Một lựa chọn của riêng bạn

Tất cả mọi điều đều có thể bị lấy đi khỏi một con người, trừ một thứ. Thứ không bao giờ có thể bị lấy đi chính là sức mạnh để lựa chọn thái độ, trong bất kỳ tình huống nào. Chúng ta có thể quyết định lựa chọn thái độ cho mình hằng ngày. Đó có thể là một trong những quyết định quan trọng nhất mà bạn có. Với riêng tôi, tôi không muốn lựa chọn sai...
Một lựa chọn của riêng bạn
 
Chúng ta có thể quyết định lựa chọn thái độ cho mình hằng ngày. Đó có thể là một trong những quyết định quan trọng nhất mà bạn có. Với riêng tôi, tôi không muốn lựa chọn sai.

Tôi tin rằng, ít nhất đến một mức độ nào đó, chúng ta có thể tập cách kiểm soát thái độ của mình. Và vấn đề là – nếu chúng ta không kiểm soát thái độ sống của mình, thì chúng chắc chắn lại kiểm soát chúng ta.

Có câu chuyện kể về một bác nông dân quyết định “nắm quyền quyết định” cách suy nghĩ của mình. Bác ấy làm điều đó bằng cách luôn nghĩ đến những điều đáng thích thú và biết ơn. Bác nông dân thấy rằng như vậy, bác ấy có nhiều năng lượng hơn để giải quyết các vấn đề của mình, và xử lý cả những việc cần bác ấy chú ý nữa. Thế nhưng, cách suy nghĩ của một người hàng xóm của bác ấy thì hoàn toàn khác biệt.

Vào một buổi sáng trời ấm áp, bác nông dân kêu lên:
- Nhìn xem bầu trời đẹp chưa kìa! Chị đã bao giờ thấy một buổi bình minh rực rỡ đến thế này chưa?

Nhưng người hàng xóm cau mặt:
- Khéo rồi sẽ nóng quá, đến mức cháy hết cả đất đai, làm sao mà trồng lúa được.

Đến chiều, trời đổ mưa. Bác nông dân bình luận:
- Thế có tuyệt vời không cơ chứ! Mẹ Thiên Nhiên hôm nay cho cánh đồng ngô uống nước miễn phí.
- Rồi xem, nếu mà mưa không sớm ngừng lại ấy à – Người hàng xóm chua chát nói – Thì chúng ta sẽ phải ước giá như mình đã mua bảo hiểm lũ lụt cho vụ mùa đấy.

Và cứ như thế.
Cho rằng mình có thể “truyền” được một chút thích thú và yêu đời sang cho bà hàng xóm khó tính, nên bác nông dân mua một chú chó rất lạ. Nó không phải là loài chó thông thường, mà là con chó cực kỳ tài năng, đắt giá và được huấn luyện đặc biệt. Nó có thể thực hiện những việc tưởng chừng như không thể, và bác nông dân nghĩ là chắc chắn đến cả người hàng xóm cũng sẽ ngạc nhiên. Cho nên, bác mời người hàng xóm tới xem chú chó biểu diễn.

“Nhặt về đây nào!” – Bác nông dân ra lệnh và quăng một khúc cây ra hồ nước. Khúc cây này trôi ra xa một khoảng trên mặt nước gợn sóng. Chú chó lao theo, nhảy thoăn thoắt TRÊN mặt nước, và lấy khúc cây về.
“Chị thấy thế nào?” – Bác nông dân mỉm cười hỏi.
“Hmmm” – Người hàng xóm cau mày – “Nó không biết bơi, đúng không?”.

Tôi không muốn mình có vẻ là một người lạc quan thái quá, nhưng tôi nhất trí với Paul Harvey, một người đọc bản tin trên đài phát thanh, khi ông ấy nói rằng ông ấy chưa bao giờ nhìn thấy một đài kỷ niệm nào được dựng lên cho một người tiêu cực. Một thái độ lạc quan thường có thể tạo ra sự khác biệt giữa hạnh phúc và khốn khổ, giữa sức khỏe và bệnh tật, và thậm chí là giữa sống và chết.

Hẳn là Tiến sĩ Viktor Frankl cũng đồng ý như vậy. Trong cuốn sách của mình, ông đã khẳng định rằng tất cả mọi điều đều có thể bị lấy đi khỏi một con người, trừ một thứ. Thứ không bao giờ có thể bị lấy đi chính là sức mạnh để lựa chọn thái độ, trong bất kỳ tình huống nào.

Chúng ta có thể quyết định lựa chọn thái độ cho mình hằng ngày. Đó có thể là một trong những quyết định quan trọng nhất mà bạn có. Với riêng tôi, tôi không muốn lựa chọn sai.

Đặng Mỹ Dung (dịch)

NIỀM TIN CỦA HAI CHA CON 

Hãy giữ những người mà bạn thật sự yêu thương trong vòng tay của mình, thì thầm vào tai họ, nói với họ rằng: “bạn yêu thương họ nhiều như thế nào...!”   Đây là một câu chuyện cảm động về tình cha con trong cuộc động đất lịch sử tại Armenia năm 1989.

Vào năm 1989 tại Armenia có một trận động đất lớn 8,2 độ Richter đã san bằng toàn bộ đất nước và giết hại hơn ba mươi ngàn người trong vòng chưa đầy bốn phút.  Giữa khung cảnh hỗn loạn đó, một người cha chạy vội đến trường học mà con ông đang theo học.

Tòa nhà trước kia là trường học nay chỉ còn là đống gạch vụn đổ nát. Sau cơn sốc, ông nhớ lại lời hứa với con mình rằng: “Cho dù chuyện gì xảy ra đi nữa, cha sẽ luôn ở bên con!”  Và nước mắt ông lại trào ra.  Bây giờ khi nhìn vào đống đổ nát mà trước kia là trường học thì không còn hy vọng.

Nhưng trong đầu ông luôn nhớ lại lời hứa của mình với cậu con trai.  Sau đó ông cố nhớ lại cửa hành lang mà ông vẫn đưa đứa con đi học qua mỗi ngày.  Ông nhớ lại rằng phòng học của con trai mình ở phía đằng sau bên tay phải của trường.  Ông vội chạy đến đó và bắt đầu đào bới giữa đống gạch vỡ.

Những người cha, người mẹ khác cũng chạy đến đó và từ khắp nơi vang lên những tiếng kêu than “Ôi, con trai tôi!”, “Ôi, con gái tôi!”.  Một số người khác với lòng tốt cố kéo ông ra khỏi đống đổ nát và nói đi nói lại: “Đã muộn quá rồi!”, “Bọn nhỏ đã chết rồi!”

