MỘT CON NGƯỜI, MỘT BÁC SĨ, MỘT TÍN HỮU
Viết về Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn đối với tôi là một cuộc trở về, trở về với quá khứ của một con người cũng như trở về với chính mình. Với một con người trước đây là một đảng viên cấp cao, đầy quyền lực trong một xã hội quyền thế vốn nhiều bóng tối. Với chính mình vì phải làm một cuộc ngoảnh mặt với những biến cố ít nhiều đã gây nhức nhối một thời... để tìm về một cái gì sâu thẳm hơn còn dấu kín trong lòng người, để có thể vươn cao hơn cái tầm thường của bản tính nhân loại và qua đó khám phá được Chân Lý tiềm ẩn nơi họ. Chân Lý đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa trong sâu thẳm của lòng người vì “con người là đường đi của Giáo Hội”, mời gọi ta tôn trọng và yêu thương.
Cần nói thêm là những gì tôi viết ra đây phần rất lớn là do những lần tâm sự của hai Ông Bà. Có thể có những điều báo chí đã biết và viết về Bác Sĩ, nhưng những chia sẻ sau đây hoàn toàn là những chia sẻ thâm tình mà Bác Sĩ và Chị Yến đã gởi gắm vào tôi “ước mong một ngày kia Soeur Quỳnh Giao có dịp viết về mình với những tâm tư thầm kín sâu thẳm nhất của tôi dành cho Soeur…”. Giờ đây, tôi lại có dịp viết về Bác Sĩ và Chị Yến.
I. CON NGƯỜI.
Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn người gốc làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm. Sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở ngọai thành Hà Nội. Cha mẹ không có cơ may học hành, không thể hướng nghiệp gì cho chàng trai trẻ. Học hết phổ thông, anh Ngoạn nộp đơn xin vào Đại Học Y Hà nội. Năm đó là năm 1955. Ngày nộp đơn, bạn bè cũng như cha vợ tương lai ngăn cản và nài xin con gái “cố gắng khuyên Ngoạn nên đổi nghề khác chứ làm nghề ấy khổ lắm!”. Nhưng sau lần đi khuyên ấy, người bị thuyết phục lại là con gái cụ, bởi “em yêu anh nên muốn điều anh muốn”. Nhắc lại chuyên xưa, Chị Yến cười nói : “Em nói …nhưng anh ấy có nghe đâu, lại còn bảo: “Em ủng hộ anh nhé !”. Nói sao đây, thôi đành kệ anh !”.
Tháng 2 năm 1962, tốt nghiệp y khoa, với lời thề Hippocrate, Bác Sĩ Ngoạn nắm tấm bằng trong tay và… mới cưới vợ chưa đầy 1 tháng, sống với vợ vỏn vẹn chừng 10 ngày… để biền biệt đi mãi… - chàng Bác Sĩ trẻ 27 tuổi Trần Hữu Ngoạn lại làm cho ông Cha vợ một phen “sốc” lần nữa khi xung phong vào làm Bác sĩ ở Khu điều trị phong Qùynh Lập. Chị Yến tâm sự : “Lúc đó em được 18 tuổi. Để em khỏi bịn rịn khóc lóc, anh ấy chờ em đi dạy, viết lại mấy chữ đặt ở bàn nước rồi khoác balô lên đường. Em không hề được hưởng hạnh phúc lâu dài với anh…. Đến giờ Soeur biết không… gần hơn 35 năm chung sống, anh chỉ ở với em tổng cộng nhiều lắm hơn 18 tháng !... ” (bây giờ bệnh hoạn, chị Yến một tay nuôi chồng…).
Một điều thú vị mà có lẽ nhiều người không biết, Bác Sĩ Ngoạn là một người Hà Nội ham mê âm nhạc từ nhỏ. Có dịp đi Mỹ dự một Hội Nghị Phong quốc tế năm Bính Thìn, Bác Sĩ rạng rỡ vui mừng khoe một trong những “thắng lợi”của chuyến đi nầy: “Một Bác Sĩ Mỹ tặng tòan bộ tác phẩm của Beethoven trong cuốn băng có chất lượng thu thanh tuyệt hảo : về hưu sẽ thưởng thức cái thú nghe những băng nhạc ấy trên căn gác nhỏ thanh tịnh chứ !...”. Có lần, để tưởng nhớ 200 năm ngày sinh của Beethoven, Bác Sĩ đã vượt qua bom đạn trở về Hà Nội …chỉ để mời bạn bè yêu thích nhạc đến nhà làm một cuộc kỷ niệm nho nhỏ về nhạc sĩ vĩ đại nầy. Tại Qui Hòa, Bác Sĩ có cho làm một khu du lịch với hình một chiếc đàn, được hỏi vì sao lấy chiếc đàn nầy, Bác Sĩ cho biết:” Vì còn trẻ tôi đã chơi đàn nầy …và Nhạc Sư của tôi là Thầy Đỗ Tình”. Khi trốn vợ đi phục vụ người phong Bác Sĩ đã để lại cây đàn violon và niềm vui tinh thần lẫn vật chất để đến với người phong.
