấn thân phục vụ công lý, trong tình liên đới với người nghèo, với kẻ bị áp bức. Sự thánh thiện điển hình của người giáo dân phải kết hợp chiều kích xã hội, dựa theo chương trình của Thiên Chúa mà cải tạo thế giới".

Ngược lại, công việc trần thế chỉ có được ý nghĩa đích thực, có được sự phát triển đúng đắn như Thiên Chúa muốn khi mà người giáo dân, nhờ kết hiệp với Chúa, có thể nhìn ra được ý định của Cha đối với trần gian, đồng thời họ có được sức mạnh của Chúa để dấn bước trên đường sứ vụ.

 
2.6 Mọi Kitô hữu đều có sứ vụ làm tông đồ

Tông đồ giáo dân, đó không phải là một vấn đề mới mẻ gì trong Giáo hội. Ngay từ khi Giáo hội được thành lập, bên cạnh các tông đồ, vẫn luôn có rất nhiều người giáo dân, nam cũng như nữ, công tác tích cực vào công việc loan truyền Nước Chúa. Sự đóng góp đó vẫn luôn có trong Giáo hội, qua suốt quá trình lịch sử, cho dù có được chính thức công nhận hay không, cho dù có được một nền tảng lý thuyết thần học hay không.

Tuy nhiên, phải công nhận rằng, cho đến công đồng Vatican II, sứ vụ tông đồ của người giáo dân vẫn chưa có được một nền tảng lý thuyết rõ ràng. Trong một số thời kỳ, việc tông đồ giáo dân được coi gần như là một ngoại lệ, do ân huệ đặc biệt và riêng tư của một số giáo dân mà thôi.      

Nền tảng thâm sâu của sứ vụ tông đồ chính là ý định của Chúa Cha[14]. Ý định đó được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, Ngài là Đấng Thiên Sai, đã đến trong thế gian để thi hành sứ vụ Chúa Cha trao cho, sứ vụ cứu độ nhân loại khỏi tội và giao hòa con người, cũng như toàn thể vũ trụ với Chúa Cha[15]. Sau khi Chúa Kitô hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Chúa Thánh Thần được phái đến để tiếp tục làm cho trọn vẹn công trình của Đức Kitô, hướng dẫn nhân loại tiến về ngày cánh chung, ngày hoàn tất ý định cứu độ của Chúa Cha[16]. Giáo hội là nơi thể hiện đặc biệt toàn thể "sứ vụ" của Ba Ngôi Thiên Chúa. Giáo hội vừa đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa, lại vừa tiếp tục loan báo ơn cứu độ của Chúa cho nhân loại[17].

Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, người Kitô hữu nhận lãnh được tất cả phẩm giá cũng như trách nhiệm của người con Chúa. Hơn nữa, nhờ bí tích Thêm sức, họ được đầy ơn Chúa Thánh Thần để có đủ khả năng chu toàn sứ vụ đó. Ơn gọi làm tông đồ không phải là một điều gì thêm vào phẩm giá của người giáo dân, không phải là một đòi hỏi "nhiệm ý", không phải chỉ là một lời khuyên những người thiện chí, cũng không phải là luật trừ dành riêng cho những người đặc biệt, nhưng nằm trong chính bản chất của ơn gọi làm con Chúa. Bởi vì "ơn gọi làm Kitô hữu, tự bản chất, cũng chính là ơn gọi làm tông đồ"[18].

Nhưng như thế không có nghĩa là mọi phần tử trong Giáo hội đều hoàn toàn như nhau, không có gì khác biệt. Trong ơn gọi chung và sứ vụ chung của Giáo hội, cũng có ơn gọi riêng và có thể nói, một "sứ vụ riêng" của mỗi thành phần. Để chu toàn được sứ vụ của mình, một sứ vụ duy nhất, Giáo hội cần đến nhiều sứ vụ, những sứ vụ đa dạng. Đó là những cách thế khác nhau để hoàn thành một mục tiêu chung.

Như thế, giáo dân có một sứ vụ riêng, khác biệt với sứ vụ của các thành phần khác trong Giáo hội. Sứ vụ này không phải có được do thiếu linh mục thừa tác cũng không phải là phụ thuộc, giúp đỡ các linh mục, tu sĩ, nhưng đó là một sứ vụ đích danh, của Chúa và Giáo hội trao phó, không thể thay thế bằng một loại khác hay bỏ qua được. Linh mục Rey Mermet nói rằng người giáo dân lãnh nhận sứ vụ tông đồ như một sự uỷ nhiệm của đức Kitô một cách trực tiếp,… đó là sự uỷ nhiệm có tính bí tích[19]… Dĩ nhiên, chúng ta hiểu được là sứ mệnh đó được lãnh nhận trong lòng Giáo hội, vì Giáo hội chính là “bí tích phổ quát của ơn cứu độ”.

Sứ vụ riêng của người giáo dân là cách thức thể hiện ba chức vụ Tư tế, Ngôn sứ và Vương giả của Đức Kitô theo cách thế phù hợp với tính cách riêng biệt, tức là tính cách trần thế.

"Vì bản chất riêng của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời, nên chính họ được Thiên Chúa kêu gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột"[20].

Một cách cụ thể hơn, ta thấy công cuộc cứu độ của Đức Kitô cốt yếu nhằm cứu độ nhân loại, nhưng cũng bao gồm việc canh tân tất cả trật tự trần thế[21]. Hai khía cạnh đó cũng là hai khía cạnh trong sứ vụ tông đồ của cả Giáo hội[22].

Người ta thường gọi hai lãnh vực này là "trật tự tự nhiên" và "trật tự siêu nhiên". Chúng khác biệt nhau nhưng không đối nghịch nhau. Bởi vì chỉ có một Thiên Chúa, Đấng đã sáng tạo thế giới, sắp xếp những quy luật thiên nhiên để vũ trụ vận hành, tồn tại và phát triển; và cũng chính Thiên Chúa ấy đã sai Con Một yêu dấu của Ngài đến, chịu chết và phục sinh, để ban ân sủng cho con người; và cũng chính Ngài, ngày nay, vẫn đang cử Thánh Thần đến, hiện diện bên cạnh Giáo hội, soi sáng, nâng đỡ và trợ giúp con người để họ đón nhận ân sủng cứu độ của Đức Kitô. Hai lãnh vực đó cùng nằm trong ý định duy nhất của Thiên Chúa về thế giới và con người.

 

Sứ vụ tông đồ của giáo dân, thể hiện một phần sứ vụ của Giáo hội, nên cũng thông qua hai lãnh vực đó.

* Lãnh vực siêu nhiên

Trong lãnh vực này, sứ vụ chính yếu được ban cho hàng giáo sĩ là những người có nhiệm vụ giảng Lời Chúa và ban các bí tích. Nhưng người giáo dân cũng có rất nhiều cơ hội để đóng góp phần của mình.

"Chính chứng tá đời sống Kitô hữu và những việc làm được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa" (Mt 5,16).

Ngoài ra, giáo dân còn có thể dùng lời nói để loan truyền Tin mừng Chúa Kitô cho người tin cũng như người chưa tin, mạnh dạn nói lên những nguyên tắc đạo lý Kitô giáo mà ngày nay người ta muốn loại bỏ.

* Trong lãnh vực tự nhiên

Lãnh vực tự nhiên chẳng phải là những gì xấu xa, đầy ma quỷ. Giáo lý trong sách Sáng Thế cho thấy mọi sự do Chúa sáng tạo đều tốt đẹp[23]. Công đồng nói :

"Tất cả những gì tạo nên trật tự trần thế như giá trị của cuộc sống và của gia đình, văn hóa, kinh tế, nghệ thuật và nghề nghiệp, tổ chức công đoàn chính trị, bang giao quốc tế và những thực tại tương tự khác, cũng như sự biến chuyển và tiến bộ của chúng, tất cả những thực tại đó, hoặc xét ngay trong bản tính chúng, hoặc xét chúng như thành phần của toàn thể trật tự trần thế, chẳng những chúng là phương thế giúp loài người đạt tới mục đích tối hậu, mà chúng còn có giá trị riêng do Thiên Chúa phú bẩm"[24].

Câu cuối trong đoạn văn công đồng đó cho thấy Công đồng xác nhận sự chính đáng của một trào lưu tư tưởng hiện nay, theo đó người ta muốn nhìn các sự vật trần thế hoàn toàn trong quan điểm nhân loại, độc lập với các lãnh vực siêu nhiên, đó là khuynh hướng trần tục hóa.