“Ông không còn giúp được gì cho chúng nữa đâu!” “Ông hãy về đi!”

“Ông đi đi, không còn làm được gì nữa đâu!” - “Ông chỉ làm cho mọi việc khó khăn thêm thôi!”

Với mỗi người, ông chỉ đặt một câu hỏi: “Anh có giúp tôi không?”

Và sau đó với từng miếng gạch, ông lại tiếp tục đào bới tìm đứa con mình.  Đến đó có cả chỉ huy cứu hỏa và ông này cũng cố sức khuyên ông ra khỏi đống đổ nát: “Xung quanh đây đều đang cháy và các toà nhà đang sụp đổ.  Ông đang ở trong vòng nguy hiểm.  Chúng tôi sẽ lo cho mọi việc.  Ông hãy về nhà đi!”

Người đàn ông chỉ hỏi lại: “Anh có giúp tôi không?”

Sau đó là những người cảnh sát và họ cũng cố gắng thuyết phục ông ta "Ông đang xúc động, mọi việc đã xong hết rồi.

Ông đang gây nguy hiểm cho cả những người còn lại, Ông về đi, chúng tôi sẽ lo cho mọi việc!"

Và với cả họ ông cũng chỉ hỏi: “Các anh có giúp tôi không?”

Nhưng không ai giúp ông cả. Ông tiếp tục chịu đựng một mình, vì ông phải tự mình tìm ra câu trả lời cho điều day dứt ông: Con trai tôi còn sống hay đã chết? Ông đào tiếp... 12 giờ... 24 giờ... ,

sau đó ông lật ngửa một mảng tường lớn và chợt nghe tiếng con trai ông.  Ông kêu lớn tên con: “Armand!” Ông nghe: “Cha ơi, con đây, cha!  Con nói với các bạn đừng sợ vì nếu cha còn sống cha sẽ cứu con và khi cha cứu con thì các bạn cũng sẽ được cứu...”

“...Cha đã hứa với con là dù trường hợp nào cha cũng ở bên con, cha còn nhớ không?  Và cha đã làm được, cha ơi”

“Có chuyện gì xảy ra vậy?  Ở đó ra sao rồi con?”  Người cha hỏi.

“Tụi con còn lại 14 trên tổng số 33, cha ạ, tụi con sợ lắm, đói, khát…”

“... Nhưng bây giờ tụi con đã có cha ở đây.

Khi tòa nhà đổ, ở đây tạo ra một khoảng không nhỏ và thế là tụi con còn sống."

"Ra đây đi con!"

"Khoan đã cha!

Để các bạn ra trước, con biết rằng cha không bỏ con.  Có chuyện gì xảy ra con biết là cha chắc chắn sẽ không bỏ rơi con!"

Khi đối diện với một thảm kịch tang thương hay một tai họa hiểm nghèo,... thường con người hướng lời van xin về một Đấng Tối Cao?

Con người sẽ cầu nguyện với Đấng Tối Cao khi bị vây hãm với thần chết, với bệnh hiểm nghèo, với những huyền bí ngoài sự hiểu biết của con người?

Cái trực giác sâu kín này đã đến từ đâu, mà mỗi con người chúng ta đều tìm đến trong những giờ phút hiểm nguy của cuộc đời? 

Người con nào thì cũng thương mẹ

     (Bài ca của người du tử)  Tác Giả : Thái Phương

Tôi đậu cử nhân Luật năm 1971. Ít lâu sau thì xin được vào tập sự tại văn phòng của một vị luật sư khá nổi tiếng bạn thân với bố vợ tôi. Làm luật sư tập sự thì nhàn, đồng lương tương đối cũng khá. Hàng tuần, đi làm về tôi thường tới Trung tâm văn hóa Nhật ở đường Phan Ðình Phùng học thêm tiếng Nhật. Học cho biết vậy thôi, nghề luật sư không đòi hỏi phải biết tiếng Nhật. Sau ba năm tập sự, tôi thi đậu và được Luật sư đoàn công nhận luật sư chính thức, cho phép treo bảng đồng, lập văn phòng riêng.

Chưa đầy một năm sau thì tôi thôi không làm luật sư nữa mà cũng thôi không đi học tiếng Nhật, bởi vì các trung tâm ngoại ngữ đã đóng cửa. Tôi trông nom con cái cho vợ tôi đi dạy, thỉnh thoảng cũng kiếm ăn được chút đỉnh do liên lạc với các trung tâm dịch vụ pháp lý. Người ta đưa các đơn từ, giấy má tiếng Nhật hoặc tiếng Anh đến, chúng tôi dịch phụ. Tiền bạc trung tâm tính toán rất tốt nhưng cũng chẳng được bao nhiêu.

May sao thời kỳ mở cửa, nhờ chút ngoại ngữ tôi nộp đơn xin được vào làm trong một khách sạn kiêm nhà hàng sang trọng. Tôi giữ chân tiếp đón khách, mời họ ngồi vào bàn, ghi những món họ muốn dùng, báo cho nhà bếp biết rồi các cô tiếp viên bưng ra. Tiền lương đỡ lắm, đã vậy mà mỗi cuối tháng chúng tôi còn được thưởng thêm, vợ tôi có vẻ yên tâm lắm.

Một hôm ông giám đốc khách sạn cho người gọi tôi lên văn phòng ở trên lầu. Ông chỉ chiếc ghế trước mặt trong căn phòng lạnh bảo tôi ngồi rồi cầm gói thuốc ba số năm trên bàn mời tôi hút:

- Anh quản lý nói anh biết nói tiếng Nhật ?

- Vâng. Thưa ông giám đốc, ngày trước tôi có học tại trung tâm Nhật ngữ vài năm, giao dịch cũng đỡ nhưng bỏ lâu không xài nên đã quên nhiều.

- Bây giờ còn sử dụng được chứ ?

- Vâng, có lẽ tạm được.

- Vậy thì tốt. Công việc tôi cần nhờ anh là thế này anh Trình ạ...

Ông ngắt ngang câu chuyện, với tay lên chiếc giá ở phía bên cạnh lấy hai chiếc cốc cao cẳng bằng pha lê rồi mở một chai Champagne của Pháp, rót ra hai ly, đặt trước mặt tôi một ly: Mời anh !

- Xin cám ơn ông giám đốc.

- Cứ uống đi mà. Chúng ta làm hết chai này, vừa uống vừa nói chuyện...

