MẸ ĐÁNG KÍNH MARIE ROSE DE VITERBE
(Mélanie Jablonska)
Mẹ M.Mélanie Rose (Mélanie Jablonska) sinh tại Podzamere (Ba Lan), ngày 21 tháng 12 năm 1868. Mẹ là thành viên trong Gia đình Phan sinh của Đức Maria (FFM) trước khi nó được sáp nhập với Dòng FMM tại St Petersburg vào tháng 8 năm 1908. Mẹ ở tại Nga cho đến năm 1924 và được đặt làm Giám tỉnh của Tỉnh Dòng Truyền Tin (Đức, Áo, Ba Lan, và Slovenia) vào năm 1926. Mẹ đã đảm nhận trách nhiệm đó cho đến khi Mẹ qua đời vào năm 1946. Do đó Mẹ đã sống hoàn cảnh cụ thể tại nơi xảy ra cuộc cách mạng Nga năm 1917 với những hậu quả của nó và Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tại Trung tâm của Châu Âu. Mẹ qua đời tại Warsaw vào ngày 3 tháng 10 năm 1946.
Được biết đến trong Hội Dòng dưới tên gọi là Mẹ M. Mélanie-Rose, Mẹ là hình ảnh nhân cách hóa cho Tỉnh Dòng Truyền tin do những đau khổ của Mẹ, sự dâng hiến quảng đại, và sự trung thành của Mẹ qua những thử thách.
Đời sống tu trì lâu dài của Mẹ đã được đánh dấu cách rất đặc biệt bởi Thánh Giá. Mẹ yêu mến và qui chiếu về ấn dấu cứu độ và có thể có - trên hết ở các giai đoạn nhất định trong đời sống của Mẹ - dấn ấn như Thánh Veronica Giuliani,
Là "Con người của thập giá". Nhưng Mẹ chưa bao giờ nghĩ về điều đó, việc tìm kiếm chính mình theo cách của nó trong đường vương giả này; một trong những lời cầu nguyện yêu thích của Mẹ là một bài ca của đức tin, niềm tín thác vào dấu hiệu được chúc phúc này: "Ôi Thánh Giá, con đường Hy vọng duy nhất của chúng tôi", Mẹ thường xuyên lặp đi lặp lại, như Mẹ sáng lập đáng kính của chúng ta.
Mẹ M.Mélanie-Rose đã trưởng thành trong đau khổ, ân ban của cá nhân Mẹ do những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, khi vào năm 1908, cùng với Mẹ M. de S. Jean, Mẹ tiếp đón Cha Raphael là người đến để chuẩn bị cho sự hiệp nhất giữa "Gia đình của Đức Maria" với Hội Dòng, vì nó liên hệ đến cuộc đời người Cha tốt lành của chúng ta.
Trong giai đoạn này, Mẹ đã chứng tỏ mình là một sự hỗ trợ cho Bề Trên của mình, bởi ý thức trách nhiệm của Mẹ và những ân ban của Mẹ cho gia đình. Đến năm 1924 Mẹ ở lại ở miền Bắc (nước Nga).
Trong tất cả sự thật - theo lời của Mẹ M.Marguerite – người mà chúng ta ngưỡng mộ và tôn kính đã nói về điều giá trị này "Tâm hồn Mẹ với một đức tin anh dũng, can đảm trong thời gian thử thách, với sự quảng đại không giới hạn, với sự vâng phục hoàn hảo, cũng như dành tâm trí và trái tim nhiều nhất cho Bề Trên Tổng Quyền của Mẹ".
Trong những ngày thảm họa hủy hoại nhà cửa và các hoạt động ở miền Bắc, Sự quả quyết và hướng dẫn đầy giá trị của Mẹ, sự can đảm và quên mình của Mẹ đã tác động trên tất cả mọi người. Mẹ M. Saint Michel gọi Mẹ đến Rome vào năm 1925. Đức Vâng phục đã lên tiếng, và Mẹ M. Mélanie-Rose tín thác vào ân sủng. Sau đó, Mẹ được bổ nhiệm làm Bề trên cộng đoàn Annunziata (nhà tập của Áo), và sau Tổng Tu nghị năm 1926, là Giám tỉnh của Tỉnh Dòng Truyền Tin.