CON NGƯỜI Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn được mang nhiều tên khác nhau làm nên CON NGƯỜI được nhiều người qúy trọng và thương yêu : Người Bác Sĩ “điên khùng” và mặc cảm. Người Bác Sĩ thích dây dưa với…hủi. Một người khùng đáng yêu. Người của người bất hạnh. Người của lòng nhân ái. Người “xúc cảm với bệnh nhân phong”. Người ta chỉ “xúc cảm” với cái đẹp, với nghệ thuật, với người đẹp !... Một Nhà Khoa Học với tâm lòng nhân hậu… Vì sự nghiệp, Bác Sĩ là một trong số ít nhân viên không có gia đình ở gần. Hầu hết các Bác Sĩ trong trại là những nhân viên địa phương, có nhà trong thành phố ; hết giờ làm việc thì về với gia đình. Cuộc đời Bác Sĩ, hơn 31 năm vào nghề cũng bằng từng ấy năm sống xa vợ con. Nhiều bạn bè khoa học có tầm cỡ cũng khuyên Bác Sĩ nên xin về với vợ con để họ bớt bị thiệt thòi, nhưng Bác Sĩ không nỡ bỏ bệnh nhân. Bác Sĩ kể : “Một lần mình được Bộ Trưởng Y tế mời đến họp. Đã lâu không gặp ông Bộ Trưởng, nên khi gặp Ông ta, ông liền nói : “Ah! Anh Ngoạn ơi ! Người ta thường khi gặp ông lớn thì ngưới ta xin 3 điều: một cho tăng lương, hai cho tăng chức, ba cho về ở gần gia đình. Anh nên xin một điều gì cho anh.” Bác Sĩ trả lời : “Lương đối với tôi tương đối đủ sống !... Chức thì anh biết rồi đó, đối với tôi chỉ là một trò cướp giựt dơ bẩn. Còn về ở gần gia đình, thì người thầy thuốc ưu tiên là người của bệnh nhân …”. Và Bác Sĩ đã không xin gì cả.
Một sự kiện lớn khác minh họa cho con người không tham quyền hành mà chỉ chú tâm phục vụ người xấu số. Tháng 8 năm 1995, Liên Hịêp Bệnh Viện Phong Quốc Tế (International Leprosy Union) của Ấn Độ bầu chọn Bác Sĩ Trần Hũu Ngoạn lãnh giải thưởng quốc tế Gandhi. Bộ Trưởng Y Tế liền lệnh cho Bác sĩ và các cơ quan nhanh chóng làm hồ sơ để kịp đi. Bác sĩ Ngoạn trả lời trong một bức thơ đề ngày 9 tháng 10 năm1995: “…Tôi công tác phục vụ bệnh nhân phong đã lâu, thấy người bệnh đang còn bao nỗi khổ mà bản thân mình vì nhiều lý do cũng chưa phục vụ họ được nhiều lắm. Từ nay đến cuối đời, tôi sẽ để tâm trí phục vụ họ nhiều hơn nữa. Khi nào thấy mình xứng đáng với giải thưởng lấy tên là Gandhi, lúc đó được Bộ cho phép làm hồ sơ nhận giải thưởng thì tôi vô cùng sung sướng và thanh thản …”. Sau đó qua các cơ quan Y tế và Vụ Hợp Tác Quốc Tế, Bác Sĩ Bộ Trưởng gởi kèm ít chữ sau đây cho Bác Sĩ Ngoạn : “Rất thông cảm với sự khiêm tốn của Anh Ngoạn. Đề nghị Anh Ngoạn làm hồ sơ để nhận vì vinh dự của đất nước, của ngành và cá nhân. Sau nầy Anh Ngoạn dùng số tiền đó cho cá nhân hoặc cho sự nghiệp đều có lợi cả. Nên làm sớm cho kịp.” Với bức thư nầy, Bác Sĩ đã rất ưu tư, tìm đến gặp tôi mong được soi sáng. Tôi chân thành góp ý nên đi, để nhiều bệnh nhân được nhờ. Bác sĩ bèn nổi nóng, cho tôi biết :” Quỳnh Giao có biết Bộ trưởng nói gì với tôi không ?Anh nhận đi, 1 phần dành cho anh và phần còn lại cho Bộ (giải thưởng là 30.000 USD)”. Tôi buộc phải trả lời : “Người đáng nhận giải thưởng này nhất, là các Nữ Tu Phan Sinh và các bệnh nhân của họ”. Và Bác Sĩ đã không làm hồ sơ nhận giải thưởng trên. Nhiều nhà báo sau đó đến phỏng vấn Bác Sĩ và muốn biết vì lý do gì mà Bác Sĩ không nhận. Bác Sĩ trả lòi : “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh những người tu hành của dòng tu nầy mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh. Họ không muốn những lời ca tụng, vì họ quan niệm chấp nhận sự ca tụng cũng có nghĩa là chấp nhận một tội ác”. Cuộc sống của họ tuân theo một nguyên tắc thật đơn giản : “bàn tay trái không được biết việc làm của bàn tay phải và ngược lại. Nhiều tấm gương của dòng tu nầy đã được nhiều bệnh nhân truyền tụng. Họ kể về một bà sơ Charles Antoine, nguyên là Giám Đốc trại, có lần đến thăm nơi ăn ở của bệnh nhân, thấy một hố xí bị tắc mà không ai dám dọn, Bà liền thọc tay xuống và moi từ dưới lên những mảnh giẻ mà họ đã vô ý vứt xuống.”