Ông này là tay sành sỏi, điệu nghệ. Bây giờ ông mới mở cái món bài tủ là rút trong ngăn kéo ra một gói Dunhill 'black label' mới tinh còn nguyên xi chưa bóc giấy bóng, gỡ giấy kiếng, bảo tôi dụi điếu thuốc 'ba số' vào chiếc gạt tàn rồi lịch sự cầm cả gói chìa về phía tôi, mời tôi hút.

- Champagne Pháp phải đi đôi với thuốc Ăng-lê mới tốt !

- Vâng, thưa ông giám đốc.

- Nào, mời anh !

- Không dám, mời ông giám đốc.

Chúng tôi nâng ly. Khốn khổ, rượu Champagne dù loại 'chính hiệu' của Pháp hoặc thuốc lá Dunhill 'black label' đi nữa đối với một luật sư như tôi cũng đâu có lạ. Vậy mà bây giờ sao tôi thấy nó ngon thế, cứ mát cả ruột! Nhưng cũng sờ sợ, phải có chuyện gì ông giám đốc mới 'ưu ái' với tôi đến thế !

- Bên công ty du lịch họ báo cho chúng ta biết khách sạn chúng ta sắp đón một vị khách quan trọng. Ông này người Nhật, muốn đích thân sang xem xét, ký kết hợp đồng về các máy móc điện tử hay chế tạo linh kiện điện tử gì đó tôi không biết rõ. Họ nhờ chúng ta... Nói thật ra là họ chỉ thị chúng ta phải biệt đãi với khách. Phải dùng mọi cách làm thế nào khách được vừa lòng.

- Thưa ông giám đốc, chúng tôi vẫn tiếp đãi hết sức lịch sự vói mọi khách hàng.
- Ðúng thế, tôi hiểu. Nhưng theo tôi biết, ông giám đốc này hình như hơi già nên rất khó tính. Ví dụ trên công ty họ báo ông ta chỉ dùng tiếng Nhật, không dùng bất cứ một thứ tiếng nào khác. Ngoài ra, có lẽ cũng vì tuổi tác, tính nết ông ta cố chấp, khắc khổ, không thích giao thiệp với mọi người.

Xương sống lưng tôi lạnh toát. Tôi hiểu ông giám đốc khách sạn đang muốn đề cập chuyện gì. Quả nhiên, ông ta kết luận: - Tôi đã bàn tính với ông quản lý. Trường hợp này ta phải dùng tới một người tương đối lớn tuổi, có căn bản học vấn - nghĩa là dùng người trí thức đàng hoàng chứ không thể đưa ra mấy cô chiêu đãi viên trẻ đẹp hoặc vài nhân viên thông dịch tiếng Anh tiếng Nhật bình thường. Anh đồng ý với tôi chứ ?

Ðồng ý cái khỉ khô! Tôi là anh bồi khách sạn chứ là cái quái gì mà đồng ý với không đồng ý.

- Thưa ông giám đốc, tôi nghĩ cũng đúng.

- Xét trong khách sạn, anh phù hợp với các điều kiện đó. Tôi chỉ định cho anh làm công tác mới giúp đỡ khách sạn. Nếu anh tranh thủ được cảm tình của ông ta, chẳng những khách sạn có hoa hồng riêng cho anh mà bên đầu tư cũng có phần thưởng. Họ hứa như vậy. Còn nếu không tranh thủ được...

Ông ta bỏ lửng song tôi hiểu. Có thưởng thì phải có phạt. Nếu tôi loạng quạng, không làm nên cơm cháo sẽ b mất vic, ở nhà nấu cho vợ dễ như chơi. Tình hình như vậy, biết nói cách nào bây giờ ?

- Thưa ông giám đốc, tôi không dám nghĩ tới việc được thưởng nhưng sợ tiếng Nhật lâu không xài, tôi quên mất nhiều...

- Ðược, nhớ tới đâu dùng tới đó. Anh cứ yên tâm, tôi sẽ đích thân trông coi việc này và sẵn sàng cung cấp cho anh mọi phương tiện, kể cả tài xế và nhân viên khuân vác hành lý cho khách nếu cần. Dứt khoác chúng ta phải tranh thủ bằng được cảm tình của ông ta.

- Vâng, thưa ông giám đốc, tôi sẽ cố gắng.

Tôi dợm đứng dậy. Ông giám đốc ngăn lại, lục các giấy tờ trên bàn: - À này, họ cho tôi biết tên ông ta là Kwann Tae Palms... Quái, cái giấy tôi bỏ đâu mất rồi?.. À đây… Anh nhớ cho rõ, chỗ nào tôi cũng ghim sẵn người của ta, sẵn sàng hậu thuẫn cho anh một cách tốt đẹp. Anh đã có đồ vét, cravát... chưa nhỉ ?

- Thưa có.

- Vậy thì tốt. Anh cầm giấy này xuống phòng kế toán bảo cô thủ quỹ tôi quyết định ứng trước cho anh hai tháng lương. Ðây, giấy tạm ứng đây. Nếu công việc tốt đẹp sẽ tính vào tiền thưởng.

- Vâng, cám ơn ông giám đốc.

Tôi đi, tay cầm mảnh giấy. Kỳ lạ, tại sao ông ta lại tên Kwann Tae Palms, chẳng giống với Nhật chẳng giống với Tàu? - Riêng cái họ - Palms - thì giống với Mỹ. Theo tôi hiểu, người Nhật tên họ thường là Watanabe, Saburo, Yamamoto, Fuda, Fudo, Honda, Yamaha, Suzuki .v.v... Ngay đến cái tên cũng khó hiểu thế chẳng trách ông ta già, khó tính, lẩm cẩm, cố chấp, chỉ nói tiếng Nhật, không thèm nói tiếng Anh tiếng Pháp. Ôi, tôi mất việc dễ như chơi!

Hôm sau, tôi và anh phụ tá được chiếc xe du lịch màu trắng mới tinh gắn máy lạnh đưa ra phi cảng, đón ông giám đốc Nhật tận chân cầu thang máy bay. Ðây là ngoại lệ. Theo tôi hiểu, đáng lẽ chúng tôi chỉ được đón ở phía trong, sau khi ông ta đã làm thủ tục, khám xét, trình các giấy tờ.

