NHỮNG KHỞI ĐẦU TẠI ÚC TỪ NĂM 1941
Chúng ta bắt đầu ở Châu Á, rồi Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ; chỉ còn lại Châu Đại Dương chưa hiện diện. Hơn nữa, kể từ khi tôi trở thành một Phan Sinh, tôi đã luôn dâng việc Hiệp lễ của mình vào ngày thứ năm để xin cho Hội Dòng có thể được tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể trong khắp năm phần của thế giới. [1]
Đại hội Thánh Thể Quốc tế được tổ chức tại Sydney năm 1928 đã thúc đẩy chuyến viếng thăm Úc sớm nhất của FMM được ghi nhận. Đại hội đã giúp các sản phẩm của các phòng làm việc FMM ở Trung Quốc được biết đến với một phái đoàn toàn cầu gồm các linh mục, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trên toàn thế giới, cũng như thu hút sự bảo trợ của địa phương. Hơn nữa, điều phù hợp nhất là các thành viên của một Hội Dòng truyền giáo dành riêng cho việc Thờ phượng Thánh Thể được tham dự một sự kiện như thế, không chỉ được đánh dấu bằng các chức năng dân sự hài hòa mà còn bởi các biểu hiện của đức tin và sự thờ phượng sâu sắc. [2]
Các FMM tham dự đại hội này đến từ Trung Quốc, là M. de la Merci (Henriette van Oost, người Hà Lan) và M. Lioba du Précieux Sang (Bertha Otto, người Áo). Tổng cộng, tại ba tỉnh của Trung Quốc vào năm 1931, có 998 công nhân đã hỗ trợ gia đình họ bằng cách làm việc tại các nhà máy này, không kể 134 trẻ mồ côi được học về các kỹ năng thêu và làm ren. [3] Các chị em làm công việc bán các sản phẩm [4] đã thực hiện chuyến đi ba tuần tới Úc bằng tàu P&O ba lần từ năm 1928 đến 1931. Với bạo lực ngày càng gia tăng trên lục địa Trung Quốc, Chiến dịch Trường Thành từ 1930-34, sau đó là cuộc xâm lược Trung Quốc cũ của Nhật Bản tại Jehol; vào ngày 6 tháng 9 năm 1933, M. Carla Elena, Giám đốc của Bệnh viện Đa khoa Thượng Hải, đã yêu cầu các giám mục Úc chấp nhận một chuyến đi xa hơn vào năm 1934 để gây quỹ cho các tu viện, trường học, bệnh viện và trại phong tại Trung Quốc. [5]
Mẹ M. de la Merci đã viết hơn một lần cho Bề trên Tổng Quyền về mong muốn của Mẹ cho Hội Dòng có mặt ở Úc, có kể ra sự quảng đại và đức tin của người dân và cũng có khả năng để tiếp đón các ơn gọi. Do đó, bất chấp sự bất ổn lớn trên thế giới, cộng đoàn FMM đầu tiên được thành lập tại Úc vào năm 1941 và thêm ba nhà nữa tiếp theo trước khi kết thúc cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương.
Việc tháp nhập FMM đầu tiên ở Úc có thể là với anh em Phan Sinh, vì dòng OFM ở Melbourne đề nghị chị em làm công việc giúp tĩnh tâm cho phụ nữ và có lẽ nên thành lập một nhà trọ. Đức Bernardini, Đại diện Tông tòa và Đức Tổng Giám mục Daniel Mannix tin tưởng sâu sắc vào giá trị của việc Chầu Thánh Thể và mong muốn sự hiện diện của FMM tại Úc. Các cuộc đàm phán kéo theo, nhưng Hội Dòng dự kiến sẽ mua một ngôi nhà gần các anh em hèn mọn ở Sackville Street, Kew, Melbourne và đặt thêm một nhà nguyện. Quyết định cuối cùng là Hội Dòng lúc đó không đủ khả năng mua nơi này.
