LƯỢC SỬ
CUỘC ĐỜI CHỊ AGATHA TRẦN THỊ LINH
(MARIE MICHELLE)
Sinh ngày: 10.02.1926
Tiền Tập Viện: 08.12.1944
Tập Viện: 15.08.1948
Khấn lần đầu: 11.02.1951
Khấn trọn: 15.12.1960
Về nhà Cha ngày 15 tháng 1 năm 2012
Marie Michelle là tên gọi từ lúc chị là một tập sinh của Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ năm 1948; còn tên Agatha Trần thị Linh chỉ mới gắn kết với chị sau ngày đất nước chia đôi (1954); trước đó, từ khi mới chào đời, cha mẹ và mọi người đều gọi chị với cái tên đã đặt là Agatha Nguyễn thị Kim Chi.
Chị Agatha Nguyễn thị Kim Chi sinh ngày 10 tháng 2 năm 1926, tại Vĩnh Điện, Tam Kỳ, Quảng Nam, trong một gia đình khá giả trong vùng. Cha là ông Phaolô Nguyễn Toà, một giáo lý viên của Họ đạo Trung Hậu thuộc thị xã Điện Bàn, Tam Kỳ. Ông đã được Chúa gọi về năm 1982 tại Cam Ranh. Mẹ là bà Annê Nguyễn thị Niêm, một người phụ nữ đảm đang và đạo đức, luôn đón nhận mọi biến cố Chúa gởi đến trong niềm tin và sự sẵn sàng vâng theo Ý Chúa. Bà cũng đã qua đời.
Chị là con út trong gia đình với hai anh trai và môt chị gái. Tất cả đều đã về nhà Cha. Anh đầu là một chủng sinh của Chủng viện Quy Nhơn, đã được Chúa gọi về trong lúc anh đang theo học tại Chủng viện. Anh Ba lập gia đình và qua đời tại Cam Ranh, Khánh Hoà.
Hành trình ơn gọi của chị đến với Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ rất đơn sơ chân thành. Chị kể rằng: “Năm chị vừa học xong cấp Tiểu Học, trong một thánh lễ, chị được nghe cha xứ giáo xứ Trung Tín (Điện Bàn) thông báo: “Giáo phận Quy Nhơn chúng ta có Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ từ Pháp sang để phục vụ người bệnh phong với linh mục Maheu; trong giáo xứ ai muốn đi tu Dòng này thì xin đăng ký. Hiện nay, tại Laqua – Đà Nẵng, một cộng đoàn của Dòng vừa mới thành lập tại đây.” Khi nghe cha xứ thông tin, chị đã mạnh dạn tỏ bày ước nguyện dâng hiến cuộc đời cho Chúa với cha mẹ và được sự chấp thuận của các ngài.
Chị vào Dòng khi tuổi đời còn rất nhỏ, lúc chị vừa mới được rước Chúa lần đầu và cũng vừa thi xong chương trình tiểu học. Chính người cha thân yêu đã đưa chị đến nhà Dòng tại Laqua. Tuy nhiên chị chỉ ở đây một thời gian ngắn rồi được đưa ra nhà đệ tử tại Vinh vào ngày Lễ Mình Thánh Chúa năm 1938. Đến tháng 9 cùng năm chị được lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Chị xác tín và cảm nghiệm ơn Chúa Thánh Thần đã giúp chị vượt qua nỗi nhớ thương cha mẹ và các anh trong gia đình. Từ đó ngoài giờ học văn hoá tại ngôi trường ở Cầu Rầm, chị cùng với chị em lao động trồng khoai ngô, chăn bò, cắt cỏ v.v… tuổi thơ của chị sống vui bình an và hạnh phúc trong Dòng.
Tuy nhiên, cuộc sống và sinh hoạt của Dòng đã bị ảnh hưởng bởi những cuộc chiến của Thế giới, cách riêng tại Việt Nam. Ngày 8 tháng 12 năm 1944 chị được nhận vào Tiền Tập viện tại Vinh. Nhưng sau đó chị phải trải qua thời gian dài chờ đợi vì cộng đoàn Thánh Elisabeth tại Vinh không thể liên hệ được với Trung Ương Dòng. Trong suốt bốn năm chờ phép của Bề Trên Tổng Quyền để vào Tập viện, chị với một chị cùng lớp đã đạp xe từ Trung ra Bắc, ngày nghỉ đêm đi để tránh máy bay. Hai chị được phép đi khất thực theo ơn gọi Phan Sinh… Qua sự giúp đỡ của Đức Khâm Sứ Toà Thánh, hai chị được tá túc tại Nhà Kín Carmel Hà Nội. Nhờ đó hai chị đã vào Trung – ra Bắc nhiều lần, mang về nhiều của cải vật chất giúp nuôi sống chị em trong giai đoạn khó khăn này.