Sau cái liếc mắt 'ra hiệu ngầm' của cô tiếp viên phi cảng, tôi sửng sốt: ông giám đốc Nhật trông còn trẻ, chỉ trạc ngoài bốn mươi ngang với tuổi tôi, nét mặt già dặn có thể nói là rất có duyên, nước da ngăm ngăm đen, mắt hai mí trông nhanh nhẹn tháo vát chứ không 'một mí' như mắt người Nhật hay người Ðại Hàn. Ðặc biệt, ông ta ăn mặc theo kiểu khách du lịch, áo sơ mi ca rô sọc chìm, quần jean, áo bỏ trong quần với sợi dây xanh tuya to bản bằng da cá sấu, giầy Adidas màu trắng. Chà chà, tôi thấy ông ta đẹp trai quá, không già lão, 'khó tính' một chút nào hết.

Anh phụ tá đỡ giùm chiếc va ly trong khi tôi cúi đầu thật thấp theo kiểu người Nhật, nghĩa là cứng đong đong như khúc gỗ bị bẻ gẫy, chắp tay trước ngực và cố 'nặn' ra từng tiếng Nhật: - Kôn ni chi wa, y ô ku i ras shai ma shi ta. Hi ji ma shi te ? (Xin kính chào ngài, chúng tôi rất vui mừng được tiếp đón ngài. Thưa ngài đi đường bình an chứ ạ?)

Ông ta ngớ người nhìn tôi, nhíu mày suy nghĩ như cố nhớ lại điều gì. Sau đó ông ta nhún vai, quyết định trao chiếc cặp Xăm-xô-nai cho cô tiếp viên xách giúp, rồi cũng chắp tay, cúi đầu thật thấp chào lại: - Kônnichiwa! Yôku irasshaima****a! (Xin kính chào ông! Tôi rất vui mừng được gặp gỡ ông!)

Giọng ông ta nhanh và mạnh, tất nhiên thông thạo như... tiếng mẹ đẻ chứ không ỳ ạch như tôi. Tôi đoán rằng tôi nói 'hay' quá nên thấy ánh mắt ông ta có gì vui vẻ, tinh nghịch pha lẫn nụ cười. Tôi lại hăng hái 'nặn' tiếp và tự giới thiệu: - Wa ta shi wa Trinh de su, ho te ru Y... y a dô zo yo ro shi ku! (Thưa ngài, tôi tên là Trình, nhân viên khách sạn Y... rất sung sướng được cử đến đây đón tiếp ngài !)

Nét mặt ông giám đốc Nhật vui hẳn lên, ông mỉm cười nhìn tôi sau đó cũng tự giới thiệu: Watashi wa 'Kwann' desu, dôzoyoroshiku! (Thưa ông tôi tên là Kwann, rất sung sướng được cử đến đây gặp ông)

Tiếng Nhật dùng ý giống như tiếng Việt hay tiếng Tàu, nhân xưng đại danh từ 'tôi' và 'chúng tôi' nhiều khi dùng chung với nhau, những tiếng như 'irasshaima****a''yoroshiku' vừa có nghĩa là đón tiếp lại vừa có nghĩa là gặp gỡ, tùy câu sử dụng. Hừ, lạ thật, tôi là anh bồi khách sạn chứ có phải là một VIP nào đâu mà ông ta nói rất sung sướng được 'cử' đến đây 'gặp' tôi? Ngoài ra tôi để ý thấy những câu ông ta dùng đều... bắt chước tôi y chang nhưng thu gọn lại, nhanh và thông thạo hơn. Tại sao ông ta chọc ghẹo tôi với ánh mắt hóm hỉnh như vậy? Tôi nói tiếng Nhật có gì sai sót chăng?

Kiểm tra và làm thủ tục tại khu hải quan tương đối đơn giản do có 'người của ta' xong, chúng tôi ra xe. Ông giám đốc Nhật đi lầm lối khác, tôi đưa tay lễ phép: Kô chi ra e dô zô! (Xin mời ngài đi lối này!) Ông khách giật mình ngửng lên, vui vẻ: - Arigatô, zogaimasu! (Vâng, xin cám ơn)

A, bây giờ thì ông ta không 'bắt chước' tôi nữa. Tôi thấy có cảm tình với ông ta. Rõ ràng là ông ta mau mắn, lịch duyệt, không già nua, khắc khổ như ông giám đốc khách sạn đã cho biết.

Anh tài xế đã đợi sẵn bên cạnh chiếc xe, vội vàng mở rộng các cửa mời mọi người lên và xếp va ly vào phía đằng sau. Ông giám đốc ra hiệu cho tôi ngồi bên cạnh ông ta, anh phụ tá ngồi bên trên với tài xế, sau đó xe chuyển bánh lướt êm, máy lạnh mát rượi.
Xe chạy qua cổng Phi Long, vị khách luôn luôn nhíu mày nhìn những tấm bảng quảng cáo 'vĩ đại' có vẻ suy nghĩ.. Cặp mắt ông ta đăm chiêu, tò mò nhìn từng gốc cây, từng ngôi nhà lớn hiện đang xây cất ở hai bên đường Nam kỳ khởi nghĩa tức Công Lý cũ, không hiểu ông ta thấy nó thế nào so với bên Nhật.

Tôi nhẹ nhàng lấy gói ba số 5 và chiếc hộp quẹt ga mới tinh mang dấu hiệu Công ty du lịch Việt Nam, lễ độ mời khách:- Ip pon i ka ga de su ka ? (Xin kính mời ngài hút thuốc ?)

Ông ta giựt mình quay lại, nhíu mày khe khẽ lắc đầu: - Kekhô desu, arigatô! (Không, tôi không muốn hút, xin cám ơn!) Ðoạn, không hiểu nghĩ sao, ông ta cầm gói thuốc, ngắm nghía hồi lâu rồi bỗng ngửng lên nhìn tôi:- Do you usually smoke this kind of Three Fives cigarette?

Ôi chao, vậy thì ông ta cũng nói tiếng Anh chứ đâu phải chỉ dùng tiếng Nhật một cách cố chấp? Tôi sung sướng quá bèn khẽ lắc đầu, buột miệng nói như cái máy: - Oh no, sir, we don't.

Ông ta hỏi tại sao, tôi đáp 'because... 'rồi cũng chẳng biết because... như thế nào nữa, bèn trả lời thành tht:- Because this kind of cigarette is more and more expensive than our salary, out of our ability.