Chủng viện khu vực Pius XII, Banyo, Brisbane
Đức Tổng Giám mục Giovanni Panico là Đại diện Tông tòa vào tháng 6 năm 1939 và ngài đã biết đến Hội Dòng tại Nam Mỹ. Ngài thông báo cho M. Marguérite du Sacré Coeur về một chủng viện khu vực được lên kế hoạch cho năm sau tại Queensland. Các giám mục Úc đã yêu cầu Đức TGM Panico tìm kiếm một nhóm nữ tu đến làm việc tại chủng viện. Vị Đại diện Tông tòa mạnh mẽ khuyên BTTQ FMM nhân cơ hội này để vào Úc. Ngài viết rằng đây sẽ là một khởi đầu khiêm tốn, nhưng nó sẽ góp phần đào tạo các linh mục cho một nơi vẫn được coi là vùng truyền giáo. Hơn nữa, khi quen biết với các giám mục của Queensland, Hội Dòng sẽ có cơ hội tốt để kịp thời mở những ngôi nhà khác. FMM bắt đầu tại Chủng viện Banyo vào tháng 3 năm 1941 và trung thành phục vụ cho hầu hết các nhu cầu vật chất của nhiều nhóm chủng sinh từ đó cho đến khi Hội Dòng rời khỏi Banyo vào ngày 24 tháng 7 năm 1975. Cuộc chia tay của chị em được tổ chức sau lễ kỷ niệm Ngân khánh rất vui của các chủng sinh chịu chức năm 1950.
Tập Viện Kalinga
Đó là do tác động của các chị em trong chủng viện, các thiếu nữ trẻ đã sớm bị thu hút bởi đoàn sủng và mong muốn được gia nhập Hội Dòng. Do đó, vào ngày 10 tháng 11 năm 1944, một Tập Viện được mở tại St Anne, Kalinga, không quá xa Banyo. Chị Giáo tập là M. Frances Margaret of the Sacred Heart (Marie Keogh, Ailen). Chị đến từ Ấn Độ qua Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 9 năm 1945, vì các tuyến đường bình thường vẫn bị chặn do chiến tranh. Người Úc đầu tiên gia nhập Hội Dòng là chị Patricia White (M. Frances Teresa của Hài nhi Giêsu). Chị đã đến Kalinga mặc quân phục của một thành viên phụ trợ của Không quân Úc, vì ngày xuất ngũ chính thức của chị vẫn chưa đến! Patricia đã qua nhiều năm cho sứ vụ truyền giáo ở Sri Lanka và Papua New Guinea, và ngày nay là một thành viên tại Nhà Đức Mẹ an ủi, Rooty Hill, Sydney.
Giáo xứ St Anne tại Kalinga có một chi nhánh của Hiệp hội Liên đới vì Trẻ em của Đức Maria, trong đó chị Teresa Bailes là một người làm văn phòng; chẳng bao lâu Chị đã nộp đơn xin vào Dòng. Khi Chị M. Frances Margaret đến Kalinga, mười hai đơn đã được nhận vào Tiền tập viện, đến từ khắp nước Úc và thậm chí là từ New Zealand. Teresa Bailes phục vụ từ năm 1951 với tư cách là một chị điều dưỡng ở Sri Lanka và sau đó trở thành Giám tỉnh của Tỉnh dòng Úc và Papua New Guinea. Chị qua đời tại Sydney năm 2018.