Để thi hành sứ vụ tông đồ cả trong lãnh vực siêu nhiên cũng như tự nhiên, nguyên tắc nền tảng chính là Đức ái. Đó là dấu chỉ đặc biệt của người môn đệ Chúa Kitô: "Nếu các cao yêu thương nhau, thiên hạ cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy" (Ga 13,35).

 

Tạm kết

Cần ghi nhận thêm là Công đồng luôn nhấn mạnh đến tính cách ưu tiên của “Giáo hội toàn thể”. Mọi tác vụ trong Giáo hội đều là tham dự vào tác vụ của Chúa Giêsu và nhằm để phục vụ cộng đoàn. Tiêu chuẩn để đánh giá các tác vụ là tiêu chuẩn cộng đoàn. Chẳng hạn, nền thần học về chức linh mục trước Vatican II có khuynh hướng “quy Kitô”, linh mục là “Kitô đệ nhị”,.. Trong khi đó, nền thần học tác vụ của Vatican II là diễn tả khuynh hướng “quy Giáo hội”, theo đó, các đoàn sủng và tác vụ đều nằm trong ơn gọi và sứ vụ chung của Giáo hội toàn thể.

Cũng nên lưu ý rằng, trong ý hướng ban đầu của sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân, đã có sự phân biệt giữa việc “tông đồ trực tiếp” và “tông đồ gián tiếp”; hoặc phân biệt giữa “tông đồ chuyên biệt” và “tông đồ không chuyên biệt”. Theo đó, việc tông đồ trực tiếp và chuyên biệt là những việc gắn liền với việc truyền bá Tin Mừng và thánh hoá Kitô hữu. Còn những hoạt động tông đồ gián tiếp và không chuyên biệt là những hoạt động làm đẹp bộ mặt trần gian, xây dựng xã hội trần thế theo tinh thần Tin Mừng. Quan niệm trên đã không được chấp nhận trong bản văn chính thức, và như thế, không được coi việc xác định tính trần thế của ơn gọi giáo dân như một sự xếp hạng cao thấp, mà như một sứ vụ riêng biệt, một lãnh vực đặc sắc của ơn gọi giáo dân.

Với những xác quyết hết sức rõ ràng của Công đồng Vatican II, phẩm giá, địa vị của người giáo dân đã tìm lại được một nền tảng thần học thật là vững chắc, và chắc hẳn đó là một bước ngoặt mở ra một viễn tượng mới, nhờ đó người giáo dân càng ngày càng thể hiện rõ ràng hơn, mạnh mẽ hơn và phúc lợi hơn vai trò của mình trong Giáo hội cũng như trong xã hội. Từ đây không ai còn có thể từ chối hay cố tình bỏ quên địa vị của người giáo dân nữa.

 

Nguyễn Trọng Viễn O.P.

 


[1] Bài này đã được đăng trong tập san Về Nguồn I của Huynh Đoàn Giáo Dân Đa Minh; rồi được đưa vào tập chương trình tiến cấp, Tuyên Hứa Tạm, của Huynh Đoàn. Để có một cái nhìn toàn diện hơn về giáo dân, xin coi toàn bộ 05 bài viết trong các tài liệu nêu trên : 1) Người giáo dân qua dòng lịch sử. 2) Tiến đến một nền thần học giáo dân. 30 Linh đạo giáo dân.4) Giáo dân trong Giáo hội hiệp thông. 5) Giáo dân và ơn gọi làm tông đồ.

[2]Phần này viết dựa theo A. Barrufo, đề mục Laic, Dictionaire de la Vie spirituelle, Les Éditions du Cerf, Paris 1987.

[3]Tông Huấn Kitô hữu giáo dân, số 2.

[4]Tông huấn Kitô hữu giáo dân, số 9.

[5]Đức Gioan XXIII, Thông điệp Mẹ và Thầy, ngày 15-5-1961.

[6]Ý niệm “Dân Thiên Chúa” phải được nhìn chung với ý niệm “Nhiệm Thể Chúa Kitô” mới diễn tả được trọn vẹn ý nghĩa mầu nhiệm Giáo hội.

[7]Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân, số 9.

[8]Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân, số 9.

[9]Tông huấn Kitô hữu giáo dân, số 10.

[10]Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân, số 32.

[11]Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân, số 34.

[12]Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân, số 35.

[13]Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân, số 39

[14]Xc. Ánh Sáng Muôn Dân, số 2.

[15]Xc. Ánh Sáng Muôn Dân, số 3.

[16]Xc. Ánh Sáng Muôn Dân, số 4.

[17]Xc. Sắc lệnh Truyền giáo, số 2.

[18]Xc. Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, số 2.

[19]Xc. Sắc Lệnh Tông đồ giáo dân do linh mục Rey Mermet, Dòng Chúa Cứu Thế trình bầy và quảng diễn, Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo, tháng 8/1989, trang 24.

[20]Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, số 2.

[21]Xc. Sắc lệnhTruyền giáo, số 2.

[22]Xc. Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, số 5.

[23]Xc. Sáng Thế, chương 01.

[24]Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, số 1.

 
Đề Tài II.
NGƯỜI GIÁO DÂN TRƯỞNG THÀNH
 
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Thế nào là người giáo dân trưởng thành?
2. Làm thế nào để người giáo dân trưởng thành?
 
I. VÀO ĐỀ
    Sáng ngày 17 tháng 10 năm 2011, Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI đã cho công bố Tự Sắc về Năm Ðức Tin được đặt tên là "Porta Fidei" (Cửa Đức Tin) trong đó ngài nêu lên tầm quan trọng của việc đọc các văn kiện và thực thi các Giáo huấn của Công đồng Vatican II:
  “Tôi cho rằng việc khởi sự Năm Ðức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II có thể là một cơ hội thích hợp để hiểu rằng các văn kiện Công đồng, được các Nghị Phụ để lại như gia sản, "không bị mất giá trị, cũng như vẻ tươi sáng". Cần đọc các văn kiện ấy một cách thích hợp, cần biết rõ và hấp thụ các văn kiện ấy như những văn bản giá trị và có tính chất qui phạm của Huấn Quyền Hội Thánh, giữa lòng Truyền Thống của Giáo Hội. Hơn bao giờ hết tôi cảm thấy nghĩa vụ phải nêu cao Công đồng như "hồng ân lớn lao mà Giáo Hội được hưởng trong thế kỷ XX": trong đó chúng ta được một địa bàn chắc chắn để định hướng trong con đường của thế kỷ đang mở ra". Tôi cũng muốn mạnh mẽ lập lại điều tôi đã quả quyết về Công đồng vài tháng sau khi tôi được bầu kế vị Thánh Phêrô, rằng: "Nếu chúng ta đọc và đón nhận Công đồng, với sự giải thích đúng đắn, thì Công đồng ngày càng có thể và trở thành sức mạnh lớn để thực hiện sự canh tân Giáo Hội ngày càng cần thiết" được một địa bàn chắc chắn để định hướng trong con đường của thế kỷ đang mở ra" (số 5).
Chúng ta tổ chức buổi tọa đàm này là để kỷ niệm 50 năm (1962-2012) khai mạc Công đồng Vatican II, Công đồng được mệnh danh là Công đồng của giáo dân. Bài thuyết trình của linh mục Nguyễn Trọng Viễn O.P.chúng ta vừa nghe giúp chúng ta ôn lại “Ơn gọi và Sứ vụ của giáo dân theo Công đồng Vatican II.”  Nhưng để sống ơn gọi và thực thi sứ vụ của mình, hiển nhiên là người giáo dân phải hội đủ một số điều kiện khách quan cũng như chủ quan. Điều kiện khách quan là những điều kiện từ bên ngoài như bối cảnh Giáo Hội và xã hội có thuận lợi hay không thuận lợi, thuận lợi nhiều hay ít cho việc người giáo dân sống ơn gọi và thực thi sứ vụ của mình. Còn điều kiện chủ quan là những điều kiện của chính bản thân người giáo dân. Chúng ta sẽ chú ý nhiều hơn đến điều kiện chủ quan nhưng cũng không xem thường các điều kiện khách quan. Nói cách khác, người giáo dân có sống ơn gọi và thực thi sứ vụ của mình được hay không là tùy vào việc người ấy có trưởng thành hay không.
 