II. SỰ NGHIỆP.... :
1/ Quỳnh Lập :
Quỳnh Lập là trại phong lớn nhất miền Bắc. Khoảng 2600 bệnh nhân đã sống trong những mái nhà tranh tre lụp xụp, nghèo nàn. Thời còn sinh viên, thực tập tại Quỳnh Lập, Bác Sĩ chia sẻ : “Có lẽ khởi nguồn tôi đến với các bệnh nhân phong là từ nỗi đau đớn tinh thần của họ, sự mặc cảm sâu sắc của họ trước sự kỳ thị ghê gớm của xã hội, và cả tấm lòng qúy người cách kỳ lạ của họ nữa… đã khiến tôi phải suy tư rất nhiều. ”
Bác Sĩ tiếp : “Ngày còn là sinh viên thực tập, tôi đã chứng kiến cảnh người đi khám bệnh, biết mình bị hủi là về nhà tự tử. Ngay cả ngành Y cũng đã làm cho người ta sợ vì những quy định kỳ cục : thư từ của bệnh nhân gởi ra ngoài phải được đóng dấu : “đã hấp chín”; có nơi ngưòi bệnh chỉ được nói chuyện với người thân qua một lớp kính chắn. Nơi tôi làm việc -Quỳnh Lập- nhân viên y tế làm ở khu vực riêng cách bệnh nhân mấy cây số !. Khắc phục một tâm lý sai lầm còn gay go hơn tìm ra cách chữa một căn bệnh. Việc làm đầu tiên của tôi để chống lại tâm lý ấy là tự động vào sống chung với bệnh nhân. Sau khi nhận trách nhiệm Giám Đốc tôi quyết định đưa khu làm việc vào sát khu bệnh; lấy một số bệnh nhân đã được khỏi, làm nhân viên”.
Trở lại Quỳnh Lập với chức Giám Đốc –lần nầy không còn có thể trốn vợ như truớc bởi đã 40 tuổi và là cha của ba người con – hai trai một gái. Sợ vợ ngăn cản, ông mặc cả rằng: “Cho anh đi 10 năm nữa, năm em 40 tuổi thì anh về Hà Nội”. Trở lại chỗ cũ, tất cả chỉ còn một đống tan hoang vì bom đạn đã tàn phá ngôi làng. Hơn 200 bệnh nhân chết, chỉ còn lại vài người trong những túp lều tranh lụp xụp. Không nhà cửa, nhiều người tìm về các hang núi sống như người rừng. Tất cả phải làm lại. Vừa xây nhà, ông vừa phải đi đến từng hang núi tìm và đem bệnh nhân về.
Qua tiếp xúc với họ Bác Sĩ Ngoạn hiểu thêm rằng người phong sống một cuộc đời đau đớn về thể xác và tinh thần, bị người đời và cả gia đình xa lánh. Những bệnh nhân khỏi bệnh nhưng không được xã hội đón nhận, Bác Sĩ bố trí việc làm cho họ và đấu tranh cho sự bình đẳng của họ.
2/Quy Hòa :
Có thể nói giờ đây không ai mà không biết đến tên tuổi của Bệnh Viện Hansen Qui Hòa–Qui Nhơn thuộc Hội Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ, được thành lập từ năm 1929, Qui Hòa càng ngày phát triển và nhiều bệnh nhân từ xa xin đến được chữa trị. Bệnh Viện cũng đã đón tiếp những nhà thơ, những ca sĩ, tu sĩ, được chọn làm nơi quay những chuyện phim với những cảnh núi đồi biển cả hùng vĩ, thơ mộng.
Chấp nhận làm Giám Đốc bệnh viện mặc dù việc quản lý Bệnh viện gặp vô vàn khó khăn, Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn chấp nhận khoảng cách tình cảm giữa vợ chồng con cái, gia đình kéo dài thêm hằng ngàn cây số ! Bác Sĩ Ngoạn không có “mộng ước làm quan”, một đời chỉ mong sao góp phần giảm bớt nỗi đau, đem lại hạnh phúc cho người bệnh và nghiên cứu thực hiện những công trình khoa học cùng với Viện dịch tể Hà Nội nghiên cứu vi trùng qua kính hiển vi điện tử và hợp tác với các nhà khoa học Pháp, Hà Lan, Bỉ cùng nghiên cứu về bệnh phong.
