Ánh Sáng Giêsu

Không dừng ở việc gặp Chúa, các nhà đạo sĩ đã lên đường để loan báo Đấng Cứu Độ trần gian. Họ chính là những ngôi sao sống động để chỉ cho người khác sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể. Và như vậy, là người kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi mặc lấy tâm hồn đơn sơ để gặp Chúa và khi gặp Chúa lại chiếu tỏa ánh sáng Giêsu trên cuộc đời ta như những ánh sao...

Ánh Sáng Giêsu

Lễ Hiển Linh có nguồn gốc là một ngày lễ cổ xưa của người Kitô giáo tương tự với lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh.

Từ Đông phương, lễ Hiển Linh lan sang Châu Âu vào khoảng thế kỷ thứ 4 và được nói đến lần đầu tiên tại xứ Gaule vào năm 361. Đến cuối thế kỷ 21, hầu hết các Giáo hội đều cử hành ngày lễ trọng này.

Ban đầu, ở Tây phương, người ta có thói quen cử hành chung các biến cố hạ sinh của Giêsu vào ngày Giáng sinh, biến cố các đạo sĩ đến thờ lạy Chúa và cuộc tàn sát các Thánh Anh Hài. Nhưng khi Roma bắt đầu mừng lễ Hiển Linh thì hai biến cố cuối cùng này được tách rời ra khỏi ngày lễ 25 tháng Chạp để dành tôn kính các Đạo Sĩ là chủ đề chính cho ngày lễ trọng mới vào ngày 6 tháng Giêng. Lễ Hiển Linh trong phụng vụ Roma mang thông điệp chính là sự mạc khải của Đức Kitô cho mọi dân tộc được biểu tượng qua các Đạo Sĩ.

Với Giáo Hội Đông phương, lễ Hiển Linh đã trở thành đại lễ mừng thiên tính của Đức Kitô; mầu nhiệm Nhập Thể và sự thờ lạy của các Đạo Sĩ vì thế được cử hành vào ngày lễ Giáng Sinh. Sau đó lễ Hiển Linh ngày càng được hiểu như là lễ Đức Kitô Chịu Phép Rửa. Do đó mà ở Đông phương có tục lệ làm phép nước rửa tội, nước giếng rửa tội, các nguồn nước và sông suối vào dịp lễ Hiển Linh. Vào ngày này, nhiều đám đông kéo nhau đến bờ sông Giođan để dìm mình ba lần trong trong dòng sông theo như nghi thức rửa tội của Đông phương.

Hôm nay, ta nghe lại lời ngôn sứ Isaia từ 600 năm trước : ‘Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước ... Lạc đà đàn đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Epha, dân Saba hết thảy kéo lại, tải đến vàng với trầm hương và chúng cao rao lời khen ngợi Giavê’.

Isaia đã đưa ra những lời tiên đoán đầy phấn khởi về Giêrusalem vào ngày Đấng Cứu Thế xuất hiện. 

Ngày ấy, Giêrusalem sẽ trở thành trung tâm ánh sáng và mọi người từ bốn phương trời sẽ tiến về đó với muôn vàn lễ vật. Nghiệt ngã thay vào ngày mà Con Thiên Chúa giáng sinh làm người như lời ngôn sứ Isaia loan báo, ánh sáng đã chiếu trên Giêrusalem, thì lại chỉ có những người ở ngoài mới nhận ra ánh sáng ấy, còn dân trong thành thì vẫn tiếp tục sống trong u tối. Dẫu rằng Giêrusalem đã chỉ rõ nơi vua dân Do Thái mới sinh ra, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới tới thờ lạy Ngài.

Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện các đạo sĩ Đông Phương đã theo ánh sao tìm đến triều bái Hài Nhi Giêsu mới giáng sinh tại Bêlem như lời đã loan báo tự ngàn xưa. 

Kkhông phải bất ngờ cũng chẳng phải ngẫu nhiên chuyện Chúa Giêsu sinh ra. Chuyện này đã được loan báo từ thuở trước. Được chỉ dẫn, được dặn dò rất rõ ràng về Ngài nhưng rồi không gặp được Ngài. 

