LƯỢC SỬ CUỘC ĐỜI SR MATTA NGÔ THỊ PHONG
Maria Phanxicô
Sinh ngày: 14. 01. 1915 – Quảng Bình
Tiền Tập viện: 15. 08. 1938 - Vinh
Tập viện: 04. 10. 1939 - Vinh
Khấn tạm: 11. 02. 1942 – Vinh
Khấn trọn Oblate: 11. 02. 1952 – Vinh
Khấn trọn FMM: 15. 08. 1959 – Đalạt
Ngân khánh: 11. 02. 1964 – Đalat
Kim khánh: 01. 01. 1989 – Suối Dầu
Ngọc khánh: 01. 01. 1999 – Suối Dầu
Tạ ơn 70 năm Tu Dòng : 7.5. 2011 - Quy Hòa
Chị Matta Ngô thị Phong còn gọi là Maria Phanxicô, sinh ngày 14 tháng 01 năm 1915 tại Hướng Phương, Quảng Bình trong một gia đình làm nông và làm nghề đúc đồng. Cha là Ông cố Phaolô Ngô Xiển, mất năm 1957, thọ 68 tuổi. Mẹ là Bà cố Matta Nguyễn thị Xứng, mất năm 1966, thọ 77 tuổi.
Chị Matta Ngô thị Phong là chị cả trong gia đình có mười chị em. Bốn em chết sớm khi còn nhỏ và một em trai đi lính bị ám sát chết lúc 23 tuổi. Các em lần lượt được Chúa gọi về và người em gái cuối cùng qua đời năm 1993. Hiện nay gia đình chị Matta Phong chỉ còn các cháu.
Thuở nhỏ, vì phong tục con gái không được đi học ở trường, nên chị học văn hóa ở nhà với người anh họ; học Giáo lý với các Thầy Giảng. Nề nếp gia đình đạo đức nên việc giáo dục đức tin cho con cái rất được Ông Bà Cố quan tâm. Chị chia sẻ: “Từ sáng sớm, mẹ tôi đã đánh thức chị em tôi và cả nhà cùng đọc kinh sáng chung . Mẹ tôi giáo dục chị em tôi rất cẩn thận về lễ giáo và bác ái. Còn cha tôi thì hiền lành, ít nói, không dám làm phiền lòng ai.”.
Năm 13 tuổi, chị đã ước muốn sống đời hiến dâng theo Chúa, nhưng cha mẹ của chị đã không đồng ý khi ông bà biết được ước nguyện của chị. Tuy vậy, với lòng tin và sự hy sinh thẳm sâu, các ngài đã xin vâng theo ý Chúa và cho phép chị được thực hiện ý nguyện vào năm 1936.
Chị Matta Phong là một trong ba chị tiên khởi vào Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ tại Việt Nam. Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ sau thời gian sống và phục vụ tại Trại Phong Quy Hòa, các chị được mời gọi đến lập nhà tại Vinh thuộc Tỉnh Nghệ An vào năm 1936. Khi Dòng đến Vinh một thời gian ngắn, chị Matta Phong cùng với hai chị bạn quê Quảng Bình đã đến xin gia nhập Dòng Phan Sinh tại Vinh ngày 8 tháng 8 năm 1936. Thời gian ban đầu với những khó khăn đầy thách đố của những khác biệt về phong tục và văn hóa, nhất là ngôn ngữ, nhưng chị đã một lòng kiên trung gắn bó với Dòng. Chị đã viết: “Đối với tôi, khi vào Dòng, hằng ngày được chầu Thánh Thể là một ơn trọng trong đời, tôi sung sướng và hạnh phúc biết bao, nhất là cứ mỗi tối thứ Năm đầu tháng Mình Thánh Chúa được đặt suốt đêm, chị em thay nhau chầu Chúa đến sáng ngày thứ Sáu”. Mỗi lần có dịp nhìn lại quãng đường mà chị đã trải qua, đặc biệt trong những dịp Tạ ơn Chúa trong đời tu trì, chị đã chân thành chia sẻ: “Thật biết bao gian khó cản trở của buổi ban đầu mà cả ba chị em chúng tôi vẫn còn được bền đỗ trong nhà Chúa đến hôm nay. Đó là một hồng ân lớn lao. Tôi hết lòng cám đội ơn Chúa. Tạ ơn Chúa vô cùng vô tận, không bao giờ tôi dám quên ơn Chúa.”