Người giáo dân đích thực hay trưởng thành là niềm mơ ước của Giáo Hội, là lý tưởng mà hàng giáo dân phải đạt tới, là công trình mục vụ mà hàng giáo phẩm và hàng giáo sĩ có trách nhiệm đầu tư xây dựng cho hiện tại và tương lai của cộng đồng Dân Chúa tại Việt Nam thân yêu này.  
II. TRÌNH BÀY
2.1 Người giáo dân là người của hai “thành đô”: Giáo Hội và xã hội trần gian.
Trước hết Công Đồng Vatican II xác định, cùng một lúc, người giáo dân thuộc về Giáo Hội và xã hội trần gian:
“Các tín hữu giáo dân cùng một trật hoàn toàn thuộc về Dân Chúa và về xã hội trần gian: họ thuộc về một dân tộc, nơi chôn nhau cắt rốn của họ; họ đã bắt đầu thông dự những kho tàng văn hóa của dân tộc nhờ việc giáo huấn, liên kết với đời sống dân tộc bằng nhiều mối dây xã hội khác nhau, cộng tác vào tiến bộ riêng của dân tộc qua nghề nghiệp của họ, cảm thấy những vấn đề của dân tộc như là những vấn đề của chính họ và cố gắng giải quyết. Lại nữa, họ còn thuộc về Chúa Ki-tô, vì họ được tái sinh trong Giáo Hội bằng đức tin và phép Rửa, để nhờ đời sống mới và việc làm mới, họ là của riêng Chúa Ki-tô, để mọi sự qui phục Thiên Chúa trong Chúa Ki-tô và sau cùng để Thiên Chúa là mọi sự trong mọi người”  
(Sắc Lệnh Truyền Giáo, Chương III, số 21).
 
2.2 Nhiệm vụ chính của người giáo dân không phải là ở trong Giáo Hội mà là ở ngoài xã hội hay trong trần thế.
“Nhiệm vụ chính của người giáo dân, nam cũng như nữ, là làm chứng về Chúa Ki-tô, làm chứng bằng đời sống và lời nói trong gia đình, trong các đoàn thể xã hội, cũng như trong môi trường nghề nghiệp. Thật vậy, họ phải biểu lộ con người mới đã được tạo dựng theohình ảnh Thiên Chúa, trong sự công chính và thánh thiện của chân lý. Nhưng họ phải diễn tả nếp sống mới đó trong môi trường xã hội và văn hóa của quê hương, theo truyền thống của dân tộc mình. Chính họ phải hiểu biết nền văn hóa đó, sửa chữa, bảo tồn, và cải tiến theo những hoàn cảnh mới, và sau cùng phải hoàn tất nó trong Chúa Ki-tô, để niềm tin vào Chúa Ki-tô và đời sống Giáo Hội không còn xa lạ với xã hội họ sống, nhưng bắt đầu thấm nhiễm và cải hóa xã hội đó. Họ phải liên kết với đồng bào mình bằng tình bác ái chân thành, để trong cách sống của họ xuất hiện một mối dây mới về hiệp nhất và về liên kết đại đồng đã được bắt nguồn từ mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Họ cũng phải gieo rắc đức tin vào Chúa Ki-tô giữa những người có liên lạc với họ trong đời sống nghề nghiệp; điều bó buộc này càng khẩn thiết hơn vì nhiều người chỉ có thể nghe Phúc Âm và nhận biết Chúa Ki-tô nhờ các giáo dân sống gần họ. Hơn nữa, nơi nào có thể, giáo dân phải được chuẩn bị để cộng tác trực tiếp hơn với hàng Giáo Phẩm trong việc hoàn tất sứ mệnh đặc biệt là loan báo Phúc Âm và truyền thông giáo lý Ki-tô giáo ngõ hầu Giáo Hội mới khai sinh thêm vững mạnh.” (Sắc Lệnh Truyền Giáo, Chương III, số 21).
 
2.3 Người giáo dân đích thực hay trưởng thành.
Để có thể đảm đương và chu toàn nhiệm vụ chính của mình, người giáo dân phải trưởng thành như Công đồng Vatican II đã khẳng định một cách minh bạch và hùng hồn: 
“Giáo Hội chưa được thiết lập thực sự, chưa sống đầy đủ, cũng chưa là dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa Ki-tô giữa loài người, nếu chưa có hàng giáo dân đích thực và nếu hàng giáo dân này chưa cùng làm việc với Hàng Giáo Phẩm. Thật vậy, Phúc Âm không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một dân tộc nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân. Do đó, ngay khi thiết lập Giáo Hội phải hết sức chú tâm đến việc đào tạo một hàng giáo dân Ki-tô giáo trưởng thành.” (Sắc Lệnh Truyền Giáo, Chương III, số 21).
 
2.4 Những phẩm chất hay đặc điểm của người giáo dân đích thực hay trưởng thành.
Trong lời tuyên bố trên đây, chúng ta không thấy Công đồng xác định thế nào là người giáo dân đích thực hay trưởng thành; chúng ta cũng không thấy các Nghị Phụ đưa ra các tiêu chí của người giáo dân đích thực hay trưởng thành. Nhưng dựa vào đoạn văn ngắn ngủi ấy, chúng ta có thể rút ra được 4 phẩm chất hay đặc điểm của người giáo dân đích thực hay trưởng thành.
 
* Phẩm chất hay đặc điểm thứ nhất của những người giáo dân đích thực hay trưởng thành là những người ấy có khả năng và thực sự đã làm cho Giáo Hội được thiết lập thực sự trên một mảnh đất, trong một cộng đồng dân tộc.
 
* Phẩm chất hay đặc điểm thứ hai của những người giáo dân đích thực hay trưởng thành là những người ấy có khả năng và thực sự đã làm cho Giáo Hội sống đầy đủ ơn gọi, sứ mạng, trách nhiệm của mình trong một cộng đồng xã hội.
 
* Phẩm chất hay đặc điểm thứ ba của những người giáo dân đích thực hay trưởng thành là những người ấy có khả năng và thực sự đã làm cho Giáo Hội trở thành dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa Ki-tô giữa loài người.
 
Trình bày 3 phẩm chất hay đặc điểm đầu tiên của người giáo dân đích thực hay trưởng thành như trên e còn quá mơ hồ và trừu tượng. Để cụ thể và dễ hiểu hơn chúng ta có thể diễn tả như sau:
Ở phạm vi cá nhân, người giáo dân đích thực hay trưởng thành là người giáo dân được những người sống xung quanh biết đến và yêu mến, nhờ lối sống hòa đồng, yêu thương, đoàn kết, bác ái, phục vụ và khiêm tốn thật thà trung thực. Nói cách khác những người giáo dân ấy đã trở thành các chứng nhân sống động của Niềm Tin Ki-tô giáo trong các môi trường là gia đình, khu xóm, nghể nghiệp và xã hội.
Ở phạm vi rộng lớn hơn, - là Giáo Hội,- thì đó là những người giáo dân đã đóng góp vào việc làm cho Giáo Hội và Đạo Chúa Ki-tô được cộng đồng xã hội biết đến và yêu mến, bằng cách sống yêu thương, bác ái, phục vụ, bằng các hành động dấn thân bênh vực công lý và người nghèo và bằng các công trình văn hóa, nghệ thuật, nghiên cứu có giá trị. Đó còn là những người giáo dân đã đóng góp vào việc làm cho Giáo Hội (giáo xứ, giáo phận, toàn quốc) trở thành cộng đoàn chứng nhân, làm muối, làm men, làm ánh sáng, thành cộng đoàn loan báo Tin Mừng cho người nghèo và yêu thương chăm sóc những người bị thiệt thòi trong xã hội.
 
* Phẩm chất hay đặc điểm thứ tư của những người giáo dân đích thực hay trưởng thành là những người ấy (có khả năng và thực sự đã) cùng làm việc với Hàng Giáo Phẩm, trong tư thế là những người “đồng trách nhiệm” với Hàng Giáo Phẩm, chứ không chỉ là các “cộng sự viên” như Đức Thánh Cha Biển Đức XVI vừa mới nhắc lại trong Sứ điệp gửi các tham dự viên Đại hội kỳ VI, quen gọi là “Diễn đàn quốc tế” của Phong trào Công Giáo Tiến Hành, nhóm tại thành phố Iasi bên Rumani từ ngày 22 đến 26/8/2012, với sự tham dự của các Đại biểu phong trào đến từ 35 nước thuộc 4 đại lục trên thế giới (1).
Ở đặc điểm thứ tư này có hai điều đáng chúng ta lưu ý: một là văn bản nói rõ là hàng giáo phẩm nên chúng ta phải hiểu là các giám mục chứ không phải là các linh mục được gọi chung là hàng giáo sĩ; hai là “cùng làm việc với” hàng giáo phẩm chứ không phải là “làm việc dưới” quyền chỉ huy hay theo sự điều động/sai bảo của hàng giáo phẩm. 
 