Ngày nay với tiến bộ y học, người ta có thể chữa trị bệnh phong theo phương pháp đa hóa trị liệu, chứ không đơn thuần dùng DDS như trước đây. Ngay trong Quy Hoà, Bác Sĩ dành riêng một khu vực điều trị cho những người mắc bệnh mới vào, chữa cho khỏi rồi cho họ ra về với cộng đồng. Bác Sĩ thường đi Tây Nguyên giúp người bệnh có những kiến thức cần thiềt để có khả năng phát hiện bệnh sớm.
Nhân làm Giám Đốc Qui Hòa từ năm 1985 đến 2001, Bác Sĩ muốn biến khu bờ biển tuyệt đẹp này thành khu du lịch. Ông nghĩ điều nầy sẽ giúp quan niệm của ông là xoá bỏ dần sự ngăn cách giữa người bệnh và xã hội, đồng thời nâng cao thu nhập cho nhân viên. Vì vậy phải làm lại con đường vào Qui Hòa lâu năm bị mưa lũ xói lở. Con đường dài 2.600m. Khi Bộ đồng ý đầu tư cho trại làm lại con đường đèo, nhiều chủ đầu tư đã đến xin ông cho họ làm theo hình thức khoán gọn công trình, trong đó ông được 12% giá trị công trình. 12% của con đường trị giá vài tỉ là món tiền không nhỏ. Cơ quan giao thông dự trù 700 triệu. Bác Sĩ Ngoạn nhờ người thiết kế và cho những người dân làng phong còn sức khoẻ thi công, vừa tạo vịêc làm, có thu nhập và quan trọng hơn, giúp người bệnh xóa bỏ mặc cảm. Cuối cùng chi phí chỉ lên 140 triệu ! Không được ăn thì đạp đổ: đơn kiện ông bay đi khắp nơi, vu cáo là ông không trong sáng trong vấn đề tiền bạc, ăn chặn tiền từ thiện, tha hoá về tư tưởng… Và một ngày kia … cũng chẵn 10 năm làm Giám Đốc, một lần nữa ông nhận quyết định thôi làm giám đốc vì “không đủ khả năng làm quản lý” …và nhận nhiệm vụ mới: chuyên viên của Vụ Điều Trị kiêm…tạp vụ.
Bác Sĩ đã nếm đủ vinh quang và cay đắng của cuộc đời, của một thể chế bất công, dành giựt quyền hành mà không sợ chà đạp trên danh tánh và lương tri của một con người. Hai lần làm Giám Đốc, hai lần bị cách chức không có lý do! Giữa hai làn bom đạn, Bác Sĩ Ngoạn được gọi về Hà Nội làm ở khoa Da Liễu Bệnh Viện Bạch Mai, và vẫn là Bác Sĩ điều trị phong.
3/ Biến cố 23 tháng 10.1984 tại Phú Khánh :
Đó là biến cố của lòng nhân ái, liên đới với bệnh nhân mà mình phục vụ đồng thời cũng là một biến cố khoa học dũng cảm của một con người yêu thương bệnh nhân thật sự. Vào ngày ấy Bác Sĩ Ngoạn có dịp ghé thăm bệnh Viện Da Liễu Nha Trang. Trong đó có vài giường chứa bệnh phong. Nhân viên y tế có thái độ kiêng kỵ, tách biệt rõ rệt với bệnh nhân, Bác Sĩ giải thích nhưng nhân viên không tin. Ông bèn nói : “Các cô cậu có muốn tớ tiêm trực tiếp trực khuẩn Hansen vào mình tớ không ?” - “Đuợc vậy thì thuyết phục chúng em ngàn lần hơn các tài liệu y khoa”. Cuộc thí nghiệm đựơc bắt đầu với sự chứng kiến của các giới chức khoa học, Giám Đốc Viện Pasteur Nha trang, Tiến Sĩ vi trùng học Nguyễn Thị Thế Trâm và nhiều Bác Sĩ chuyên khoa của Bệnh Viện. Lúc đó có hai bệnh nhân phong, thể ác tính, 25 và 12 tuổi. Bác Sĩ Ngoạn đã lấy 200 milligramme u phong ở dái tai của người bệnh, được sự kiểm tra phân chất của các nhà khoa học chuyên môn có mặt. Mầm bệnh được lấy từ những vết lở loét trên cơ thể bệnh nhân. Bệnh phẩm, sau khi được nghiền nát, hòa với nước muối sinh lý, lọc lấy phần “tinh túy” và kiểm tra có đủ trực khuẩn có thể gây bệnh. Như vậy Bác Sĩ Ngoạn đã đưa vào cơ thể mình hàng tỷ trực khuẩn bằng nhiều đường : nhỏ vào mũi, uống và tiêm vào hai khuỷu tay và hai dái tai là những nơi trực khuẩn nầy dễ phát triển. Dám làm điều đó chỉ vì tin vào mình, tin vào kiến thức của nhân loại và đồng thời cũng chứng minh là bệnh phong không lây nhiễm và qua đó đánh tan mặc cảm cho bệnh nhân và xích xã hội lại gần hơn với họ.