Trước ý chí kiên trì sắt đá của chị, Chúa đã thương xót và cộng đoàn đã nhận được giấy phép của Bề trên Tổng quyền. Chị hân hoan bước vào Tập Viện ngày 15 tháng 8 năm 1948 và dâng lời Khấn lần đầu ngày 11 tháng 2 năm 1951 tại Vinh. Sau đó Dòng tiếp tục trao cho chị và chị bạn cùng lớp sứ vụ khất thực mà hai chị đã từng đi với nhau. Thật không kể xiết bao nhiêu khó khăn, thử thách, hiểm nguy… mà hai chị đã trải qua trên đường từ Trung ra Bắc, từ Bắc về Trung trong mỗi chuyến đi khất thực này. Khó khăn lớn nhất mà hai chị đã trải nghiệm đó là bị “tình nghi” hỏi cung, tra xét và giam giữ…
Khi được tha về, Bề trên cho phép hai chị được trốn ra Bắc. Cả hai chị phải cải trang thành người dân quê âm thầm lánh đi. Trên đường đi các chị gặp nhiều nguy hiểm, phải lội suối lúc ba giờ sáng với xe đạp trên vai để tránh đồn Công an. Rong ruổi suốt sáu tháng các chị mới đến được Bùi Chu – Hà Nội (tháng 5/1953 – tháng 11/1953). Tại đây, Đức Khâm sứ Toà Thánh đón và gởi hai chị vào Đan viện Carmel; sau một thời gian ngắn, nhà Dòng đưa chị sang Singapore và chị phải đổi tên họ khác.
Đến năm 1958, chị được hồi hương và là một trong những chị tiên khởi thành lập cộng đoàn Thánh Tâm – Gia Định (1958), mở trường Thiên Ca nay là Nguyễn Văn Bé – Bình Thạnh. Hai năm sau (1960) chị được chuyển về Đà Lạt, cộng đoàn Đức Mẹ Vô Nhiễm đảm trách công việc của một phụ tá Bề trên và tại nơi đây, chị đã được dâng lời khấn trọn đời ngày 15 tháng 12 năm 1960. Năm 1964, chị được sai đến miền truyền giáo M’ Lon Thạnh Mỹ một năm, dạy học cho các em Dân tộc; sau đó chị lại trở về Đà Lạt và dạy tiếng Pháp cho trường Virgo Maria từ 1965 – 1969.
Ngày 30 tháng 10 năm 1970, chị được sai đi thành lập cộng đoàn tại Hà Dừa – Nha Trang với vai trò phụ trách. Tháng 8 năm 1972, từ Hà Dừa phải chuyển về Suối Dầu, chị em phải trải qua bao thách đố để hình thành cộng đoàn và thi hành sứ vụ phục vụ anh chị em Dân tộc, nhất là sau giai đoạn 1975.
Suốt thời gian khó khăn chung của đất nước, chị đã hết tình phục vụ chị em trong vai trò phụ trách và Cố vấn Tỉnh Dòng. Với sự nhạy bén và tầm nhìn xa, chị đã đề nghị Tỉnh Dòng xin các cha Dòng Nhất về thành lập cộng đoàn tại Suối Dầu như là chỗ tựa tinh thần cho chị em trong giai đoạn khó khăn này; chị cũng đã cộng tác tích cực trong việc thành lập Tập Viện Suối Dầu (1976 – 1983) để tiếp tục việc đào tạo ơn gọi của Dòng. Với tinh thần phục vụ không ngơi nghỉ vì tình yêu Chúa, vì Hội Dòng và Tỉnh Dòng, chị đã vâng lời đảm nhận các trách nhiệm xây dựng Tỉnh Dòng Thánh Tâm Việt Nam trong giai đoạn Tỉnh Dòng còn non trẻ:
- Cố vấn Tỉnh Dòng liên tục qua các nhiệm kỳ suốt 19 năm từ 1971 – 1990.