Vị khách bật cười, rồi tự nhiên ông ta cười lớn khẽ vỗ vai tôi thân mật như một người bạn. Tiếng Anh ông ta dùng còn thông thạo hơn cả tiếng Nhật mẹ đẻ của ông ta: 'Ồ, ông bạn thân mến, ông bạn nghèo lắm phải không?'. Tôi lắc đầu: 'Không, tôi không quá nghèo nhưng cũng không nghĩ rằng tôi giàu. Chúng tôi tiết kiệm tiền bạc'. Vị khách trẻ gật đầu lia lịa:

'Vâng, vâng, tôi hiểu. Tôi cũng có một vài người bạn Việt Nam ở hoàn cảnh của ông. Thỉnh thoảng tôi có gửi quà sang tặng họ'.

Chà, tay này được quá, người Nhật mà biết hoàn cảnh của người Việt Nam, thỉnh thoảng gửi tiền sang tặng, thật đúng kẻ có lòng.

Xe chạy ngang qua cửa Nhà khách Thống Nhất, bên trái là Nhà thờ Ðức Bà. Vị khách ngắm nghía ngôi nhà thờ lớn nhất miền Nam, gật đầu có vẻ vừa lòng. Sau đó tự nhiên ông ta hỏi tôi: 'Tôi đoán trước năm bảy lăm ông bạn là một luật sư?'. Tôi giật mình kinh ngạc: 'Vâng, trước đây tôi theo ngành luật. Nhưng tại sao ngài lại biết điều đó?'. Ông ta cười trả lời: 'Tôi biết những điều người khác không biết'.

Xe về tới đường Ðồng Khởi và từ từ táp vào lề trước khách sạn. Các cô tiếp viên ra đón, xách giùm va ly cho khách. Ðích thân ông giám đốc cùng nhiều người khác dẫn vị quý khách lên lầu, giới thiệu từng ưu điểm của căn phòng hạng nhất, sang trọng.

Lúc tôi xuống, ông giám đốc đứng nán lại chờ ở chân cầu thang, thân mật vỗ vai tôi: - Khá quá, cậu được việc quá. Tôi đã nghe báo cáo đầy đủ. Từ nay tôi cử cậu đặc trách bám sát ông ta. Công việc đâu đấy xong xuôi, tốt đẹp tôi sẽ trích số tiền hoa hồng thưởng cho cậu và cả bên công ty đầu tư nữa. Tôi không quên đâu.

- Vâng, xin cám ơn ông giám đốc.

Kể từ hôm ấy, tôi luôn luôn đi kèm với vị khách Nhật. Hình như đối với tôi, ông ta cũng có chút biệt đãi. Mỗi lần tới công ty đầu tư hoặc thăm các cơ sở, máy móc thiết bị của người Nhật, gặp gỡ ban giám đốc các cơ quan, lẽ ra tôi phải ngồi phía sau lưng như một thông dịch viên, ông ta giới thiệu tôi là một người bạn luật sư, bảo tôi ngồi bên cạnh và luôn luôn xem xét, bàn bạc với tôi. Người nước ngoài họ khôn lắm, dưới con mắt của một luật sư, tôi thấy rõ có những điều mới nhìn mình tưởng họ dại, sự thực họ nhường một bước để nhảy mt trăm bước. Trong khi đó, về phía bên mình, tôi không nói rằng họ dại nhưng tôi nói họ lanh. Lanh một cách khôn ngoan vặt, tiến một bước theo kiểu 'thắng lợi tinh thần' trong A.Q. Chính Truyện của Lỗ Tấn, sau này sẽ thiệt một trăm bước hay nhiều hơn. Toàn những ông thầy dùi cấp dưới, láu cá vặt mà cứ tưởng mình thông minh làm 'cố vấn' mà thôi. Quan hệ quốc tế không thể dùng các bộ óc láu cá vặt. Phải có kiến thức, phải có trí tuệ. Nếu không, được lợi về sợi dây thong thì sẽ mất cả con trâu. Gặp trường hợp đó tôi chỉ im lặng. Tôi không có quyền được góp ý kiến. Tất cả đều biết tôi chỉ là anh bồi khách sạn, nể khách nên họ cho tôi được ngồi cùng bàn một cách khiêm tốn, tất nhiên không được quyền góp ý kiến.

Một lần thấy họ 'khôn ngoan' quá, tôi kể cho vị khách nghe một đoạn trong Tam Quốc Chí - một tác phẩm cổ điển lớn của Trung Quốc rất quen thuộc với người Việt Nam: Tào Tháo dàn gần một triệu quân trên sông Trường Giang định chiếm Ðông Ngô. Chu Du, đại tướng Ðông Ngô muốn dùng hỏa công để phá quân Tào nhưng lại sợ các chiến thuyền Tào rời rạc, chạy kịp, đốt không hết được; bèn nhờ Bàng Thống xúi cho thuyền Tào kết lại với nhau. Giữa lúc ấy, quân Tào không quen thủy thổ, say sóng. Tào Tháo hỏi kế. Bàng Thống 'xúi khôn' là nên dùng vòng sắt kết các thuyền lại từng mảng, lót ván bên trên người ngựa đi được, quân sẽ hết bệnh. Tháo mừng lắm, nghe lời. Ra tới bờ sông, Thống bị một người nắm áo giữ lại: 'À anh này gớm thật, dám xúi Tào Tháo kết thuyền cho Chu Du đốt! Tháo nó ngu, bộ anh tưởng chúng ta hết người không ai biết mưu kế của anh hay sao?' Bàng Thống giựt mình nhìn lên, thấy đó là Từ Thứ. Rồi tôi kết luận: - Ðất nào cũng có kẻ sĩ. nước nào cũng có kẻ sĩ. Chẳng qua chúng tôi không được sử dụng phù hợp khả năng như bên các ông. Xin ông đừng nghĩ chúng tôi hết người.

Ông ta nhíu mày: Có, tôi hiểu. Và tôi nghĩ đó là một trong những điều đáng buồn. Chúng tôi muốn làm ăn một cách cân xứng, không muốn 'đốt' ai cả. Nhưng quy luật làm ăn, nếu họ tự đốt thì họ phải chịu.

Vị khách lâu nay gần như chỉ nói tiếng Anh, không nói tiếng Nhật.

Một lần khác, ông ta mua tặng tôi một chiếc đồng hồ Seiko five giá bốn mươi lăm đô, tức gần năm trăm ngàn đồng Việt Nam. Tôi cười nói đùa: - Ðây là 'phần thưởng' cho sự im lặng của tôi?

Ông ta cũng cười, lắc đầu: - Không đúng. Dù không thưởng thì các ông vẫn đứng ngoài rìa, giữ vai trò của người im lặng, không cần phải thưởng.

- Vậy thì tôi đã có đồng hồ của tôi rồi.