Với biến cố nầy Bác Sĩ Ngoạn đã chiếm lòng mọi người, đặc biệt các bệnh nhân phong.
4/Vụ Điều Trị của Bộ :
Về đây Bác Sĩ vẫn tiếp tục nghiên cứu và giúp đỡ bệnh nhân qua những lần đi đây đó trên quê hương tìm thăm bệnh nhân và xem cách điều trị hữu hiệu hơn nữa.
III..... VỚI NHỮNG GIÁ TRỊ PHÚC ÂM :
1/ Một lòng yêu thương người phong hủi :
Những điều đã nói trên chắc chắn đã cho thấy lòng tận tụy yêu thương bệnh nhân phong hiếm có nơi CON NGƯỜI nầy. Nhưng tôi cũng không thể bỏ qua một sự việc khác, mà đối với chúng ta là những người Kitô hữu và Tu sĩ, không biết chúng ta đã làm được chưa ?
Trong cuộc đời bình thường, BS là một con người giản dị, lạc quan, rất biết cười và cười thoải mái, đặc biệt khi tôi chọc “quê”. Chị nhà cứ nói : “Không hiểu sao anh Ngoạn khi nào mà có Soeur Quỳnh Giao chọc ghẹo thì anh cười thoải mái và cười “hết mình”…!”. Một cô gái Hà Nội duyên dáng, dễ mến, là giáo viên cấp II, lấy một anh chàng Hà Thành như Bác Sĩ Ngoạn, mê nhạc, khôi hài, lạc quan, phúc hậu, là mẫu người mà vợ anh xưa kia hằng ao ước, mà bây giờ vẫn còn là thần tượng của chị… lại chấp nhận, vì người bệnh phong... để sống xa vợ con suốt một quãng đời dài !... Cuộc sống vợ chồng, được ở bên nhau là điều hết sức tự nhiên mà cũng khước từ để cống hiến cho tha nhân. Bác Sĩ sẵn sàng đến với thế giới phong hủi để chữa bệnh cho những người hằng tuyệt vọng…
2/Một tấm lòng thẳng thắn tìm về chân lý :
Vì tâm hồn trong sáng, nên khi gặp các Nữ Tu, Bác Sĩ qúy trọng và tín nhiệm “bởi họ sống trong sạch hết mình, không bon chen, lừa lọc…Tư tưởng vô thần và hữu thần ở đây không có nghĩa gì cả, cao nhất trong đạo lý làm người là yêu thương tận tụy đối với nhau …” Bác Sĩ trả lời khi bị vu khống là thiên về tôn giáo! …
Trong xã hội hiện thời, khi cuộc sống không còn chuẩn mực thước đo, khi nghĩa cử tốt đẹp còn hiếm, khi tiền là tất cả và giả dối lan tràn khắp phố phường, nghành nghề, ở mọi cấp bậc, khi người ta bịa đặt xấu xa để vu cáo nhau, lại dễ làm người ta tin hơn là nói thật những điều tốt đẹp… thì tìm được một viên ngọc qúy thật là vất vả. Và Bác Sĩ Ngoạn là mẫu người của lòng trong sáng, thẳn thắng, không ham danh lợi. Một tấm lòng như thế chỉ có thể hướng về chân lý, chuẩn bị đón nhận hồng ân của Sự Thật, của Chân lý, là chính Thiên Chúa.
3/ Một con người liêm chính, khiêm tốn và khắc khổ :
Mấy năm cuối cùng làm việc ở Vụ Điều Trị, ông sống lặng lẽ, hoàn thành công việc của một công chức liêm chính. Thời gian còn lại, ông cố gắng tập họp tư liệu để viết quyển sách : “Bệnh phong, lý thuyết và thực hành – Tóm Tắt” dày 600 trang được in tại nhà Xuất Bản Y Học.