Khuôn mặt Hêrôđê mà chúng ta vẫn thường nghe gắn liền với cái tên "bạo vương". Bạo vương Hêrôđê dù có binh hùng tướng mạnh trong tay muốn tìm Chúa Giêsu nhưng không gặp được Chúa. Ông không gặp Chúa Giêsu vì ông đã nghe tiên đoán về Ngài và sự xuất hiện của Ngài sẽ làm cho ông mất quyền lợi. Thế nên dù có tìm Chúa đi chăng nữa nhưng không phải để thờ lạy nhưng để giết chết. Ông tìm Chúa Giêsu không phải để tôn vinh Ngài nhưng để tôn vinh bản thân. Ông tìm Chúa Giêsu không phải để làm theo ý Ngài nhưng để bắt Ngài phải vâng theo ý ông. Vì thế Chúa Giêsu đã vượt thoát khỏi tầm tay của ông. Với tất cả những điều đó, vĩnh viễn Hêrôđê ông không gặp được Chúa Giêsu.

Vào thời Chúa Giêsu, bên cạnh khuôn mặt Hêrôđê bạo vương, chúng ta nhìn đến khuôn mặt của các kinh sư, biệt phái. Hơn ai hết, họ là những người hiểu biết Thánh Kinh. Họ đã đọc vanh vách lời ngôn sứ loan báo Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem khi ba nhà đạo sĩ đến hỏi thăm họ. Họ hiểu và biết rất nhiều về lý thuyết nhưng không thực hành, vì thế họ không gặp được Chúa. Ngồi một chỗ mà không chịu lên đường. Chỉ chú ý tới chữ nghĩa sách vở mà không chú ý tới cuộc sống con người. Chỉ tìm trong sách vở mà không tìm những dấu chỉ thời đại, dấu chỉ trong đời thường nhật của họ.

Chuyện hài hước mà chúng ta thấy ở đây đó là với những người xem ra gần gũi nhất, hiểu biết nhất, có phương tiện nhất đã không gặp được Chúa Giêsu. Ngược lại, những người có vẻ nghèo hèn, thiếu thốn phương tiện, xa xôi cách trở lại gặp được Chúa Giêsu. Họ là ai ? Họ là những mục đồng đơn sơ nghèo nàn và đặc biệt nhất là ba nhà đạo sĩ mà ta nhớ đến trong thánh lễ hôm nay.

Những người này đã gặp được Hài Nhi Giêsu  bởi vì họ đã cất bước lên đường tìm Hài Nhi. Dù không hay không biết không nghe lời ngôn sứ loan báo và thậm chí họ cũng chẳng biết lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ vâng theo ơn Chúa sáng soi cho họ. Vì dấn thân mạnh mẽ cho thái độ vâng theo ơn Chúa soi sáng nên họ lên đường. Thái độ lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Và khi lên đường như vậy, họ chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.

Lòng khao khát của họ được đáp trả khi họ gặp được Hài Nhi Giêsu. Với lòng khao khát kiếm tìm chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao. Nhìn cả bầu trời bao la họ thấy duy chỉ một ánh sao lạ xuất hiện và như vậy họ đã nhận biết. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho ra.

Và với tâm hồn đơn sơ chân thành nên họ đã gặp được Hài Nhi. Họ đi tìm Đấng Cứu Độ trần gian chứ không tìm bản thân. Đi tìm Đấng Cứu Độ trần gian để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn tính tò mò, thỏa mãn những tham vọng đen tối của cá nhân mình. Họ đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ như vậy, dù ý Chúa và dấu chỉ hết sức nhẹ nhàng qua một ánh sao nhưng họ đã nhận ra ý Chúa. Với tâm hồn hết sức đơn sơ như thế, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám họ đã nhận ra Chúa đang ở đó.

Niềm tin, lòng đạo của ta là một hành trình dài của chuỗi ngày tìm kiếm và sống. Nhìn vào gương của các nhà đạo sĩ, ta sẽ nhận ra Chúa khi ta có tâm hồn đơn sơ thành thực, có lòng khao khát Chúa vì chính Chúa, và dám dấn thân thực hành những điều Chúa truyền dạy, đặc biệt là giới răn bác ái, phục vụ Chúa trong những anh em nghèo khổ.

Không dừng ở việc gặp Chúa, các nhà đạo sĩ đã lên đường để loan báo Đấng Cứu Độ trần gian. Họ chính là những ngôi sao sống động để chỉ cho người khác sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể. Và như vậy, là người kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi mặc lấy tâm hồn đơn sơ để gặp Chúa và khi gặp Chúa lại chiếu tỏa ánh sáng Giêsu trên cuộc đời ta như những ánh sao.