- Nó đã cũ, nên dùng đồng hồ mới. Hãy tặng chiếc cũ cho một người bạn nào nghèo của ông nếu họ cần tới.

- Vâng, xin cám ơn, tôi sẽ làm như vậy.

Công việc ký kết hợp đồng tiến triển tốt đẹp. Tôi nhận được phong bì 'ứng trước' do ông giám đốc khách sạn trao. Ông bảo tiền hoa hồng dành cho tôi khá hơn, tính theo ngoại tệ, ông ứng trước một phần để tôi xây xài. Trên nguyên tắc, nếu chúng tôi giới thiệu được khách cho khách sạn thì được hưởng năm phần trăm, kêu là tiền huê hồng, tính theo tổng số tiền phòng các ngày khách đã ở trong khách sạn. Ðằng này tôi không giới thiệu nhưng ông giám đốc cũng tính theo tỷ lệ đó, coi như tiền thưởng. Làm ở những chỗ có đô la ra vô thì sướng thế đấy, toàn những món bất ngờ mà mình được hưởng chứ tôi có công gì đâu. Ðồng thời ông cũng cho tôi, biết còn hai ngày nữa, tức sáng thứ Hai, ông khách sẽ lên máy bay về nước.

Hôm đó là chiều thứ Bảy, một buổi chiều thành phố thật đẹp. Mọi việc đã xong xuôi, vị khách Nhật hình như hơi rảnh. Ông nhìn qua khung cửa kính, có vẻ suy nghĩ và bảo tôi:

 - Ông bạn luật sư thân mến - ông vẫn nói tiếng Anh, không dùng tiếng Nhật - Tôi sắp về nước. Tôi nghe nói người Việt Nam có món 'thịt cầy' (dog meat) ngon lắm. Nếu ông bạn vui lòng hướng dẫn tôi đi thưởng thức được thì tôi rất lấy làm sung sướng.

Tôi ngạc nhiên trợn tròn mắt: - Dog meat? Theo.. theo ý ông nói, đó...đó là món..'Thịt của con chó ?'

Ông ta mỉm cười:- Ðúng vậy, 'thịt của con chó', nếu tôi không lầm.

Ðoạn, ông ta nói tiếp: - Theo tôi hiểu, nhà văn Trung Quốc Lin Yuyang (Lâm Ngữ Ðường) có lẽ cũng thích món 'thịt của con chó' nên ông ta viết một truyện ngắn rất nổi tiếng lấy tên 'Tướng Quân Thịt Chó', tôi có đọc qua.

Ối giời ơi, thế này thì chết. Tôi như từ trên trời rơi xuống đất. Mặc dầu gốc dân Thái bình Thái lọ, rất khoái cái món 'nai đồng quê' nhưng tôi giải thích cho ông khách oái oăm biết rằng thường thường các quán 'nai đồng quê' không phải là những nhà hàng sang trọng, nếu chúng tôi dẫn khách đến đấy, lỡ có chuyện gì xảy ra thì sẽ bị cho nghỉ việc.

- Tất nhiên, ngoài món 'dog meat', chúng tôi còn có các đặc sản khác như ếch chiên bơ, cua rang muối, rắn xào lăn v.v... rất ngon, chúng ta nên đến đấy thì tốt hơn.

Ông ta gật đầu: - Cũng được. Nhưng chỉ có ông với tôi đi thôi. Và tôi lái xe.

Ối giời đất ơi, lại nguy hiểm nữa. Tôi báo cáo với ban giám đốc. Ông quản lý lắc đầu lè lưỡi: - Chết, ông ấy có biết đường đâu mà lái ? Người nước ngoài mà lái xe trên đường phố Sài Gòn thì coi như tiêu luôn sinh mạng. Thôi, ông Trình cố nói kheo khéo giành lấy tay lái.

Tôi lái xe. Ông giám đốc Nhật ngồi bên cạnh cứ tủm tỉm cười vì nghe tôi kể lại những lời của ông quản lý. Chúng tôi tới quán Thanh Sơn ở đường Nguyễn Cư Trinh. Ðây là hậu thân của quán Ba Thừa ở đường Bùi Viện ngày trước. Thanh Hải, Ba Thừa trước đây thường rất nổi tiếng với món la-de đặc - la-de ướp lạnh đến mức tự nó đông lại, phải vỗ vỗ đáy chai cho chảy ra, không phải bỏ đá - và những món đặc biệt miền Nam như cua rang muối, ếch chiên bơ như đã kể trên.

Chúng tôi đang ăn, ông khách Nhật luôn luôn gật đầu tấm tắc khen ngon thì bọn trẻ bán thuốc lá, bán vé số nghe tiếng nước ngoài bèn bu lại mời mua. Ông ta lấy một gói 'ba số' và đưa tờ năm đô la.

- Nô, nô, cái này năm chục ngàn, cái này có mười mấy ngàn, hổng đủ tiền thối !

Ông ra hiệu cho cả, tụi nó mừng rỡ 'thánh kiu' rối rít rồi kéo nhau đi. Một đứa khác tới trễ không được chia phần bèn để cả xấp vé trước mặt ông, tý tay như nằm nửa người trên bàn mời mua bằng được. Ông lắc đầu.

- Ông này sắp về nước không mua vé số đâu em ạ.

Cậu thanh niên chạy bàn hình như con trai ông bà chủ tiệm đi ngang bèn 'bợp' nhẹ cho nó một cái, đuổi nó ra ngoài. Ối cha, lúc nó đứng dậy, khuỷu tay loạng quạng thế nào đụng phải đĩa lươn um, hất ráo xuống quần tôi. Nóng thì không nóng nhưng bẩn. Nhòe nhoẹt. Tôi bực quá đâm gắt:

- Thấy mẹ người ta..Ðã bảo mà ! Làm thế nào bây giờ ?

Nhà hàng đem thau nước ra lau giùm. Xong, ông khách mỉm cười, im lặng ngồi hút thuốc lá. Cái mặt tôi lúc đó chắc 'dễ thương' quá. Ông hỏi:

- Bạn vừa mới nói 'th-ay me' (thấy mẹ). Vậy 'th-ay me' là gì ? Một tiếng lóng hay một câu chửi ?

Trời đất, đang bực, đến bố tôi cũng không biết 'thấy mẹ' là một tiếng lóng hay một câu chửi. Tôi trả lời đại 'thấy mẹ' là... 'see mother !

Ông ta lắc đầu: - No, it isn't. In Vietnamese, 'thấy mẹ', it means...