Lòng nhiệt thành của Mẹ cho các linh hồn đã được gieo vãi thêm một lần nữa, và Mẹ nhìn thấy mùa thu hoạch đầy trái chín, phong phú những hứa hẹn, trong phần cánh đồng bị bỏ hoang giữa địa bàn của một Tỉnh Dòng rộng lớn. Ngày 15 tháng 7 năm 1937, tại nhà Regina Missionuim ở Warsaw, các bông hoa hồng vàng do Mẹ M. Marietta đặt trên đầu của Mẹ thay cho Mẹ M. Marguerite, Mẹ M. Marietta là người mừng lễ Kim Khánh ngày hôm sau do các “Hoàng tử” của Giáo Hội Ba Lan, đánh dấu đỉnh cao của thời điểm sống trong hòa bình và thịnh vượng.
Năm 1939, tại Budapest, Mẹ M.Mélanie xin Mẹ M. Marguerite nhập đoàn với những ai ở miền Bắc (Ba Lan) cùng với các chị em đang bị đe dọa bởi nguy hiểm, dù thấy trước những gì trong thực tế đã xảy ra. Do những gì làm đau lòng Mẹ mà Mẹ đang trải qua khi toàn Tỉnh Dòng bị bao phủ bởi sự đau khổ khi nghe báo các nạn nhân tại Katscher, Budapest, dẫn đến sự đổ nát của Labunie và thiệt hại nghiêm trọng tại Saint-Leopold ở Vienna!
Sau đó lại bị bắt buộc sơ tán khỏi Warsaw và sẽ không bao giờ nghe được về thực tế đáng kinh hoàng của những người ở đó trong suốt 8-9 tuần của thời gian tháng 8- 9 năm 1944! Họ sẽ được nói đến cách xứng đáng như trang sách Tông đồ Công vụ - Mẹ M.Mélane-Rose lâm bệnh nặng, nhưng "dù sao vẫn sống còn, cơ thể Mẹ bị kiệt sức, Mẹ đã tỏa chiếu ngọn lửa siêu nhiên của một sự khiêm nhường sâu sắc và lòng bác ái không mệt mỏi". Lời khuyên của Mẹ, những hướng dẫn quả quyết của Mẹ là kết quả từ kinh nghiệm của Mẹ, tiếp tục duy trì và khích lệ những con cái mà Mẹ có thể nói chuyện với họ.
Ngay trong ngôi nhà Regina Missionum là nơi cộng đoàn có thể tái thiết lại mặc dù tòa nhà bị thiệt hại nghiêm trọng, được chăm sóc cách tốt nhất có thể bởi chính chị em, đó là nơi Mẹ M.Mélanire-Rose trải qua những tháng cuối của cuộc đời Mẹ, chịu đựng những đau khổ của Mẹ ngày càng nhiều và nhiều hơn nữa như bị đóng đinh, với một sự kiên nhẫn không bao giờ chùn bước.
Mẹ M.Mélanie-Rose biết cách thông truyền sự hăng hái và niềm tin sâu sắc của Mẹ cho những người xung quanh mình, và người ta có thể khẳng định mà không sợ hãi, rằng trong nhiều hoàn cảnh Mẹ đã được tưởng thưởng sự bảo vệ thiêng liêng, đó là điều hiển nhiên trong một Tỉnh Dòng phải cố gắng nhiều vì chiến tranh. Mẹ yêu thích quả quyết về niềm tin này bằng những lời đầy tin tưởng không thể lay chuyển được, mà Mẹ M. de St.Jean đã thường xuyên lặp đi lặp lại: "Trong Chúa là hy vọng của tôi, tôi sẽ không bao giờ phải hổ ngươi! "Và như vậy sức mạnh của Mẹ được tìm thấy nơi Thiên Chúa, được soi sáng bởi một tình yêu tuyệt vời dành cho Đức Mẹ là Đấng bào chữa tốt lành, không thể bị suy yếu.
Lòng quảng đại của Mẹ nở rộ từ điều này. Chịu trách nhiệm về các linh hồn, sự cương quyết của Mẹ đặt họ vào con đường đúng đắn, với một tình yêu của người mẹ hiền khiến cho người khác chấp nhận lời khuyên của Mẹ với thiện ý, vì mọi người đều biết rằng chỉ có tình thương và không có bất cứ điều gì có thể làm thay đổi của tình thương của Mẹ dành cho mỗi người. Trong sự tưởng tượng các nhân đức anh hùng của Mẹ, theo gương Thầy Chí Thánh của mình, là Chúa Giê-su, điều ấy được nói đến trước tiên bởi gương sáng của Mẹ. Mẹ M.Marguerite de SC cho biết : "Mẹ là gương mẫu, là người hỗ trợ, là một người mẹ chu đáo, không bao giờ thất bại trong việc nâng các linh hồn lên với Thiên Chúa."
(Lịch sử Hội Dòng năm 1947, p.25j)