Lần kia, trong một cuộc gặp mặt cuối năm giữa Bộ Trưởng Đỗ Nguyên Phương với anh em cơ quan Bộ, sau khi nhận bó hoa do công đoàn cơ quan tặng, Bộ Trưởng nói rằng, chính Bác Sĩ Ngoạn là người xứng đáng nhận bó hoa nầy. Lúc nầy nhiều người mới biết hai người cùng là bạn học ở Đại Học Y Hà Nội ! Đó cũng là lần duy nhất ông được “vua biết mặt, chúa biết tên !” Vì nguyện vọng của ông sau khi nghỉ hưu là làm tình nguyện viên y tế để giúp đồng bào dân tộc ít người ở các vùng nghèo nàn lạc hậu còn nhiều khó khăn về y tế, nên Bộ Trưởng Bộ Y tế đã viết ngày 28 tháng 9 năm 1998 : “…Tôi thật sự rất cảm kích và hoan nghênh tinh thần xung phong tình nguyện của anh. Cá nhân tôi cũng như tập thể lãnh đạo Bộ Y Tế luôn đánh giá cao công lao đóng góp của anh liên tục trong nhiều năm qua cũng như hiện nay đối với sự nghiệp chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân nói chung… đối với công tác phòng chống và thanh toán bệnh phong nói riêng… là một nghĩa cử cao đẹp, là tấm gương rất đáng học tập…”. Suốt một cuộc đời, Bác Sĩ Ngoạn không hề nhận về cho mình một thành tích nào mà chỉ lẳng lặng đi tìm phục vụ người xấu số.
“Vị ẩn sĩ” liêm chính, khiêm tốn nầy cũng sống rất khắc khổ và ít nói. Ngồi trong xe đi công tác đây đó, đôi khi mở miệng chỉ để nói : “ai cần mở cửa sổ thì cứ mở, tôi chịu lạnh quen rồi”. Hành lý đi đường của ông lẹp xẹp dù mới đi Mỹ đi Pháp về. Đôi dép thì mòn gót, te tua. Ăn mặc đơn giản: có lẽ gia tài của ông không quá ba bộ áo quần. Được hỏi qua Mỹ hay Pháp có mua sắm gì cho mình không, Bác Sĩ trả lời : “Không, không sắm gì, chỉ xin đươc một lô quần áo cho khu điều trị. Mua cho vợ con vài món… Của ăn đường dài chỉ một ổ bánh mì khô, hoặc vài bánh biscuit !... Bác Sĩ nói : “Mình đã chuẩn bị sống thích nghi với hoàn cảnh khó khăn nhất. Mình có thể ăn thật ít, thật khổ, có khi nhịn cả ngày cũng được. Nếu bị bệnh thông thường mình không hề uống thuốc mà để bệnh tự hết. Mình không có nhu cầu gì lớn cho bản thân. Nếu không tập một sức đề kháng như vậy, không sống với bệnh nhân và đồng bào dân tộc được đâu”.
Không hút thuốc, không rượu chè café. Bia chỉ uống một lon khi cần. Do nếp sống khắc khổ bản thân của ông, đã gặp nhiều điều không mấy dễ chịu trong công việc. Có những người không thích cách sống khổ hạnh, liêm khiết của ông; không thích ông có vẻ như tán dương tinh thần làm việc tận tụy của các bà sơ “vì suốt đời cống hiến cho người bệnh, tới lúc chết vẫn không cho phép ai nhắc đến việc làm của mình”.
Đó là tác phong và y đức của một người thầy thuốc, quả là hiếm có trong thời buổi nầy.
IV. CHẶNG DỪNG CHÂN :
Tâm hồn màu mỡ ấy đã sẵn sàng để đón nhận hồng ân Thiên Chúa ban. Sau đây tôi chỉ xin kể lại sự kiện Bác Sĩ Ngoạn chọn Chúa làm lẽ sống.
Tuy rất có nhiều cảm tình với các chị em Phan Sinh phuc vụ tại Qui Hòa, nhưng Bác Sĩ chưa hề một lần nói lên ý nguyện “theo” Chúa của mình. Nghỉ hưu, Bác Sĩ vẫn tiếp tục đi đây đó giúp bệnh nhân phong và về lại sống với gia đình một nếp sống bình thường. Ba cháu, hai trai là Bác Sĩ với hai con dâu cũng Bác Sĩ và một gái, Kế Toán. Thời gian gần đây, bị bệnh, Bác Sĩ thường xuyên ở nhà hơn. Được vợ chăm sóc chu đáo và tận tụy hết mình…
Nhờ có dịp ra công tác tại Hà Nội, tôi lui tới thăm viếng Bác Sĩ, mang nặng trong tâm hồn một ước vọng dày vò, là làm sao cho Bác Sĩ Ngoạn nói lên lời ưng thuận “Theo Chúa”, rõ ràng, dứt khoát. Truớc đó tôi đã có vài giờ giáo lý cho Bác Sĩ và có dịp biếu tặng ông video về Đức Mẹ Lộ Đức và Thánh Phanxicô Assisi. Bác Sĩ đã bị ấn tượng nhiều, suy tư nhiều và càng trầm lặng hơn… Sau đó vài tháng, ra Hà Nội đến thăm Bác Sĩ, tôi vui mừng nhận thấy ở vách tường đối diện với cửa đi vào nhà, một bức tranh vừa quen thuộc vừa lạ kỳ. Quen thuộc vì vị thánh trong bức tranh ví tựa như Chúa Giêsu quỳ gối trong Vườn Cây Dầu. Kỳ lạ vì hình tượng vẽ lại là hình tượng của Thánh Phanxicô. Sau đó được biết là chính Thánh Phanxicô, một bức tranh mà Bác Sĩ rât thích được ai đó tặng và nói là Thánh Phanxicô Nghèo Khó”. Mình khổ nhiều vì bức tranh nầy, chị Quỳnh Giao có biết không? Các anh cán bộ vào nhà cứ hỏi hình nầy là ai ?… Sao không treo hình Bác Hồ nơi chính của căn nhà ?..