- Phụ trách cộng đoàn Niềm Vui Suối Dầu từ 1970 – 1987
- Phụ trách cộng đoàn Thánh Phanxicô Quy Hoà 1990 – 1993
- Phụ trách cộng đoàn Niềm Vui Suối Dầu 1999 – 2002
Sau khi mãn nhiệm kỳ phụ trách năm 2002, chị về cộng đoàn Ánh Sáng – Phan Rang với công việc giữ nhà khách. Sức khoẻ của chị yếu hơn, có những lần chị em rất lo lắng về những ca mổ của chị, nhưng chị vẫn giữ một lòng tín thác hoàn toàn vào tình thương của Chúa không hề lay chuyển. Thật xứng với tên gọi của Tổng lãnh Thiên thần Michelle. Dù đã cao niên nhưng lòng nhiệt thành truyền giáo thúc bách chị luôn quan tâm giúp đỡ chị em và mọi người chung quanh, nhất là những anh chị em nghèo khổ và anh chị em Chăm. Năm 2006, chị được chuyển về cộng đoàn Thánh Tâm, tiếp tục công việc trực điện thoại và nhà khách. Dù sống nơi đâu tình yêu thương và gắn bó với người nghèo chưa bao giờ rời xa chị…
Những năm tháng sống tại cộng đoàn Thánh Tâm, tuy rằng sức khoẻ của chị dần hao mòn, trong người phải mang nhiều chứng bệnh, song chị em ít khi nghe chị than vãn về sức khoẻ của mình. Chắc chắn rằng cuộc sống hy sinh âm thầm và phục vụ khiêm tốn đến giây phút cuối của chị không thể thiếu nền tảng là đời sống cầu nguyện liên lỷ, đặc biệt trong ơn gọi Thờ Phượng Thánh Thể. Chị xác tín: “Tôi trở nên huy hoàng khi chầu Thánh Thể, như khi linh mục tiến lên bàn thờ dâng thánh lễ.”
Gần đây nhất, trong kỳ tĩnh tâm năm 2011 tại Quy Hoà, chị đã viết: “Lần cấm phòng ở Quy Hoà ngày 24 tháng 4 đến ngày 6 tháng 5 năm 2011 biết đâu là lần cuối đời tôi, chỉ Chúa biết…”. Chị viết tiếp: “Chúa chọn để tôi đi với Ngài vào nơi riêng biệt… để lãnh hội những điều Ngài muốn nói với tôi…” và chị đã từng thao thức: “Xin Chúa mở đôi mắt và đôi tai của cõi lòng con, để con luôn biết tâm sự với Ngài …con chờ đợi tất cả nơi Ngài và chờ đợi nơi Ngài tất cả để sẵn sàng nghe tiếng Ngài…” Đối với chị, Lời Chúa luôn mời gọi chị tiến bước như một quyển Phúc Âm sống động: “Ngay từ khi tôi còn trẻ, Phúc âm đã là một kho tàng đối với tôi rồi. Đó chính là Đức Giêsu, bên cạnh Đức Giêsu tôi nhìn thấy Cha Thánh Phanxicô.” Chị cũng đã từng nói: “Chị tín thác tất cả vào Ngài, Đức Giêsu Kitô của lòng chị.”
Cuộc đời hiến dâng và phục vụ trong sự tín thác nơi Đức Kitô đã được Ngài ấn dấu qua những dịp mừng Ngân Khánh vào ngày 15 tháng 8 năm 1973 tại Quy Hoà; hai mươi lăm năm sau, chị được tiếp tục dâng lời tạ ơn trong dịp mừng Kim Khánh ngày 17 tháng 9 năm 1998 cũng tại Quy Hoà và Ngọc Khánh, 60 năm Tu Dòng tại cộng đoàn Thánh Tâm ngày 15 tháng 8 năm 2008.
Để ghi dấu ấn cuối cùng của đời chị, Đức Giêsu Kitô đã dẫn đưa chị đến diện kiến tôn nhan Thiên Chúa trong an bình vào lúc 13 giờ 25 ngày 15 tháng 1 năm 2012 tại cộng đoàn Thánh Tâm, với tuổi thọ 86 năm và 64 năm Tu Dòng. Giờ đây chị đã có thể thực sự cất cao bài ca cảm tạ Hồng ân Thiên Chúa, Đấng đã luôn bao bọc cuộc đời chị. Chị em trong Tỉnh Dòng luôn biết ơn sự quảng đại hy sinh của chị và cầu nguyện nhiều cho chị.
RIP