Ta được mời gọi toả sáng trong đời sống của mình. Qua lời mở đầu của Phúc Âm thánh Gioan, Chúa Giêsu chính là “ánh sáng thật đã đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1, 9), Người là ánh sáng ban sự sống, “sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1, 4-5). “Những ai tiếp nhận Người thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa, ban cho họ ân sủng và chân lý” (Ga 1, 9.17).

Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa thế nên Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của mình mang ánh sáng của Đức Kitô.  

Kitô hữu phải tỏa ánh sáng của niềm tin. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.

Kitô hữu phải tỏa ánh sáng của niềm cậy trông. Niềm cậy trông vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm trông cậy vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm trông cậy vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Trông cậy là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.

Kitô hữu phải tỏa lên ánh sáng của công bằng, bác ái, yêu thương. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái, yêu thương. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.

Tất cả những ánh sáng mà người Kitô hữu phải có góp lại thành ánh sáng đích thực của người con cái Chúa. Ánh sáng đó là ánh sáng mang tên Giêsu.

Những đam mê vật chất, danh vọng sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bằng bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng Giêsu mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng Giêsu mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.

Với tất cả những điều đó, ta hãy toả sáng trong cuộc đời qua lời nói của chúng ta khi gắn bó với Chúa Giêsu là Ngôi Lời. Từng lời ăn tiếng nói của ta phải là những lời tốt đẹp mang lại niềm vui, hạnh phúc, hy vọng, ơn cứu độ cho con người thay vì lời nói xấu, nói dối, nói tục, lời tiêu cực làm cho người khác buồn phiền, chán nản, thất vọng.

Ta hãy toả sáng trong hành động. Những hành động xấu xa, gian ác, tiêu cực đều xúc phạm đến Thiên Chúa trong lòng con người cũng như trong vạn vật. Dù không có ai biết, ai thấy hay khen tặng, ta cũng vẫn hành động tích cực, vẫn chăm chỉ học hành, suy nghĩ tốt, làm việc tốt, làm tất cả những gì Chúa muốn vì Chúa đang nhìn ta và ban thưởng cho ta. Hành động như thế là chúng ta toả sáng.

Khi ý thức được như vậy chúng ta mới chăm chỉ học hành, làm việc, đào luyện tài năng, chơi đùa, giải trí cho đúng đắn thì chúng ta mới đạt được kết quả tốt đẹp để làm chứng cũng như làm cho ánh sáng Giêsu được lan tỏa.

Hôm nay, mỗi người chúng ta được mời gọi trở thành những ngôi sao thật sự toả sáng trong đêm tối cuộc đời để người khác nhận ra Chúa Cứu Thế bằng đời sống kết hợp mật thiết với Chúa và chân thành yêu thương nhau. Như thế là chúng ta mang lại niềm vui, hạnh phúc và ơn cứu độ cho gia đình cũng như cho xã hội hôm nay. Với ánh sáng nhỏ bé của ta và của nhiều người thành tâm thiện chí như ta góp lại sẽ tràn ngập ánh sáng và niềm vui mà Chúa muốn chúng ta thể hiện từ Mùa Giáng Sinh này.

Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua ánh sáng Giêsu mà ta có trong đời của ta mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.

Anmai, CSsR

Hiển Linh

Lúc bấy giờ, tất cả cũng đều khá khiêm tốn, một xe lừa đến một thành phố bụi bặm phía nam Giêrusalem. Tất cả các phòng khách sạn đã được đặt trước. Sinh con trong một chuồng ngựa và đặt nằm trong một máng ăn gia súc thay vì một cái nôi ấm áp.

Trong cảnh nghèo nàn ít ai biết đến này đột nhiên xuất hiện một đoàn tùy tùng kỳ lạ từ một nơi xa xôi. Những kẻ sang trọng trong lễ phục tặng cho hài nhi mới sinh những món quà đắt giá mà dường như không có ở những nơi tầm thường này.


Biến cố này có ý nghĩa đến mức nó được nhìn nhận như một ngày lễ trong phụng vụ Rôma, được cử hành một cách truyền thống vào ngày 6 tháng Giêng ngay sau ngày thứ 12 từ lễ Giáng Sinh. Lễ trọng này được gọi là Lễ Hiển Linh [Epiphany], có nghĩa là “tỏ mình” hay "tỏ hiện".

Một em bé cất tiếng khóc chào đời trong một gia đình nghèo khổ, xem ra không hơn gì những đứa trẻ khác, nhưng "hóa ra" Ngài thật sự là Vua muôn vua, Chúa các chúa. Món quà Ngài nhận, được tiên báo trong sách Isaia 60,6 qua câu chuyện : vàng tương xứng với một vị vua, nhũ hương dành cho việc thờ phượng Thiên Chúa và mộc dược – cay đắng nhưng quý giá – dành cho vị anh hùng hi sinh mạng sống mình vì dân.