Xét nghiệm phết cho bệnh phong
Số lượng các thiếu nữ trẻ mong muốn gia nhập Hội Dòng tăng nhanh và chẳng mấy chốc, những người đưa thư và người mới ra khỏi nhà bên cạnh Nhà thờ Kalinga. Vì vậy, Tập Viện đã được chuyển đến Mittagong ở Tây Nam của New South Wales vào tháng 7 năm 1947. Tất cả các vật liệu của Xưởng làm việc (atelier) đã được đưa đến Mittagong, vì đây là nguồn thu nhập duy nhất của Hội Dòng tại Úc vào thời điểm đó. Do đó, chị em rời khỏi St Anne's, Kalinga, một số người được chuyển đến Coorparoo, Brisbane, cộng đoàn lấy danh hiệu 'St Anne' khi mở bệnh viện cho trẻ em bị bệnh và tàn tật vào ngày 7 tháng 10 năm 1951. Trước khi đóng lại câu chuyện ở Kalinga, một sự kiện lịch sử phải được nhắc lại. Bảy chị em FMM khấn tạm đã tập trung tại Kalinga để chuẩn bị cho chuyến đi đến Ấn Độ và Ceylon (Sri Lanka). Vào ngày 2 tháng 3 năm 1951, một nghi thức khởi hành hoành tráng đã được tổ chức tại Nhà thờ St Stephen, đây là lần đầu tiên của loại cử hành này ở Brisbane. Những người ra đi là: Kathleen Baskerville, Roma Sulter, Joan Green, Mary Agnes Lane, Marie Fitzgerald, Teresa Bailes và Eva Watt.
Đảo Fantome và Đảo Palm, 1944, 1945
Sự hiện diện của nhiều chị em đến từ Canada và các nơi khác đã có thể đáp ứng yêu cầu mở các cộng đoàn với người bản địa Úc, là các thổ dân Úc.
Một Hội Dòng Úc trẻ trung, dòng các Nữ tu Đức Mẹ Phù hộ các Kitô hữu, làm việc tại trại phong ở đảo Fantome và trên đảo Palm trong ba năm cho đến năm 1944-1945 khi Dòng FMM nhận trách nhiệm cho cả hai sứ vụ. Văn hóa thổ dân Úc là văn hóa bản địa tồn tại lâu nhất trên thế giới. Cách đối xử, quản lý và phát triển những người này là một câu chuyện đáng tiếc ở Úc trước đây (và hiện tại), với rất ít thành viên có thể sống theo các giá trị văn hóa và phong tục thuần túy. Ngoài ra, sự phát triển của thổ dân không được coi là ưu tiên trong Giáo hội Công giáo Úc.
Đảo Fantome, nằm trong Rạn san hô Great Barrier, là địa điểm Trại phong của Chính phủ Thuộc địa khi các chị em FMM đến đó vào ngày 31 tháng 3 năm 1944. So với các bệnh viện phong khác ở Úc vào năm 1939, Đảo Fantome là một tổ chức có tiêu chuẩn thấp với ít tài nguyên được Chính phủ cung cấp, có lẽ vì nó rất xa và hầu hết các tù nhân đều là thổ dân. Cho đến khoảng năm 1949, việc điều trị bệnh phong còn rất bảo thủ, sử dụng các loại thuốc bôi và tiêm dầu chaulmoogra. Việc điều trị và dự báo bệnh đã thay đổi hoàn toàn với sự ra đời của thuốc ‘sulphone’ từ năm 1949.
Bệnh nhân cũ đến thăm chị em năm 1954
Khi FMM đến đảo Fantome, các cơ sở sạch sẽ và rộng rãi, với những khu vườn đã được bài trí. Mặc dù bối cảnh ở xa và giao tiếp khó khăn, nhưng người ta có cảm giác từ tài liệu của thời gian này rằng thái độ chính được quan tâm nhiều hơn so với những người ở đảo Palm, nơi mọi người cảm thấy rằng họ đang bị trừng phạt. Một thực tế nổi tiếng là thịt được cung cấp từ Townsville cho Fantome có chất lượng vượt trội so với thịt được gửi đến Đảo Palm.