2.5 Các phương thế giúp người giáo dân trở nên đích thực hay trưởng thành.           
  Làm thế nào để giáo dân có khả năng làm cho Giáo Hội được thiết lập thực sự trên một mảnh đất, trong một cộng đồng dân tộc, làm cho Giáo Hội sống đầy đủ ơn gọi, sứ mạng, trách nhiệm của mình trong một cộng đồng xã hội, làm cho Giáo Hội sống đầy đủ ơn gọi, sứ mạng, trách nhiệm của mình trong một cộng đồng xã hội, cùng làm việc với Hàng Giáo Phẩm? Nói cách khác là làm thế nào để người giáo dân trở thành muối, men và ánh sáng trong các môi trường gia đình và xã hội (Mt 5,13-16; 13,33)? Làm thế nào để người giáo dân là môn đệ chân chính của Thầy Giê-su (xem Mt 7,21-27), là người thuộc gia đình của Đức Giê-su (Mt 12,40-50) và là thợ vườn nho của Thiên Chúa (Mt 20,1-2.4.5-7)?
 
Thiết nghĩ có 6 việc quan trọng sau đây :
Một là đào tạo bồi dưỡng cơ bản và chuyên sâu về Giáo Lý, Giáo Luật, Thánh Kinh, Thần Học, Linh Đạo, Lịch Sử Giáo Hội toàn cầu và địa phương, Công Đồng và Giáo Huấn Xã hội của Giáo Hội. Ở lãnh vực bao la rộng lớn này chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Ở đây chúng ta có Trung tâm và Học viện Mục vụ là nơi sinh hoạt và đào tạo giáo dân. Nhưng thử hỏi đã có được bao nhiêu phần trăm giáo dân thành phố lưu tới nơi này, tham dự các Khóa học hỏi, các sinh hoạt ở đây? Cũng thử hỏi ngoài giáo phận Sài-gòn có được mấy giáo phận trong cả nước có chương trình và các lớp, các khóa đào tạo giáo dân như ở đây?
 
Hai là giao trách nhiệm cho giáo dân hay đúng hơn là để và giúp giáo dân đảm đương công việc thuộc trách nhiệm của họ. Trách nhiệm của giáo dân phần chính là có liên quan tới trần thế, chứ không chỉ giới hạn trong nội bộ Giáo Hội mà thôi.
 
Ba là thay đổi não trạng xem thường giáo dân hay não trạng “giáo sĩ trị” (cléricalisme) trong Giáo Hội Việt Nam là Giáo Hội còn quá nặng tính giáo sĩ. Não trạng này rất phổ biến nơi giáo dân (mặc cảm tự ti thái quá) cũng như nơi giáo sĩ (mặc cảm tự tôn thái quá).  
 
Bốn là thiết lập, thay đổi và cải tiến cơ chế như Hội đồng Tài chánh giáo xứ và giáo phận, Hội đồng Mục vụ giáo xứ và giáo phận, các Ủy Ban thuộc Hội đồng Giám mục, nhất là các ủy ban có liên hệ trực tiếp tới giáo dân như Ủy ban giáo dân, Ủy ban gia đình, Ủy ban truyền thông v.v… Ở cơ quan cao nhất là Hội đồng Giám mục Việt Nam, chúng ta chưa bao giờ thấy sự hiện diện của người giáo dân, dù chỉ là với tư cách là quan sát viên hay người dự thính chứ chưa dám nói tới việc người giáo dân được phát biểu hay đóng góp ý kiến, bàn bạc, trong các kỳ họp hay hội nghị các Giám mục.
 
Năm là xây dựng mối tương quan trưởng thành và hợp tác với hàng giáo phẩm và hàng giáo sĩ như Công đồng Vatican đã xác định ở số 37 của “Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội” (2), ở số 9 của “Sắc Lệnh về Chức Vụ và Đời Sống Linh mục” (3) và như Đức Thánh Cha Biển Đức đã nhắc nhở trong sứ điệp gửi Diễn Đàn quốc tế các tổ chức Công Giáo Tiến Hành vừa nhóm họp tại Iasi (Rumani) cuối tháng 8.2012 (1).
 
Điều đáng mừng là Giáo Hội Việt Nam nói chung và Giáo phận Sài-gòn nói riêng đã ý thức được những vấn đề nêu trên. Thư Chung hậu Đại Hội Dân Chúa của Giáo Hội Việt Nam năm 2000 ghi nhận trong số 27 «Nay Giáo Hội cần quan tâm hơn đến việc phát huy phẩm chất của giáo dân bằng cách tổ chức các khóa huấn luyện về thần học, giáo lý, Kinh Thánh, mục vụ. [xem đề nghị 11,20,21]. Đồng thời, cần canh tân những đường hướng và qui chế tổ chức giáo phận và giáo xứ, để giáo dân có cơ hội thực thi những quyền chính đáng và trách nhiệm của mình trong Giáo Hội» [xem đề nghị 11]. Và Công Nghị Tổng Giáo Phận Sài-gòn 2011 cũng đã đưa ra nhiều đề nghị quan trọng trong đó đáng chú ý nhất là các đề nghị 12,13 và 14:
 
Đề nghị 12: Linh mục là người nối kết mọi thành phần Dân Chúa trong giáo xứ với nhau (80%) và là người chịu trách nhiệm về sự hiệp thông của cộng đoàn (77%). Linh mục nên dành thời gian để gặp gỡ giáo dân và tạo điều kiện cho các đoàn thể gặp gỡ, học hỏi và làm việc với nhau (74%), quan tâm chăm sóc và nâng đỡ giáo lý viên, ca viên, thiếu nhi (66%).
 
Đề nghị 13: Linh mục cần thay đổi não trạng và lối nhìn về giáo dân, đặc biệt là người trẻ và phụ nữ, coi họ như những cộng sự viên chứ không phải những người giúp việc (85%), tin tưởng và trao trách nhiệm cho giáo dân (79%), khuyến khích và tạo điều kiện cho họ tham gia vào đời sống của giáo xứ (72%). Để mọi người có thể đóng góp ý kiến và tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ, linh mục cần phải có kế hoạch và chương trình mục vụ phù hợp với kế hoạch và chương trình mục vụ của giáo phận (77%), đồng thời thông báo cho cộng đoàn được biết một cách sớm sủa và đầy đủ (68%).
 
Đề nghị 14: Linh mục cần có kế hoạch làm việc chung với hội đồng mục vụ giáo xứ, thông tin đầy đủ, phân chia công việc và tôn trọng cộng sự viên (77%). Đối với các nữ tu phục vụ tại giáo xứ, linh mục cần có sự hiểu biết, đối thoại và hợp tác trong sự tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng ơn gọi và sứ mạng của các hội dòng (65%).
 
Điều mọi người mong đợi là những nhận thức nêu trên được đem ra thực hiện ở cả ba cấp: giáo xứ, giáo phận và toàn quốc. Điều đáng lo ngại nhất là tình trạng «nói một đàng làm một nẻo», thực tế khác hẳn, thậm chí đối nghịch với văn bản và những nhận định sáng suốt và quyết tâm tốt lành vẫn chỉ nằm trên giấy !   
 
Sáu là có một bối cảnh xã hội chính trị cởi mở, tự do, tôn trọng quyền con người và mọi công dân được bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử, không kỳ thị tôn giáo. Nếu không có được một bối cảnh xã hội-chính trị như thế thì người giáo dân cũng khó mà thực thi cách hiệu quả ơn gọi và sứ vụ của mình trong trần thế, vì họ dễ dàng bị ghép vào tội chính trị là chống phá chế độ.
 