Một tháng trước khi đi Anh, tôi tự vạch cho chính mình một kế hoạch là khi đi công tác Hà Nội tôi sẽ dành một tuần và liên tiếp đến dạy giáo lý mỗi ngày cho Bác Sĩ. Từ thứ hai đến thứ năm hay thứ sáu, tôi muốn Bác Sĩ sẽ nói lên lời ưng thuận công khai đó với tôi. Tôi cầu nguyện nhiều. Tôi vẫn hiểu một người tự trong thâm tâm muốn theo Chúa đã là người “công giáo”, là người “có đạo” rồi. Nhưng sao tôi vẫn mơ uớc thấy Bác Sĩ đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy và mang tên Phanxicô.
Mỗi lần bắt đầu giờ giáo lý, tôi thường hỏi han sức khoẻ và ngày sống của hai ông bà, sau đó là một giờ giáo lý. Bác Sĩ lắng nghe chăm chú, thỉnh thỏang hỏi đôi câu. Đến ngày thứ năm vẫn không thấy gì, thứ bảy tôi phải bay về HCM. Sáng thứ sáu đó, tôi đến, lòng thổn thức âm thầm… Lần nầy, ngồi xuống, Bác Sĩ không để cho tôi nói truớc, ông làm một mạch không ngừng –người vốn ít nói- : “Tôi muốn được nhận lãnh bí tích thanh tẩy. Một ngày lễ của Đức Mẹ… Sớm nhất…v. v…”. Tôi hỏi : “Vậy Chị có đồng ý không ?” –“Không chịu tôi cũng làm ! Nhưng nhà tôi từ trước vẫn để tôi tự do trong việc nầy. Bà thì theo Phật rồi đó. Chúng tôi không vô thần đâu!” Sau khi kê ra danh sách các ngày lễ của Đức Mẹ, và được giải thích, Bác Sĩ và tôi ưng thuận chọn ngày 8.12.2003. Sau đó vì Bác Sĩ có chút vấn đề sức khoẻ nên chúng tôi dời lại vào ngày 1 tháng Giêng 2004, lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Bác Sĩ muốn làm nghi thức tại Qui Hòa để “thanh tẩy những vết nhơ ô uế mà một số người đã gây ra trên đất thánh nầy… và hôm đó tôi sẽ đứng ra công khai tuyên xưng đức tin của mình truớc các thành phần của cơ quan và bệnh viện”. Đức TGM Hà Nội được biết tin, đề nghị để Ngài chủ sự trao ban bí tích và chủ tọa Thánh Lễ. Năm đó là năm Truyền Giáo. Bác Sĩ vui mừng ra mặt vì Ngài đã đến viếng thăm Bác Sĩ hai lần, dịp Noel và Phục Sinh, rồi còn chụp hình với Bác Sĩ, điều này làm Bác Sĩ hãnh diện và khoe với mọi người.
Vợ chồng bác sĩ Ngoạn. |
Biến cố vĩ đại nầy mà tôi đang sống và chứng kiến lúc bấy giờ có quá nhiều điều vui đến từ quá nhiều điểm mà lòng tôi uớc mơ ôm ấp từ những tháng qua. Lẽ nào niềm vui lớn lao nầy mà Thiên Chúa trao ban, lại được hưởng dễ dàng như vậy mà không một chút hy sinh, không chút phó thác vào quyền năng của Ngài sao ? Ngài mời gọi ai đây phải dâng hiến, dâng hiến trong tin tưởng, trong âm thầm khiêm tốn như chính cuộc đời đã được sống và Ngài xin một không gian thóang, rộng, để thể hiện Ý của Ngài theo cách thức riêng của mình? Cả hai, chúng tôi chờ ngày vui lớn của Đại Gia Đình Giáo Hội….
Một ngày nọ, chị Madeleine Nguyễn Thị Triệu, cựu Giám Tỉnh của chúng tôi gọi tôi và thông báo cho biết là tôi phải ra Hà Nội ngay “Vì chỉ có em mới ngăn đươc Bác Sĩ. Bác Sĩ không chịu nghe ai cả, chị Yến qùy lạy xin em đó !...”. Thì ra có biến cố đã xảy ra vì “ước muốn nầy”.