Trong những năm qua, các điều kiện được cải thiện, sự kỳ thị liên quan đến bệnh phong đã giảm dần và việc liên lạc với lục địa Úc dần dần tăng lên. Đến năm 1971 chỉ còn mười bệnh nhân trên đảo, một nửa trong số họ đang ở giai đoạn tiến triển của bệnh. Các FMM cuối cùng trên đảo là chị Germaine Bellemare, Eileen Keenan và Rita Aubé. Và cộng đoàn đó đã giải thể vào ngày 12 tháng 8 năm 1973 khi Bệnh viện Phong bị đóng cửa. Năm bệnh nhân cuối cùng còn lại đã được chuyển đến một phần sáp nhập của Bệnh viện tại đảo Palm. [6]
Đảo Palm (Cây cọ)
Công việc FMM đầu tiên là tại Trường tiểu học St Michael, nơi các chị em làm việc cực kỳ vất vả nhưng phải đối mặt với những thách thức to lớn, vì hệ thống giáo dục hoàn toàn không thích ứng với lối sống của người dân bản địa. Chẳng hạn, khi thủy triều lên, một phần sân trường bị ngập; hãy tưởng tượng phản ứng của chị em khi tất cả các học sinh nhảy ra khỏi cửa sổ và bơi! Các chị cũng làm việc mục vụ giáo xứ, thăm viếng tại nhà và dạy giáo lý. Kinh nghiệm của người dân đảo Palm kể từ khi họ tiếp xúc với người châu Âu chủ yếu là tiêu cực và đảo Palm được họ coi là một nơi ‘trừng phạt’. Trên thực tế, đó là một khu bảo tồn thổ dân dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ. Những người thổ dân không được phép uống rượu, nhưng rượu được giao thường xuyên bằng xà lan cho các nhân viên châu Âu cư trú trên đảo. Một lần, khi dỡ rượu từ xà lan, những người đàn ông thổ dân làm công việc chân tay, đã tìm cách thả hết tất cả xuống biển! Một tai nạn thật hy hữu!
Trại phong, tu viện, nhà thờ và nhà xứ -1960
Nhiều năm trôi qua, chị em đã tham gia vào nhiều khía cạnh khác của đời sống người dân, phục vụ trong Nhà Dưỡng Lão, làm công việc mục vụ, thăm tù nhân, hỗ trợ các nhóm Nghiện rượu Ẩn danh và nói chung là thức tỉnh mọi người về các vấn đề công lý và hòa bình. Trong trường học, chị em cũng điều chỉnh phương pháp giảng dạy theo nhu cầu và sở thích của học sinh, nhằm mục đích cung cấp một trường thực sự cho Thổ dân, nơi học sinh có thể tự hào về danh tính của mình.
Một sự phát triển FMM khác là mở các nhà lưu xá cho nam và nữ sinh ở Townsville và Mount Isa để người dân đảo có thể học trung học có được được sự giám sát và hướng dẫn khi ở xa nhà. Nhiều chị em FMM cảm nhận sâu sắc sự thất vọng của những người dân có lịch sử áp bức lâu dài tiếp tục bị kìm hãm sự phát triển của họ. Đến năm 1982, chính quyền địa phương được trao cho Hội đồng cộng đồng của Đảo Palm; tuy nhiên, cơ quan này không có tư cách và quyền lợi như các Hội đồng Shire khác của Bang Queensland. Từ năm 2004, chính quyền địa phương đã nằm trong tay Hội đồng thổ dân Shire của đảo Palm, hoàn toàn ngang hàng với các Hội đồng Shire khác ở Queensland. Hội Dòng vẫn hiện diện ở đảo Palm cho đến năm 2011.
[1] Bút Ký, chương 34, (FMM xuất bản). Thư của M.M. de la Passion gởi cha Bernadino de Portogruaro OFM, c. 10-20 / 3/1892.
[2] Báo Người ủng hộ Công giáo, ngày 20 tháng 9 năm 1928.
[3] M. Notre Dame de Déols, ‘Lịch sử của Hội Dòng FMM, p1055.
[4] Thuật ngữ được sử dụng bởi FMM ở Úc để nài xin hoặc tìm kiếm sự quyên góp, đặc biệt là để đổi lấy hàng thủ công.
[5] Thư của M. Carla Elena fmm gửi Đức Tổng Giám mục Duhig, 6.09.1933. Văn khố của Tổng Giáo phận Brisbane.
[6] Thư của Giám đốc Sự Vụ cho Thổ dân gửi cho Bề trên dòng FMM, Tu viện Đức Mẹ Vô nhiễm, Đảo Fantome, đóng cửa bệnh viện phong, 7.12.1970. Văn khố Tỉnh dòng.
Văn Phòng Lịch Sử tại Úc