III. KẾT LUẬN
Để kết luận tôi xin chia sẻ một kỷ niệm có tính riêng tư, nhưng không phải là không có liên quan tới chủ đề. Trong những năm 1994-1997 của thế kỷ trước, với tư cách là đại diện và nhân viên của Food for the Hungry International là một tổ chức từ thiện Mỹ tại Việt Nam, tôi có nhiều dịp ra Hà Nội và gặp gỡ Đức Cố Hồng Y Phao-lô Giu-se Phạm Đình Tụng, Tổng Giám Mục Hà Nội. Trong một lần gặp gỡ, Đức Cố Hồng Y nhắc đi nhắc lại với tôi rằng người giáo dân lý tưởng ngày nay phải là người đứng một chân trong Giáo Hội và một chân ngoài xã hội. Ý của Đức Cố Hồng Y Phao-lô Giu-se muốn nói là người giáo dân vừa phải là tín hữu tích cực trong đời sống Giáo Hội, vừa phải là người công dân đóng góp xây dựng xã hội. Lúc đó tôi vừa dấn thân phục vụ Giáo Hội vừa dấn thân phục vụ xã hội. Lúc đó tôi phục vụ Giáo Hội bắng/qua các hoạt động giáo lý như làm việc trong ban Giáo Lý Tổng Giáo Phận Sài-gòn mà người đứng đầu là linh mục Augustinô Nguyễn Văn Trinh; cộng tác với linh mục Phê-rô Nguyễn Văn Khảm (hiện là Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Sài-gòn) trong việc tổ chức các Lớp Giáo Lý Trung Cấp tại Nhà Thờ Chánh Tòa Sài-gòn; cộng tác với linh mục Phê-rô Nguyễn Văn Hiền (hiện là Giám Đốc Trung Tâm Mục Vụ Sài-gòn) trong việc huấn luyện các linh hoạt viên giới trẻ qua các Khóa Khám Phá và Chia sẻ Lời Chúa tại Nhà Thờ Tân Định. Tôi phục vụ xã hội qua các chương trình cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo & học giỏi, cho các phụ nữ nghèo vay vốn làm ăn chăn nuôi, hỗ trợ y tế cho bệnh viện tỉnh, huyện và trạm y tế xã, dậy nghề cho thanh niên nam nữ nghèo chưa có việc làm v.v… tại tỉnh Đồng Tháp và một vài nơi khác. Vì thế tôi nhận được sự ưu ái đặc biệt của Đức Cố Hồng Y Phao-lô Giu-se Phạm Đình Tụng và được ngài xem là người giáo dân điển hình.
Thật ra câu chuyện của tôi chẳng có gì to tát để đáng được nói ra ở đây. Và trong số anh chị em giáo dân có mặt hay không có mặt trong Hội Trường Gio-an Bao-ti-xi-ta Phạm Minh Mẫn này, có nhiều người đã và đang làm nhiều hơn tôi, làm tốt hơn tôi. Đó là điều đáng mừng và là niềm hy vọng của Giáo Hội Việt Nam nói chung và của hàng giáo dân Việt Nam nói riêng.
Ước gì Giáo Hội Việt Nam càng ngày càng có nhiều người giáo dân một chân đứng vững trong Giáo Hội, một chân đứng vững trong xã hội trần thế bằng những dấn thân tích cực và hữu hiệu của các môn đệ Chúa Ki-tô!
 
Sài-gòn 16 tháng 09 năm 2012
Kỷ Niệm Giỗ thứ 10 của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
 
------------------------------------------
Ghi chú:
(1) “Tinh thần đồng trách nhiệm đòi phải thay đổi não trạng, nhất là về vai trò của giáo dân trong Giáo Hội: không được coi giáo dân chỉ là “những cộng tác viên” của hàng giáo sĩ, nhưng như những người thực sự “đồng trách nhiệm” đối với cuộc sống và hoạt động của Giáo Hội. Vì thế, điều quan trọng là phải củng cố một hàng giáo dân trưởng thành và dấn thân, có khả năng đóng góp phần đặc thù của mình cho sứ mạng của Giáo Hội, trong niềm tôn trọng các thừa tác vụ và nghĩa vụ của mỗi người trong đời sống Giáo Hội và luôn luôn hiệp thông với các Giám Mục”.
“Điều này có nghĩa là khi phục vụ Giáo Hội, giáo dân phải đón nhận mục đích tông đồ trong toàn bộ, trong một sự quân bình phong phú giữa Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội địa phương, và trong tinh thần hiệp thông sâu xa với Người Kế Vị Thánh Phê-rô và tinh thần đồng trách nhiệm thực sự với các vị chủ chăn của mình.”
“Vai trò của giáo dân có một tầm quan trọng đặc biệt, nhất là trong giai đoạn hiện nay của lịch sử, cần phải được giải thích dưới ánh sáng giáo huấn xã hội của Hội Thánh, để ngày càng trở thành ”một phòng thí nghiệm về sự hoàn cầu hóa tình liên đới và bác ái, để cùng với toàn thể Giáo Hội, tăng trưởng trong sự đồng trách nhiệm, mang lại một tương lai hy vọng cho nhân loại, có can đảm đưa ra những đề nghị đòi hỏi nhiều cố gắng”.
“Cuộc sống của anh chị em hãy có tính chất 'trong sáng', được Tin Mừng hướng dẫn và được soi sáng nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, được yêu mến và noi theo không chút sợ hãi. Hãy đảm nhận và chia sẻ những chọn lựa mục vụ của các giáo dân và giáo xứ, tạo những cơ hội gặp gỡ và cộng tác chân thành với các thành phần khác trong Giáo Hội, kiến tạo những quan hệ quí mến và hiệp thông với các linh mục, để họp thành một cộng đồng sinh động, phục vụ và truyền giáo”.
[Sứ điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI gửi Diễn Đàn Quốc Tế của Phong Trào Công Giáo Tiến Hành, nhóm tại thành phố Iasi (Rumani) từ ngày 22 đến 26/8/ 2012/ G. Trần Đức Anh OP chuyển dịch/ Vatican - 24/08/2012].
(2)“Như mọi Ki-tô hữu khác, giáo dân cũng có quyền được các chủ chăn có chức thánh ban phát dồi dào ơn trợ lực chứa đựng trong kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, đặc biệt là Lời Thiên Chúa và các bí tích. Như con cái Thiên Chúa và như anh em trong Chúa Ki-tô, họ cũng sẽ trình bày với các vị ấy những nhu cầu và khát vọng của mình một cách tự do và tín cẩn. Nhờ sự hiểu biết, khả năng chuyên môn và uy tín của họ, họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ mình về những việc liên quan đến lợi ích của Giáo Hội. Họ nên thực hiện điều đó, nếu cần, nhờ vào các cơ quan đã được Giáo Hội thiết lập nhằm mục đích ấy; và họ hãy luôn chân thành, can đảm và khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những người thay mặt Chúa Ki-tô vì nhiệm vụ thánh của các ngài.
Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng lời của người Ki-tô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều mà các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Ki-tô, đã quyết định với tư cách những thầy dạy và những nhà lãnh đạo trong Giáo Hội; làm như thế, họ đã theo gương Chúa Ki-tô, Ðấng đã vâng lời cho đến chết, để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Giáo dân đừng quên dùng lời cầu nguyện phó dâng cho Thiên Chúa các vị lãnh đạo của mình, để các ngài hoan hỷ mà không than vãn thi hành nhiệm vụ chăm sóc linh hồn chúng ta, nhiệm vụ mà các ngài sẽ phải trả lẽ (x. Dt 13,17).
Phần các chủ chăn có chức thánh, các ngài phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội, các ngài nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ, tin cẩn giao phó cho họ những công tác để họ phục vụ Giáo Hội, cho họ tự do và quyền hạn để hành động; hơn nữa, các ngài cũng nên khuyến khích họ tự đảm lấy trách nhiệm. Với tình cha con, các ngài hãy cẩn thận xem xét, trong Chúa Ki-tô, những kế hoạch, thỉnh cầu và khát vọng của họ. Ðàng khác, các chủ chăn phải nhìn nhận và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực trần thế.
Họ hy vọng rằng, sự liên lạc mật thiết giữa giáo dân và chủ chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội: thực vậy, nhờ sự liên lạc đó, giáo dân ý thức trách nhiệm mình một cách vững vàng hơn; lòng hăng say của họ được phát triển, và họ góp sức dễ dàng hơn vào công việc của các chủ chăn. Phần các chủ chăn, nhờ sự trợ lực kinh nghiệm của giáo dân, các ngài có thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng liêng cũng như trần thế; như vậy, toàn thể Giáo Hội được vững mạnh nhờ tất cả mọi chi thể, sẽ chu toàn hữu hiệu hơn sứ mệnh mình đối với sự sống của thế gian”. [Hiến chế tín lý về Giáo Hội tức Hiến chế Ánh sáng muôn dân, số 37]
- Từ bản văn trên chúng ta có thể rút ra những điều sau đây:
- Với hàng Giáo Phẩm, giáo dân có:
* Quyền được lãnh nhận một cách dồi dào những ơn trợ lực từ kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, nhất là từ Lời Chúa và Bí Tích;
* Quyền bày tỏ những nhu cầu và ước vọng của mình, trong tinh thần tự do, tin tưởng phù hợp với tư cách của những con cái Thiên Chúa và anh em Đức Ki-tô;
* Khả năng và nghĩa vụ (đôi khi) nói lên cảm nghĩ của mình về những việc liên quan tới lợi ích của Giáo Hội trong tinh thần chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và bác ái;
* Bổn phận tuân theo những chỉ thị mà hàng Giáo Phẩm quyết định với tư cách thày dạy  và lãnh đạo Giáo Hội.
- Với giáo dân, Hàng Giáo Phẩm:
* Phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội;
* Nên chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của giáo dân, tin cẩn giao cho họ những công tác để họ phục vụ Giáo Hội; 
* Nên khuyến khích giáo dân lãnh lấy phần trách nhiệm của họ và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực trần thế.
(3) “Các linh mục phải lãnh đạo cộng đồng làm sao để không tìm lợi ích riêng cho mình, nhưng tìm lợi ích cho Đức Giê-su Ki-tô (Pl 2,21) bằng cách kết hợp cố gắng của mình với cố gắng của giáo dân và xử sự với họ theo gương Thầy là Đấng đến ở giữa mọi người, không phải để được hầu hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm gía chuộc thay cho nhiều người “ (Mt 20,28).
Cụ thể, Sắc lệnh vạch ra 6 chỉ dẫn sau đây cho các linh mục:
(1º) “Các linh mục phải chân thành nhìn nhận và thăng tiến phẩm gía của Giáo Dân và vai trò riêng của họ trong sứ mệnh Hội Thánh;
(2º) “Các linh mục phải chân thành kính trọng sự tự do chính đáng mà mọi người có quyền được hưởng trong lãnh vực trần thế;
(3º) “Các linh mục phải sẵn lòng lắng nghe giáo dân, cứu xét các nguyện vọng của họ trong tinh thần huynh đệ, nhìn nhận kinh nghiệm và khả năng chuyên môn của họ trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt động nhân bản, để cùng với họ có thể nhận biết các dấu chỉ của thời đại;
(4º) “Trong khi nghiệm xét các Thần Khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, các ngài phải lấy tinh thần đức tin mà khám phá và nhận ra các đoàn sủng muôn hình vạn trạng của giáo dân, từ những đoàn sủng nhỏ bé nhất đến những đoàn sủng cao vượt nhất. Các ngài sẽ vui mừng nhìn nhận và nhiệt thành phát huy các đoàn sủng ấy;
(5º) “Trong những hồng ân mà Thiên Chúa ban tràn đầy trên các tín hữu như thế, phải đặc biệt lưu tâm đến những ơn lôi kéo một số giáo dân tiến xa hơn trên đường thiêng liêng;
(6º) “Cũng thế, các linh mục phải biết tin tưởng giáo dân để giao phó cho họ những trách nhiệm trong việc phục vụ Hội Thánh, để cho họ được tự do và có điều kiện hoạt động, hơn nữa còn khuyến khích họ mỗi khi gặp cơ hội thuận tiện phải biết tự mình có sáng kiến mà hành động”
[Sắc lệnh về Chức vụ và Đời sống linh mục, số 9].
 