Không hiểu làm sao “người khác” lại biết rõ chuyện nầy, để khi người con gái sau thời gian nghỉ phép vì sanh nở đi làm lại, thì Bác Sĩ Giám Đốc “đề nghị cho nghỉ tiếp, cứ nghỉ dài dài…”. Sau nhiều lần trao đổi, cô ta đươc hỏi “Có phải bố sắp theo đạo phải không ?”. Người con cả là Bác Sĩ, trước đây được du học tại Mỹ chăm lo học hành nên lần nầy được đi tiếp để trình luận án cũng gặp khó khăn rằng : “Gia đình cháu có Bác Sĩ nhiều mà chưa ai đóng góp gì cho đất nước. Cháu nên vào Đảng để có cơ hội đóng góp nhiều hơn”… và nhiều chuyện khác nữa…
Phần Bác Sĩ Ngoạn vẫn một mực giữ ý định không thay đổi. Bạn bè, các Linh mục, các Soeurs góp ý nên nhường bước để vợ con không bị ảnh hưởng gì. ĐTGM/Hà Nội cũng khuyên lơn, nhưng Bác Sĩ nghĩ “tôi không có gì để mất… Tôi chỉ được thêm thôi !...”. Chị Yến thì lạy lục xin tôi góp ý với Bác Sĩ, - dù tôi cũng đã phải buộc lòng đi ngược lại với ước nguyện ban đầu của mình – Bác Sĩ trầm ngâm một hồi và nói : “Soeur đề nghị làm tại CĐ của Soeur tại Nam Định …. như thế có vẻ lén lút. Mà đây không có gì phải lén lút cả !”. Chị Yến lại nài nỉ thảm thương với tôi : “Một đời em đã làm theo ý anh. Em và con đã không sợ gì cả để cho anh đi con đường đúng đắn của anh. Nhưng giờ đây đụng đến tương lai con cái, em xin chị nói với anh… Mai nầy êm xuôi, anh sẽ thể hiện ý nguyện của anh và lòng em vẫn hòan toàn toại nguyện”… Bác Sĩ đã miễn cưỡng chấp nhận lùi lại ngày trọng đại đó.
Và tôi đã từ giã Bác Sĩ và gia đình, tạm vắng trong một thời gian xa quê hương. Từ xa, tôi nhận được tin, ngày kia, Bác Sĩ Trần Hũu Ngoạn đã nhận lãnh bí tích thanh tẩy từ một người âm thầm trao ban hồng ân lớn lao và được làm Con Thiên Chúa và Giáo Hội Ngài. Buồn hay vui lúc đó? Tôi chỉ biết là mình cảm thấy rất tiếc vì lời tuyên xưng ngôn sứ bị chặn đứng bởi sự hời hợt vội vã của một hình thức bên ngoài mà ta thường quá lưu tâm, thay vì đi sâu vào chiều kích ngôn sứ và có tính Giáo hội của một Bí Tích như Bí Tích Thanh Tẩy: tuyên xưng đức tin của một người vào một Con Người, nói lên cho mọi người biết mình chọn Con Người ấy vì mình tin tưởng phó thác đời mình cho Người đó. Và việc làm nầy được Giáo Hội chứng giám, phê chuẩn và chấp nhận. Còn niềm vui nào hơn niềm vui được làm Con Thiên Chúa và được Giáo Hội nuôi dưỡng, đón nhận. Và vì vậy, sự kiện nầy đáng ra phải được công khai và công nhận…
Giờ đây, với cuộc sống bệnh tật, có thời gian gẫm suy và lặng tĩnh bên cạnh người vợ tuyệt vời, kiên nhẫn và yêu thương chăm sóc, Bác Sĩ Ngoạn cảm thấy tâm hồn thanh thản nhiều lắm, vẫn còn cười đùa mỗi khi tôi đến, nhưng “vẫn tiếc nuối cái gì đó …làm lòng chưa hoàn toàn được toại nguyện”. “Cái gì đó” phải chăng là vai trò Ngôn Sứ mà mỗi người tín hữu có nhiệm vụ thể hiện ?
Khi còn trò chuyện đuợc, tôi có lần hỏi Bác Sĩ, nếu muốn truyền đạt điều gì đó thiết yếu mà Bác Sĩ tâm niệm nhất, thì Hà Nội sẽ nói điều gì ? Bác Sĩ trả lời : “Hãy đến với những người không ai đến, hãy cho những người không ai cho. Hình như đó là một câu trong Kinh Thánh. ”
Một cuộc đời dày đặc yêu thương, nghiêm khắc với chính mình và biết cười... tươi, hoàn toàn thoải mái với những câu nghịch ngợm khôi hài của người khác, đặc biệt khi bị chọc quê. Một cuộc đời cho đi mà không tính toán, không tìm lợi danh… Hình như đó là cuộc sống mà Thầy Chí Thánh ước muốn cho môn đệ mình.
Trần Thị Quỳnh Giao – FMM.