Tôi giật mình. Hai tiếng 'thấy mẹ' ông ta phát âm tiếng Việt rất chuẩn... y như người Việt. Tôi ngạc nhiên: - Do you understand Vietnamese ?

Ông ta mỉm cười, gật đầu: - Yes, I know very well. Because...

Rồi như không nín cười được nữa, ông ta bỗng cười sằng sặc và... tuôn ra một tràng tiếng Việt pha lẫn tiếng chửi:

- Bởi vì tao là một thằng người Việt trăm phần trăm không có tí ti máu nước ngoài nào hết. Cái thằng ngốc ! Tao với mày học với nhau hằng bao nhiêu năm ở Chu Văn An mà máy không nhận ra tao. Rõ thật !...

Một tia sáng chợt thoáng qua trong óc tôi:

- Cậu... cậu là thằng Quân đen ?

- Chứ còn đứa nào vào đây nữa!

- Hèn chi...

- Hèn chi cái gì ?

- Tớ hơi ngờ ngợ, trông cậu quen quá, ngay từ lúc đầu mới gặp cậu ở chân cầu thang máy bay.Thì ra...

- Thì ra 'cố nhơn' phải không? Còn tớ, vừa trông thấy cậu tớ nhận được liền.
- Xin lỗi, tại tớ yên trí cậu là một tay giám đốc người Nhật. Hơn nữa cậu lấy tên Kwann Tae Palms...

- Dễ lắm, cậu nhớ tên tớ là gì không ? - Phạm Thế Quân. Lúc nhập quốc tịch Mỹ tớ đùa nghịch đổi cái tên Quân Thế Phạm thành Kwann Tae Palms chơi chơi cho vui, chỉ có vậy thôi không có gì khó.

- Cậu quốc tịch Mỹ, không phải quốc tịch Nhật ?

- Ừ. Vợ tớ người Nhật.

Quân kể cho tôi nghe: Hồi đó học xong Kỹ sư Phú Thọ, hắn được bổ đi làm kỹ sư công chánh tại một tỉnh miền Trung xa lắc. Ngày 30 tháng 4, gặp tàu, hắn nhảy sang Mỹ, vừa đi làm vừa cố gắng học về ngành điện tử. Trong trường hắn học có một cô nữ sinh viên người Nhật, hai bên quen nhau, thương nhau, sau khi tốt nghiệp bèn làm đám cưới. Hắn leo dần lên được chức phó giám đốc của một công ty Mỹ. Vợ chồng hắn có đứa con gái đầu lòng, bố mẹ vợ hắn viết thư giục thu xếp đem con về chơi bên Nhật. Té ra bố vợ hắn là một nhà tư bản, tổng giám đốc một công ty lớn có nhiều chi nhánh ở Nhật cũng chuyên về điện tử. Bây giờ vợ chồng hắn đã có đứa con thứ hai - con trai - rất xinh và hiện hắn đang làm giám đốc một công ty chi nhánh cũng nằm dưới quyền ông già...

- Ông bố vợ tớ lớn tuổi nên cẩn thận lắm cậu ạ. Cử tớ sang Việt Nam nhưng lại sợ tớ người Việt, phía bên này sẽ ỷ y, bởi vậy ông ra lệnh cho tớ phải nói toàn tiếng Nhật và đánh tiếng rằng 'ông giám đốc' đã già nên rất khó tánh.

- Tớ hiểu. Người nước ngoài họ vẫn thận trọng như vậy.

Hắn cười hề hề:- Tiếng Nhật thì tớ cũng tà tà như cậu vậy thôi, do vợ tớ dạy. Sang bên này gặp cậu, tớ mừng lắm. Không ngờ sau bao nhiêu năm, hai thằng chó chết tụi mình gặp nhau...

- Cậu tạo sự nghiệp bằng hai bàn tay, không phải là một thằng chó chết.

- Chó chết chứ sao lại không chó chết ? Một đời du tử...

Gương mặt hắn hơi buồn. Hắn khẽ thở dài:Tớ xin lỗi cậu về việc làm mặt xa lạ, bữa nay mới bày chuyện 'dog meat' để gặp riêng cậu. Từ hôm gặp cậu tớ rất mừng, đinh ninh thế nào cũng sẽ nhờ cậu một việc...

- Chuyện gì ? Tớ sẵn lòng.

- Như cậu biết đấy, tớ còn một bà mẹ già. Năm nay bà cụ tớ đã tám mươi mốt tuổi, đôi mắt đã lòa, ở với ông anh cả tớ ở Nam Ðịnh ngoài Bắc. Tớ thương mẹ tớ lắm.

- Có, tớ hiểu. Làm con thì ai cũng thương cha mẹ.

- Cám ơn cậu. Ngày trước gia đình tớ cũng nghèo như gia đình cậu. Bà cụ tớ thắt lưng buộc bụng, lai xai lưới xưới buôn bán mấy trái cam trái quýt với đứa em gái tớ ở chợ Bà Chiểu, nuôi tớ ăn học. Tớ mới tốt nghiệp, có thể nói là chưa báo hiếu gì được, đến lúc hữu sự thì lại nhảy đi sống lấy một mình không biết gì đến mẹ. Ðiều đó tớ rất ân hận. Cách đây mấy năm tớ có viết thư về quê liên lạc được với ông anh cả tớ. Từ đấy tớ luôn gửi quà và tiền về để gia đình ông anh có phương tiện phụng dưỡng mẹ tớ. Nhưng tiền bạc là một chuyện mà tình cảm gia đình lại là một chuyện khác.

- Cậu nghĩ rất đúng. Rồi sao nữa ?

- Tớ định nhờ cậu đem một món tiền khá lớn ra Bắc đưa cho ông anh tớ, giúp đỡ ý kiến ông ấy sửa sang nhà cửa, xây lại ngôi từ đường khang trang đẹp đẽ theo ý muốn của bà cụ, và nói với cụ rằng tớ hứa nội trong năm tới thế nào cũng thu xếp đem vợ con về Việt Nam thăm mẹ.

- Ðược.