Đề Tài III.
Ơn Gọi Dấn Thân Và Nên Thánh Của Giáo Dân Giữa Trần Thế

Công đồng Vatican II (Công đồng) của thế kỷ 20 đang chìm dần vào quên lãng, chỉ còn “vang bóng một thời”? Xem ra là như thế. Người tín hữu giáo dân, nhất là thế hệ trẻ, hiện nay có mấy ai hiểu được tinh thần Vatican II! Điều khá oái ăm, trong lịch sử Giáo hội, chưa bao giờ tinh thần nhập thế, vai trò và ơn gọi giáo dân được đề cao như tại Công đồng Vatican II. 

Thành thật mà nói, có những người giáo dân đã đọc Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, các Hiến chế Ánh sáng Muôn dân và Giáo hội trong Thế giới Ngày nay và đã lên đường theo tiếng gọi dấn thân và nên thánh giữa đời của Vatican II. Kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng, họ thấy rằng các văn kiện Công đồng không phải là “lý thuyết xám xịt” mà mãi mãi “xanh tươi” như “cây đời”, vì ở đó họ vẫn tìm thấy sức sống và ánh sáng hướng dẫn họ thực hiện sứ mạng và ơn gọi giữa trần thế. 

Giáo dân “hai không hai có” 

Theo định nghĩa tại Chương 4 Hiến chế Ánh sáng muôn dân, giáo dân là người tín hữu không có chức thánh và không đi tu! Định nghĩa này, ngoài khía cạnh tiêu cực “hai không”, còn có khía cạnh tích cực ở chỗ Giáo dân là người được nên một với Đức Kitô qua phép Thánh tẩy và được “nhập hộ khẩu”, “nhập tịch” DÂN CHÚA. Họ được chia sẻ chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế. Họ là con Thiên Chúa. Cha nào thì con nấy. Chúa thánh thiện thì con Chúa cũng phải nên thánh. Chúa cứu độ thế gian thì con Chúa cũng phải dấn thân vào giữa lòng thế giới chứ không chỉ ở trong nhà thờ cầu nguyện. Họ được lĩnh bí tích Thêm sức để có thể chu toàn sứ vụ của mình. Hiến chế xác định rõ: Giáo dân có sứ mạng PHÚC ÂM HÓA trần gian, sắp xếp trần gian theo thánh ý Chúa, xây dựng Nước Chúa ngay từ trần gian, mang ơn cứu độ toàn diện cho con người ngay giữa trần gian. 

Có năm bảy loại hình giáo dân 

Tuy nhiên, định nghĩa của Công đồng là thế. Trong thực tế, giáo dân cũng có nhiều loại hình, xin kể ra một số: 

· Giáo dân làm việc trong xứ đạo, nơi tòa giám mục, ở trung tâm mục vụ; 

· Giáo dân đi làm ở ngoài đời; 

· Giáo dân chờ mệnh lệnh của hàng giáo phẩm; 

· Giáo dân gì cũng hỏi rồi mới dám làm; 

· Giáo dân khoanh tay; 

· Giáo dân đứng nhìn; 

· Giáo dân “trùm chăn”; 

· Giáo dân phiền muộn hàng giáo phẩm; 

· Giáo dân chỉ trích tứ bề; 

· Giáo dân quanh quẩn nhà thờ nhà thánh; 

· Giáo dân “ly dị” với cuộc sống đạo ở ngoài nhà thờ và trong xã hội. 

Vậy Giáo dân dấn thân, anh chị là ai? 

Thưa, đó là người tín hữu đã nhận ra căn tính của mình: Nhờ phép Thánh tẩy và Thêm sức, họ đã được nên giống Chúa, bây giờ họ can đảm đi làm chứng cho Chúa và cố gắng thánh hóa mình đồng thời tham dự vào công cuộc thánh hóa trần gian. 

Trong hành vi, thái độ, cung cách sống và nội tâm, họ tham gia hành xử sứ vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế vốn gắn liền với họ qua Bí tích Thánh tẩy. 

Theo Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, giáo dân dấn thân là người “theo gương Chúa, yêu thương đến mức quên mình vì người khác, hiến mình toàn thân, hiến mình nhưng không, để hiệp nhất với kẻ khác, hầu họ được phong phú và công việc Chúa nơi họ được thành công” (Đường Hy Vọng, 605). Vatican II nhấn mạnh: Giáo dân dấn thân phải có ba nhân đức Tin,Cậy và Mến. 

Đến đây, ta hãy thử đi tìm chân dung người giáo dân Việt Nam đang dấn thân vào các lĩnh vực trần thế như gia đình, kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị, lao động và rút ra những nhận định xem Vatican II “xám xịt”, “một thời vang bóng” hay vẫn “xanh tươi”? Trước hết, ta cần nhận định đúng về hiện tình đất nước. 