Có một vài điều quan trọng đáng chú ý về những vị khách danh giá này. Họ là những dân ngoại, không phải người Do Thái. Ngay từ lúc khởi đầu cuộc sống nhân loại, rõ ràng Chúa Giêsu không chỉ là Đấng Mêsia của người Do Thái, Đấng đến để giải thoát dân Israel khỏi ách ngoại bang. Không, Người còn là vua vũ trụ, Đấng thống trị tất cả, Đấng đã đến để phá hủy bức tường hận thù chia cắt giữa người Do Thái với dân ngoại, nước này với nước kia.

Nếu bạn đã từng tự hỏi “Công Giáo” có nghĩa là gì, thì đây là nghĩa của nó. Được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp mang nghĩa “theo tất cả”, nó có nghĩa rằng Chúa Kitô không đến để thiết lập một giáo phái địa phương nào đó cho số ít người được tuyển chọn, một lối “thờ cúng” giữa nhiều lối khác nhau. Không, Ngài thành lập Giáo Hội là “Công Giáo” hay phổ quát, lan rộng khắp trần gian, đón nhận toàn thể nhân loại thành một nước, một gia đình, dưới một vị vua.

Vài điều nữa về những vị khách nổi tiếng này. Không phải là người Do Thái, họ là người ngoại giáo. Trên thực tế, thuật ngữ “Magi” rõ ràng liên quan đến “ma thuật”. Nó không có trong Kinh Thánh nơi mà bình thường họ tìm kiếm sự thông thái (nếu không thì họ đã biết đường thẳng tới Bêlem rồi). Nhưng, trong phần thưởng dành cho sự hăng hái của họ, dẫu cho có sai lạc trong việc tìm kiếm chân lý, dù sao đi nữa Thiên Chúa đã dẫn họ đến với Chúa Kitô bằng lòng thương xót bao la của Ngài.

Kể từ thời Balaam, Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta biết rằng dân ngoại có thể được đến gần Ngài một cách huyền nhiệm và được Ngài dùng, thậm chí qua những truyền thống khôn ngoan bất toàn của chính họ. Nếu bạn đến nhà nguyện Sistine và nghiên cứu tác phẩm của Michelangelo bạn có thể thấy bằng chứng về điều này. Hàng trên cùng của một bức tường của nhà nguyện là những bức tranh nổi tiếng về các ngôn sứ thời Cựu Ước. Đối diện với những bức tranh này không phải là hình các tông đồ thời Tân Ước như người ta mong đợi. Nhưng đúng hơn là, một dãy các bà đồng bà cốt, những nữ ngôn sứ thời xưa, mà trong những lời sấm của họ có nhiều lời ám chỉ không rõ ràng được khám phá về một vua cứu thế trong tương lai. Một trong các nữ ngôn sứ của Michelangelo miệng há hốc vì kinh ngạc, mắt nhìn chăm chăm vào bức họa Chúa Giêsu phục sinh nằm phía sau nhà nguyện. Quả thật, những khao khát sâu thẳm nhất của tất cả các dân tộc, những yếu tố của chân lý được tìm thấy trong tất cả các tôn giáo và triết lý của họ đều được thực hiện trong Chúa Kitô.

Có phải điều này có nghĩa là tất cả các tôn giáo đều như nhau và chúng ta không nên áp đặt ý tưởng của mình lên người khác không? Không phải tất cả. Thánh Giustinô nói rằng có “nhiều hạt giống Lời Chúa” nằm rải rác ở khắp thế giới. Nhưng những hạt giống đều được nhắm tới việc nảy mầm, phát triển và sinh hoa kết quả. Nghe Tin Mừng đầy đủ và dự phần vào tất cả những phương tiện của ân sủng nói chung thì cần thiết để làm cho điều đó xảy ra. Tất cả mọi dân tộc đều có quyền đến với sự tràn đầy Công Giáo này. Và đó là bổn phận của chúng ta để chia sẻ nó. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đúng khi nói rằng : “Những người khác có thể có khả năng được cứu độ mà không cần lắng nghe Tin Mừng, nhưng liệu chúng ta có thể được cứu độ nếu chúng ta sao lãng việc rao giảng Tin Mừng không?”


Marcellino D'Ambrosio
 GB. Nguyễn Kim Ngân chuyển ngữ