- Tớ đã nói với tay giám đốc khách sạn là nhờ cậu ra Hà Nội xem xét giùm tớ tình hình giấy tờ ngoài ấy ra sao, có cần gì sửa chữa không. Tay giám đốc rất đồng ý. Việc đó rất dễ, với con mắt một luật sư cậu chỉ liếc qua là biết liền có khi còn hơn tớ nữa. Rồi cậu sẽ liên lạc với tớ sau. Nhưng chuyện chính là về Nam Ðịnh, tớ giữ kín không cho ai biết. Khoảng chín giờ sáng mai tớ đem tiền đến nhà cậu, ở chơi một ngày, tụi mình chuyện trò thật kỹ. Cậu nắm vững mọi việc rồi là sáng thứ Hai tớ lên máy bay về Nhật. Bà cụ cậu vẫn khỏe chứ ?
- Cám ơn cậu, bà cụ tớ còn nhưng năm nay đã bảy mươi chín, kém bà cụ cậu hai tuổi, không được khỏe lắm. Thỉnh thoảng cụ vẫn nhắc cậu Quân không biết bây giờ ở đâu, tớ nói có lẽ bên Mỹ.

- Thế này nhé, lát về cậu đưa tớ ghé vào chào cụ một chút rồi mai tớ đến. Cậu vẫn ở Tân Ðịnh?

- Ừ.

Hôm sau hắn tới. Buổi chiều, ăn cơm xong, hắn ngồi một mình ngoài hiên trên lầu bên thành lan can. Nhà tôi vắt hai ly cam tươi bưng ra. Hắn mỉm cười nhìn tôi, khe khẽ lắc đầu:

- Chị cẩn thận giống hệt nhà tôi ở bên Nhật... À này, Trình, cậu còn nhớ bài 'Du tử ngâm' của Mạnh Giao ngày trước cụ Tú Anh dạy tụi mình hồi lớp Ðệ thất Ðệ lục ở Chu Văn An không nhỉ ?

Tôi cười: - Nhớ chứ ! Không thuộc, không viết ra chữ, cụ mắng muốn chết. Ðứa nào mà chẳng nhớ...

Tay hắn đang cầm cây que. Hắn gõ nhè nhẹ lên chiếc song sắt trên thành lan can và đọc khe khẽ:

Từ mẫu thủ trung tuyến

Du tử thân thượng y

Lâm hành mật mật phùng

Ý khủng trì trì quy

Thùy ngôn thốn thảo tâm

Báo đắc tam xuân huy

 

(Sợi chỉ trong tay mẹ hiền

May thành chiếc áo trên thân người con du tử

Lúc con ra đi mẹ khâu thật kỹ

Vì sợ lâu ngày con chậm trở về

Nào ai dám nói một tấc lòng của cỏ

Có thể báo đáp được ánh dương của ba tháng xuân ?)

- Mỗi lần nhớ tới bài thơ ấy tớ lại ứa nước mắt, cậu ạ.

- Chuyện, thơ Ðường. Ngay đến cụ Nguyễn Du cũng còn phải mượn ý viết thành câu thơ trong truyện Kiều: 'Dám đem tấc cỏ báo đền ba xuân' huống chi tụi mình !

Hắn thở dài:

- Ở bên Nhật, hễ bận thì thôi, cứ lúc nào rảnh đầu óc tớ lại miên man nghĩ tới hình ảnh ba mẹ con tớ lúc mới di cư vào Nam. Ông cụ tớ mất sớm hồi gia đình còn ở ngoài Bắc. Mẹ tớ một thân một mình tần tảo nuôi tớ ăn học. Con Chi, em gái tớ (chắc cậu đã biết), lúc ấy hãy còn nhỏ mới lên bốn; còn tớ lên sáu. Khổ lắm. Mẹ tớ trước bán bánh cuốn, sau bán trái cây ở chợ Bà Chiểu. Lúc tớ thi đậu vào lớp đệ thất trường Chu Văn An là lúc mẹ tớ đã dành dụm được chút đỉnh, không phải bữa đói bữa no vậy mà như cậu thấy, trong túi tụi mình hàng ngày đi học chẳng có đứa nào có lấy một xu. Thỉnh thoảng bà cụ tớ hay bà cụ cậu cho một đồng thì hai đứa mình chia nhau uống chung một ly nước mía. Bà cụ tớ quý cậu lắm. Nay hai mắt cụ đã lòa...

- Có, tớ biết. Hôm ông anh cả vào chơi đón cụ ra Bắc, tớ có đi tiễn. Ông anh mua vé tàu hỏa Thống Nhất, ghế ngồi, bảo sẽ xuống ga Nam Ðịnh. Thấy đông người quá, trong tàu chật như nêm cối, ghế cứng mà lại phải ngồi ba ngày ba đêm không được nhúc nhích, tớ chảy nước mắt. Cụ cũng khóc, đưa hai tay quờ quạng sờ mặt tớ và nói sẽ chẳng bao giờ có dịp gặp lại...

Quân chớp mắt, hắn cúi mặt như cố che giấu một cái gì đó đang dâng lên trong cổ họng, sau khẽ thở dài nói nhỏ với tôi:

- Tớ chỉ lo mẹ tớ mất trước khi tớ về, cậu ạ. Ra ngoài ấy cậu nhớ lạy mẹ tớ một lạy, xin cụ tha thứ cho tớ và nói, năm tới thế nào tớ cũng về thăm mẹ, càng sớm càng tốt.

- Ðược, cậu cứ yên tâm.

- Ðược ngồi ăn cơm với cụ và vợ chồng cậu tớ cảm động lắm. Tớ mong được tự tay xé thịt gà để riêng ra đĩa, tiếp vào bát cho bà cụ tớ cũng giống như cậu. Mẹ tớ hai mắt đã lòa...

Thế rồi sáng thứ Hai, hắn lên máy bay về Nhật thì sáng thứ Ba tôi ra Hà Nội. Tôi đi xe lửa, vé nằm, loại tàu nhanh hai ngày hai đêm, không đi máy bay vì tính tôi quen tiết kiệm. Những lúc ngồi bên cửa sổ ngắm cảnh núi non hùng vĩ của vùng đèo Hải Vân , đèo Ngang, đầu óc tôi cứ vương mang nghĩ tới hình ảnh lúc hắn lên máy bay.

Chúng tôi đưa tiễn, hắn giơ tay chào tạm biệt 'Sayônara !'. Rồi trong lúc mọi người không để ý, hắn kín đáo chắp tay lạy về phía tôi một lạy. Tôi hiểu ý nghĩa của cái lạy đó nên chỉ gật đầu cho hắn yên tâm và giơ tay chào tạm biệt: 'Sayônara!'. Bây giờ tôi có bổn phận đem cái lạy đó ra Bắc, cùng với lời dặn hắn sẽ trở về. Và đầu óc tôi cứ miên man nghĩ đến bài ca của người du tử:

Từ mẫu thủ trung tuyến

Du tử thân thượng y...

Người con nào thì cũng thương mẹ. Tôi yêu bài thơ đó lắm.

Sưu tầm