Tiếng chuông ngân trần,Việt Nam nguyện cầu 

Tiếng chuông não nùng,Việt Nam buồn thảm 

Người Công giáo Việt Nam luôn nguyện cầu cho quê hương, đặc biệt trong những lúc “Việt Nam buồn thảm”, theo gương Đức Hồng y Tôi tớ Chúa Nguyễn Văn Thuận. Việt Nam hiện nay đang có những vấn đề gì? Theo tài liệu học hỏi Năm Thánh 2010, xã hội Việt Nam đang phải đối diện với những thách đố sau đây: 

1. Tác động tiêu cực của tiến trình toàn cầu hóa kinh tế; 

2. Hố ngăn cách giữa người giàu và nghèo ngày càng sâu rộng; 

3. Bùng phát di dân và các tệ nạn xã hội; 

4. Ô nhiễm môi trường ngày càng tăng; 

5. Hệ thống an sinh xã hội và chăm sóc y tế yếu kém; 

6. Lạm dụng công nghệ thông tin hiện đại gây nhiều tác hại, nhất là giới trẻ; 

7. Dân tộc thiểu số bị thiệt thòi. 

Ngoài ra, Việt Nam đang có vấn đề về Biển Đông. Nhưng cũng có tiếng chuông hy vọng. 

Tiếng chuông thánh thót, Việt Nam hy vọng 

Hy vọng vì có những giáo dân dấn thân vào một số lĩnh vực sau đây, dù nhỏ bé, nhưng đang góp phần đáp lại ơn gọi và sứ mạng mà Chúa và Công đồng Vatican mời gọi, vì Chúa “quá yêu thế gian” và Giáo hội Việt Nam cũng phải đi “con đường của con người” Việt Nam: 

1. Dấn thân lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cho người Việt Nam: Giáo dân ngành y đến khám bệnh cho vùng sâu vùng xa; phụ giúp Giáo hội mở ra các phòng khám bệnh, nhất là cho những người bị phân biệt đối xử như bệnh nhân có HIV, bệnh nhân Hansen. Giáo dân còn đến tận nhà hoặc tận giường bệnh. 

2. Dấn thân vào lĩnh vực giáo dục: Đã thấy lác đác thầy cô Công giáo trong đại học, khá nhiều ở trung tiểu học và mẫu giáo. Có những Giáo dân phụ giúp Giáo hội mở các lớp học tình thương, giúp sinh viên nghèo học bổng. Mùa thi về, cửa giáo xứ lại mở rộng và giáo dân phụ giúp cha xứ trong đủ mọi mặt sinh hoạt nhằm phục vụ thí sinh. 

3. Dấn thân vào lĩnh vực cai nghiện ma túy: Giáo dân chăm sóc nạn nhân từ khâu cai nghiện cho đến hậu cai, tâm lý, tâm linh, huấn nghiệp. 

4. Dấn thân vào lĩnh vực mở nhà tình thương cho người không biết đi về đâu, nhất là các nạn nhân vừa nghiện vừa có HIV. 

5. Dấn thân vào lĩnh vực di dân: Khám chữa bệnh miễn phí; tham vấn tâm lý; mời gọi người xa quê dự thánh lễ mỗi Chủ nhật; tổ chức các lễ hội cho người xa quê. 

6. Dấn thân vào lĩnh vực chăm sóc các thai phụ trẻ tuổi bị ruồng bỏ và bị dụ dỗ phá thai. 

7. Dấn thân vào lĩnh vực bảo vệ sự sống. 

8. Dấn thân vào lĩnh vực thăm viếng tù nhân, giúp tăng khẩu phần dinh dưỡng và mời linh mục giải tội. 

9. Dấn thân vào lĩnh vực gia đình là chiếc nôi của sự sống và tình yêu, là thánh điện của sự sống mà nay đang bị tấn công tơi bời. Các anh chị giáo dân đến các gia đình, kể cả lặn lội đến các vùng sâu vùng xa, tập hợp thành nhóm gia đình để cầu nguyện và học Lời Chúa, huấn luyện bền bỉ cho các cặp vợ chồng trẻ cũng như các bậc làm cha mẹ, hướng nghiệp và huấn nghiệp cho các con em. Hàng giáo phẩm Việt Nam đặc biệt đánh giá cao công cuộc dấn thân này. 

10. Dấn thân trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, báo chí, lịch sử, phát thanh truyền hình, truyền thông mạng điện toán, nghiên cứu khoa học. Thời thế kỷ 20 có nhà thơ Hàn Mặc Tử, nhạc sĩ Hùng Lân, nhà văn Nhật Tiến. Thời nay cũng có nhiều nhà văn hóa, nhạc sĩ, ca sĩ, họa sĩ, văn sĩ, thi sĩ, ký giả, điêu khắc gia, giảng viên Công giáo tài hoa lỗi lạc được nhiều giới trong và ngoài Công giáo mộ mến. 

Còn nhiều nhiều nữa những gương dấn thân của người giáo dân như: giảng giải về tâm lý và y học; dạy giáo lý hôn nhân; chăm sóc trẻ em đường phố; tư vấn pháp luật; tham vấn tâm lý; dịch thuật; dạy nghề; mở quán cơm giá rẻ; mở siêu thị giá rẻ cho người nghèo; xe đưa rước bệnh nhân nghèo; chăm sóc hậu sự; dạy kèm; hướng về nông thôn và cao nguyên; giúp đỡ dân tộc ít người... 

Tóm lại, giáo dân dấn thân vào mọi ngõ ngách của cuộc đời, tập trung vào sự sống con người. Mượn lời của Chân phước Gioan Phaolô II, có thể nói họ làm thành “một cộng đồng phục vụ con người”. 

Công đồng Vatican II và vấn đề tham gia của giáo dân trong lĩnh vực chính trị 

Hiến chế Giáo hội trong Thế giới Ngày nay bảo rằng chính trị là một nghệ thuật rất cao cả đồng thời lại cũng lắm khó khăn; do đó, những giáo dân nào có khả năng chính trị cần phải được chuẩn bị trước. Hiến chế (số 75 và 76) minh định: 

“Tất cả mọi Kitô hữu phải ý thức về sứ mệnh đặc biệt của mình trong cộng đoàn chính trị... Công dân phải nung nấu tinh thần ái quốc với lòng đại lượng trung kiên chứ không hẹp hòi... Cần phải hết sức quan tâm đến việc giáo dục cả về công dân và về chính trị... Phải đem đời sống thanh liêm và sự khôn ngoan chống lại bất công áp bức, chống lại độc tài và ngoan cố của một cá nhân hay một đảng phái chính trị... Giáo hội không cậy nhờ vào những đặc ân của thế quyền... Bất cứ ở đâu và bất cứ thời nào, Giáo hội cũng phải được tự do rao giảng đức tin, truyền bá học thuyết xã hội của mình cũng như được dễ dàng chu toàn sứ mệnh của mình giữa loài người... Giáo hội được quyền nói lên nhận định luân lý của mình về cả những vấn đề liên quan đến lĩnh vực chính trị khi quyền lợi căn bản của con người hay phần rỗi các linh hồn đòi hỏi”. 

Tóm lại, đối với giáo dân, việc tham gia vào chính trị là một hành động thích đáng. 

Ở nước Việt Nam, để làm chính trị theo nghĩa hẹp là thành đảng viên Cộng sản thì giáo dân lại không thể tham gia vì những quan niệm khác biệt. Một bên tuyên xưng có Thiên Chúa, có cuộc sống vĩnh cửu sau khi chết, một bên chủ trương duy vật vô thần. Tuy nhiên, nếu hiểu tham gia chính trị theo nghĩa rộng, tức là chăm lo phục vụ công ích thì vẫn “có cửa” cho giáo dân dấn thân trên con đường này. 

Cụ thể, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đề nghị giáo dân quan tâm thực hiện những vấn đề sau đây: Bảo vệ phẩm giá con người, bảo vệ sự sống con người từ lúc còn là bào thai trong bụng mẹ cho đến cái chết tự nhiên, thăng tiến gia đình, phát huy tự do tôn giáo, gia tăng tình liên đới, triển khai công lý và hòa bình. 

Năm 1971, trong Tông thư Bát thập niên, Đức giáo hoàng Phaolô VI viết: “Dấn thân vào chính trị là phương thế cần thiết để người Công giáo thực thi bác ái, phục vụ tha nhân”. 

Chỗ nào có người Công giáo, chỗ đó có “ngọc trong đá” 

Ngọc ám chỉ sự thánh thiện mà người giáo dân tháp ghép vào tảng đá trần gian, nhờ có ngọc mà đá sẽ đẹp vì chất ngọc “ngấm dần” vào trong đá. Thánh thiện là chất di truyền ADN của Chúa truyền vào giáo dân nhờ họ sống Lời Chúa, sống các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể, đồng thời với việc thực thi nhân đức yêu thương bác ái vị tha. Họ còn khẩn nguyện xin ơn Thánh Thần, họ tôn kính Mẹ Maria, họ sống mầu nhiệm thánh giá khi lữ hành trên dương thế, mắt hướng về “Đô thành của Thiên Chúa”, tay xây dựng xã hội nhân bản toàn diện và liên đới để Nước Chúa hiển hiện “ở đây và lúc này”. Họ tham gia các lĩnh vực gia đình, kinh tế, khoa học kỹ thuật, lao động, văn hóa nhằm phục vụ con người, đề cao phẩm giá con người, cổ vũ tình liên đới, công lý và hòa bình theo giáo huấn và chuẩn mực của Đức Giêsu. 