Từ khi vào Dòng, chị đã không quản ngại, từ nan trước bất cứ công việc nào, khi cày bừa gieo hạt, nuôi heo, làm ruộng trồng lúa, trồng khoai, đậu phụng v.v... để nuôi sống chị em, vì lúc đó chị em sống rất nghèo ; hơn nữa, chị cũng là chị cả trong Dòng nên luôn hy sinh cho đoàn em.
Qua thời gian đệ tử viện, chị được chọn vào giai đoạn Tiền Tập và dịp lễ Thánh Phanxicô Assisi, ngày 04 tháng 10 năm 1939, chị được nhận vào Tập Viện. Chị đã kể lại: “Ngày khấn lần đầu, tôi hân hoan vui mừng và hạnh phúc vô cùng, không thể kể hết. Lòng sốt sắng yêu mến Chúa, tôi luôn tìm làm điều đẹp lòng Chúa và ra sức tập luyện các nhân đức... Đặc biệt ngày tôi được ơn khấn trọn đời, ngày 11 tháng 02 năm 1952 nỗi vui mừng không thể diễn tả bằng lời. Vì đời sống tận hiến là niềm mơ ước mà tôi hằng mong đợi, nên ngày này đối với tôi là một ngày hạnh phúc vô biên và tôi quyết tâm từ đây luôn sống và thực thi ý Chúa”.
Cuộc đời thừa sai truyền giáo chị đã trải qua trước 1954 tại Vinh, Xã Đoài, Cầu Rầm; Sau khi di cư vào miền Nam, một thời gian chị đã sống tại Singapore; khi trở về lại Việt Nam, chị đã được phục vụ trong các cộng đoàn: Gia Định, Đa Lạt, Trại Phong Quy Hòa, và Suối Dầu – Nha trang. Hằng ngày âm thầm trong tu viện, chị đã thể hiện sứ vụ tông đồ trong cầu nguyện và hy sinh phục vụ qua công việc bổn phận được đức vâng lời giao phó, chị cố gắng thi hành cách vui vẻ và chu đáo; ngoài ra, chị luôn cầu nguyện và thăm viếng người nghèo, xin cho họ được ơn nhận biết Chúa và cầu nguyện cho các linh hồn.
Hạnh phúc đời dâng hiến của chị đã được đánh dấu qua những dịp lễ tạ ơn Chúa sau 25 năm Tu Dòng vào ngày 11 tháng 2 năm 1964 tại cộng đoàn Đức Mẹ Vô Nhiễm Đà Lạt; mừng Kim Khánh ngày 01 tháng 01 năm 1989 và đúng mười năm sau chị được tạ ơn Ngọc Khánh tại cộng đoàn Niềm Vui Suối Dầu, cũng vào ngày 01 tháng 01 năm 1998. Gần đây, ngày 7 tháng 5 năm 2011, Chúa ban cho chị cùng với chị em trong Tỉnh Dòng vui mừng tạ ơn Chúa trong dịp mừng 70 năm Tu Dòng tại cộng đoàn Thánh Phanxicô, Quy Hòa. Những dấu mốc này luôn là cơ hội giúp chị sống tâm tình tạ ơn Chúa và hiến dâng cách mãnh liệt hơn.
Theo quy luật của thời gian, chị đón nhận thánh ý Chúa phải nghỉ ngơi và dần dần đi vào ơn gọi Hy lễ cuối cùng vì sức khỏe yếu dần. Ấn dấu Chúa mời gọi chị vác thánh giá và theo Chúa đến cùng là những năm tháng bệnh tật và hoàn toàn kiệt sức trên giường bệnh. Năm 2008 chị về hưu dưỡng tại cộng đoàn Thánh Tâm – Gia Định và ngày 16 tháng 11 năm 2010, chị được chuyển về cộng đoàn Thánh Phanxicô Quy Hòa và ngày 14 tháng 3 năm 2012, lúc 14 giờ 20 phút chị đã hoàn tất ơn gọi hiến dâng mà suốt đời chị đã quyết tâm tận hiến cho Thiên Chúa Tình yêu. Hưởng thọ 97 tuổi đời và 73 năm Tu Dòng. Giờ đây chị thanh thản ca vang lời Thánh vịnh 140: lời mà những ngày tại thế, chị luôn cất cao để ca tụng Thiên Chúa tình thương: “Ước chi lời con nguyện, như hương trầm bay tỏa trước Thánh Nhan” …
RIP