Người giáo dân dấn thân luôn được Giáo hội kêu gọi: Anh ơi, chị ơi, trước khi và trong khi dấn thân, anh chị phải nên thánh trước đã. Phương thế nên thánh đó là anh chị phải Yêu. Yêu là “dấu hiệu nhận biết người môn đệ Đức Kitô”(x. Ga 13,35). Chúa dạy ta rằng luật căn bản để hoàn thiện con người và qua đó để biến đổi thế giới là “điều răn mới” về tình yêu (x. Mt 22,40;Ga 15,12). Khi người giáo dân “đang yêu” kiểu Giêsu, người đó sẽ phát huy trọn vẹn tính người. Người đó sẽ đâm ra yêu nhân quần xã hội, yêu “cõi người ta”, yêu Việt Nam, yêu theo lời của Thánh Augustinô: “Giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn”. Động lực mạnh nhất thúc đẩy con người hoạt động là động lực yêu. Chất yêu (chất “ngọc trong đá”) sẽ thấm dần vào bên trong các mối quan hệ xã hội. Yêu Chúa, yêu tha nhân là “hoàn tất luật Tin Mừng”. Yêu theo kiểu Chúa Giêsu là thuốc giải độc chống ác tà tội lỗi đang hoành hành trong trần gian. Đó là nội dung chính của việc nên thánh trong môi trường sống. 

Sự hướng dẫn, nâng đỡ và hỗ trợ của Giáo hội với tư cách Mẹ và Thày 

Tuy nhiên, dấn thân là cả một cuộc vượt qua: người giáo dân ấy trước kia thụ động giữ đạo thì nay chủ động, năng động sống đạo và tích cực đi phục vụ, làm chứng và rao truyền tin vui về Nước Chúa với tư cách vương đế, tư tế và ngôn sứ giữa dòng đời. Trước kia còn rụt rè“gọi dạ bảo vâng”, thì nay sống trong Giáo hội như người dám đảm nhận trách nhiệm của mình với tư cách giáo dân ĐỒNG TRÁCH NHIỆM trong công trình xây dựng Nước Chúa. 

Thế nhưng, liệu có giữ luôn mãi được lửa nhiệt tình? Dấn thân có những lúc “cao trào” như được lên núi Tabo, nhưng cũng có nhiều lúc “thoái trào”, cô đơn lạc lõng, có cả lúc khiếp sợ nữa, như trong vườn Giệtsimanê, chỉ muốn thoái thân, trùm chăn, xin cho được hai chữ “bình an”. Thực tế cho thấy có những thất bại dấn thân, có những nguy cơ thất bại dấn thân! 

Anh chị giáo dân dấn thân ơi, xin hãy chạy đến túp lều nơi có Chúa đợi chờ, đó là Giáo hội (x. Kh 21,3). Giáo hội hiện diện giữa đời để chia sẻ “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ”. Bản chất Giáo hội là HIỆP THÔNG và LIÊN ĐỚI, cho nên Giáo hội là nơi khơi gợi và nâng đỡ mọi cố gắng, mọi dấn thân của giáo dân nhằm giải thoát và thăng tiến con người. Trong túp lều Giáo hội, anh chị sẽ được Giáo hội bồi dưỡng, nâng đỡ, ủi an, sẽ được Chúa “LAU SẠCH NƯỚC MẮT” (x.Kh 21,4). 

Mọi giáo hoàng từ Đức Gioan XXIII đến Đức Bênêđictô XVI đều là giáo hoàng của Công đồng Vatican II. Mọi giám mục đều phải là giám mục của Công đồng Vatican II. Mọi linh mục cũng đều phải là linh mục của Công đồng Vatican II. Có như thế thì càng ngày càng có thêm nhiều giáo dân trưởng thành, đồng trách nhiệm, sống đúng tinh thần của Công đồng Vatican II. 

Xin Giáo hội là Mẹ và là Thày, hãy nâng đỡ chúng con, hãy hướng dẫn và giáo huấn chúng con, nhất là về phương diện xã hội bằng Giáo huấn Xã hội Công giáo, là bí mật mà ở các nước, nhất là ở Mỹ, được mệnh danh là “bí mật được bảo mật kỹ nhất” (Best Kept Secret) của Giáo hội. Xin hãy “bật mí” cho chúng con “bí mật” ấy. 

Kết luận 

Giáo dân dấn thân theo tinh thần Công đồng Vatican cần phải sống thánh thiện bằng đức Ái để có thể dùng tình yêu mà biến đổi thế gian theo ý Chúa. Đức Bênêđictô XVI khẳng định trong Thông điệp xã hội Caritas in veritate của ngài rằng Bác ái trong Sự thật là sức mạnh hữu hiệu nhất để biến đổi thế giới. Chúa muốn thế gian được cứu chuộc, con người được hạnh phúc và phát triển toàn diện khi họ sống và làm việc, dấn thân trong các lĩnh vực gia đình, văn hóa, kinh tế, lao động, pháp luật, xã hội, chính trị, khoa học kỹ thuật. 

Chúa và Giáo hội mời gọi giáo dân sống thánh giữa đời, rao truyền tin vui cho đời rằng: Quí vị có Thiên Chúa là cha của quí vị. Ngài muốn quí vị “thoát vòng tục lụy” là tội lỗi, Ngài mời gọi quí vị chung tay xây dựng Nước Thiên Chúa ngay từ trần gian, Ngài muốn quí vị chung tay xây dựng nền nhân bản toàn diện và liên đới, xây dựng nền văn minh tình yêu ngay ở hành tinh này. Quí vị không cô đơn, quí vị có Đức Giêsu, có Chúa Thánh Thần ban ơn, có Giáo hội đồng hành, có giáo dân dấn thân vào các thực tại trần gian để làm chứng cho sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa. Những giáo dân ấy có thể hy sinh cả mạng sống chỉ vì yêu thương anh chị em đồng loại. 

Riêng ở Việt Nam, giáo dân dấn thân sẽ quan tâm đến cả thực tại chính trị, tức là phục vụ công ích. Lâu nay, người Công giáo e dè dấn thân trong lĩnh vực này vì có sự hiểu lầm về ý nghĩa của chính trị, cho rằng chính trị là thủ đoạn xấu xa. Nhờ đọc lại các văn kiện của Công đồng Vatican II, nghĩa tốt đẹp của “nghệ thuật cao quý” này được hiểu rõ, giáo dân có thể bình tâm tham gia. Trước mắt, họ cần được huấn luyện bằng tài liệu Học thuyết Xã hội Công giáo để tham gia vào công cuộc xây dựng trần thế theo lời dạy của Đức Giêsu. 

Xin được kết thúc bằng hai trích đoạn: 

“Học thuyết xã hội của Giáo hội phải là nền tảng của một công trình đào tạo sâu sắc và bền bỉ, đặc biệt cho người tín hữu giáo dân. Một sự đào tạo như thế phải để ý đến những nghĩa vụ của họ trong xã hội” (Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, 531). 

“Những ai có khả năng hoặc có thể có khả năng làm chính trị, một nghệ thuật khó khăn nhưng đồng thời rất cao cả, cần phải được chuẩn bị trước và họ phải hăng hái hoạt động và không màng tới tư lợi hay lợi lộc vật chất... Họ phải đem lòng chân thành và chính trực, tình thương và lòng dũng cảm cần phải có trong sinh hoạt chính trị để tận tâm phục vụ lợi ích của mọi người” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Giáo hội trong Thế giới Ngày nay, 75). 

Nguyễn Đăng Phấn 

 

Tài liệu tham khảo 

1. Kinh Thánh. 

2. Tài liệu học hỏi Năm Thánh: Giáo hội tại Việt Nam; Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận SàiGòn, 2010, lưu hành nội bộ. 

3. Thánh Công đồng chung Vatican II, Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X, 1972. 

4. Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo: Cộng đồng chính trị và Vì một nền văn minh tình yêu, Ủy ban Bác ái Xã hội thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, 2007.